Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

“Vai trò của văn hóa trong việc hoàn thiện nhân cách và lối sống của sinh viên trường Đại học Bách Khoa Hà Nội”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.69 KB, 61 trang )

Mục lục

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 1961, trong bài trả lời phỏng vấn phóng viên báo Nhân đạo tại Hà Nội, trước câu hỏi về
nguyên nhân làm nên sức mạnh kỳ diệu của nhân dân trong chín năm kháng chiến chống Pháp
để bảo vệ chính quyền non trẻ cũng như khí thế mãnh liệt của dân tộc Việt Nam trong cơng
cuộc xây dựng đất nước sau khi hịa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định: “Nhân dân nước chúng tơi có ý chí phi thường là do lịng tự trọng muốn sống
làm người chứ không chịu làm nô lệ. Điều này cũng đúng với những nhà tri thức nước chúng
tôi thiết tha với nền văn hóa dân tộc…Có lẽ phải để lên hàng đầu những cố gắng của chúng tôi
nhằm phát triển văn hóa… Nền văn hóa nảy nở hiện thời là điều kiện cho nhân dân chúng tôi
tiến bộ”1. Lời khẳng định đó của Người đã nói lên vai trị quan trọng của văn hóa trong cơng
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như trong công cuộc hịa bình xây dựng chủ nghĩa xã
hội sau này.
Ngày nay, nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của văn hóa ở nước ta được nâng lên đúng
với giá trị đích thực của nó (Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban chấp hành Trung ương
khóa VII ): “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”2, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một
dân tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với người, với xã hội
và với thiên nhiên. Văn hố có vai trị vơ cùng to lớn trong việc hình thành nhân cách, lối sống
của con người Việt Nam nói chung, sinh viên Việt Nam nói riêng. Hàng loạt các giá trị mới
được hình thành, góp phần làm đa dạng, phong phú lối sống của các tầng lớp nhân dân, trong
đó có đội ngũ sinh viên nước nhà, đặt ra nhiệm vụ xây dựng nhân cách và lối sống của sinh
viên, lực lượng đóng vai trò to lớn trong việc phát triển đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng nhân cách và lối sống của sinh viên phải dựa vào văn hóa.Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 9, khóa XI xác định rằng: “Phát triển văn hóa vì sự hồn thiện nhân cách con
người và xây dựng con người để phát triển văn hóa”. Chính vì vậy, nói tới nguồn lực văn hóa
phải nói đến nguồn lực con người, vì con người là nhân tố quan trọng, là chủ thể sáng tạo ra nền
văn hóa.


1 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011,t. 13, tr. 190
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 57 ( 1998 ), Nxb.Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr.303

1


Vẻ đẹp, sức mạnh, trí tuệ của con người Việt Nam là những phẩm chất, đức tính quý báu cần
được phát huy. Trong chiến tranh cách mạng, người Việt Nam từng làm nên những chiến công
vĩ đại, trở thành biểu tượng của hịa bình, lương tâm của thời đại, được bạn bè quốc tế cảm
phục, mến mộ, tự hào.
Và trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, những phẩm chất tốt đẹp về lịng u nước,
bản tính cần cù, chịu khó, sự thơng minh, hiếu học, nỗ lực sáng tạo không ngừng cùng với tinh
thần nhân ái, khoan dung. Văn hóa vẫn đang được phát huy, trở thành động lực to lớn để thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Bên cạnh đó, với số dân hơn 90 triệu, chủ yếu ở độ tuổi “lao
động vàng”, lực lượng lao động trẻ, năng động, có tay nghề, chịu khó học hỏi, tiếp thu kinh
nghiệm của thế giới… là những tiềm năng, thế mạnh về nguồn lao động dồi dào, nhân lực rẻ,
thu hút nguồn đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài. Mặt khác, sự gia tăng, lớn mạnh của đội
ngũ những nhà khoa học trẻ, những nhà nghiên cứu có tài đang dần thúc đẩy sự hình thành,
phát triển nền kinh tế tri thức. Nhưng trên hết, những vẻ đẹp về lòng nhân ái, khoan dung, yêu
chuộng hòa bình, cách ứng xử lịch thiệp, trọng tình, vẻ đẹp nhã nhặn, xinh xắn, duyên dáng của
những cô gái Việt với những tà áo dài thướt tha, sự đồng lòng, chung tay giúp đỡ các quốc gia
khi gặp hoạn nạn, khó khăn là những thế mạnh tạo thành nguồn lực “sức mạnh mềm” để thu
hút, chinh phục được tình cảm và sự giúp đỡ, quý mến của các nước anh em .Qua đây ta thấy rõ
mối liên hệ bên trong mật thiết, gắn bó chặt chẽ, khơng thể tách rời giữa văn hóa với con người,
giữa con người với văn hóa, về thực chất, phát triển văn hóa là phát triển con người, lấy phát
triển con người là trọng tâm. Phát triển con người không chỉ tạo ra chất lượng nguồn nhân lực
để phát triển văn hóa mà con người với năng lực sáng tạo, trình độ học vấn, tiềm lực trí tuệ,
phẩm giá đạo đức, lối sống của nó, tựu trung lại là sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của
con người là tính hướng đích, là mục đích, mục tiêu của phát triển văn hóa.
Vì những lí do trên, nhóm chúng em đã chọn vấn đề: “Vai trị của văn hóa trong việc hồn

thiện nhân cách và lối sống của sinh viên trường Đại học Bách Khoa Hà Nội” làm đề tài
nghiên cứu khoa học của mình. Đây cũng là một việc làm thiết thực hướng tới kỉ niệm 60 năm
ngày thành lập trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề
tài, chúng em nhận được sự giúp đỡ tận tình của cô Lương Thị Phương Thảo và các thầy cô
trong bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng em xin chân thành
cảm ơn các thầy các cơ!
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề đạo đức xã hội nói chung, nhân cách và lối sống sinh viên nói riêng đã và đang thu hút
sự quan tâm của toàn xã hội, của các nhà nghiên cứu, đặc biệt những năm gần đây khi quá trình
hội nhập quốc tế ngày một trở nên sâu rộng thì sự quan tâm đó càng trở nên sâu sắc hơn. Đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều cuộc hội thảo, sách báo về vấn đề đạo đức xã hội, sự biến

2


đổi thang giá trị đạo đức xã hội nói chung và lối sống của học sinh, sinh viên nói riêng. Trong
những cơng trình đã cơng bố, có thể kể đến những cơng trình tiêu biểu như:
1. Trần Sỹ Phán (1999), “Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh
viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, luận án tiến sỹ triết học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, đã đi sâu phân tích đặc điểm nhân cách sinh viên, trong đó khẳng định “nhân
cách sinh viên là nhân cách chưa hoàn chỉnh, đang trong giai đoạn định hình” vì vậy, sự biến
đổi đạo đức diễn ra ở tầng lớp xã hội đặc thù này là một tất yếu. Trên cơ sở đó tác giả tập trung
phân tích vai trị của giáo dục - nhất là giáo dục đạo đức - đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách sinh viên Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế.
2. Viện nghiên cứu phát triển giáo dục - Bộ Giáo dục & Đào tạo,“Đặc điểm lối sống sinh viên
hiện nay và những phương hướng, biện pháp giáo dục”. Cơng trình này đã xác định khái
niệm lối sống sinh viên và nêu ra một hệ thống những đặc điểm chủ yếu của lối sống sinh viên
được biểu hiện qua định hướng giá trị, trong các hoạt động cụ thể, trong hành vi giao tiếp ứng
xử và trong sinh hoạt cá nhân. Điều đáng chú ý nhất của cơng trình này là tác giả đã tiến hành
điều tra khảo sát, thống kê số liệu để phân tích các biểu hiện tích cực và tiêu cực trong lối sống

của sinh viên. Để từ đó, tác giả đưa ra phương hướng và những giải pháp nhằm giáo dục lối
sống cho họ. Tác giả khơng chỉ trình bày lý luận về lối sống sinh viên mà còn tiếp cận lối sống
sinh viên bằng những phương pháp nghiên cứu cụ thể, mô tả các biểu hiện cụ thể của lối sống
sinh viên trong cuộc sống hiện thực của họ. Đây là một bước tiến mới trong nghiên cứu lối sống
sinh viên.
3. Vũ Thị Huê (2012), “Giáo dục đạo đức mới với sự hình thành, phát triển nhân cách thế hệ
trẻ ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành triết học. Luận văn làm rõ vai trị của
giáo dục đạo đức mới trong việc hình thành phát triển nhân cách thế hệ trẻ. Phân tích thực trạng
giáo dục đạo đức mới trong việc hình thành, phát triển nhân cách thế hệ trẻ hiện nay ở Việt
Nam và nguyên nhân của nó. Đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao hiệu quả giáo dục đạo đức mới với việc hình thành, phát triển nhân cách của thế hệ trẻ hiện
nay ở Việt Nam.
4. Bùi Thị Thanh Huyền (2009),“Sự biến đổi đạo đức của sinh viên Việt Nam hiện nay”, luận
văn thạc sĩ triết học, (Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị). Luận văn
nghiên cứu vai trị của sinh viên trong đời sống xã hội và các đặc điểm cơ bản của đạo đức sinh
viên. Phân tích thực trạng sự biến đổi đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay cũng như các nhân
tố tác động đến sự biến đổi đó. Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy những biến đổi
tích cực và hạn chế những biến đổi tiêu cực trong đời sống đạo đức sinh viên Việt Nam hiện
nay.
5. Nguyễn Thị Thanh Hà (2014), “Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc với việc xây dựng lối
sống mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay”, luận án tiến sĩ triết
học, (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh). Luận án làm rõ tầm quan trọng, thực trạng
việc phát huy các giá trị đạo đứctruyền thống dân tộc trong việc xây dựng lối sống mới cho sinh

3


viên. Từ đó,đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trịđạođức
truyền thống đối với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên ViệtNamtrong bối cảnh tồn cầu
hóa hiện nay.

6. Viện Khoa học xã hội Việt Nam(2013), “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - vấn đề và giải
pháp”, trên cơ sở phân tích, mổ xẻ hiện thực cuộc sống trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, cơng trình nghiên cứu này đã phác họa một cách trung thực và khá
toàn diện toàn cảnh bộ mặt đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay trên cả hai phương diện tích cực
và tiêu cực với những số liệu điều tra xã hội học phong phú, thuyết phục, làm hiện rõ thực trạng
đạo đức của cán bộ, đảngviên, công chức, thanh niên, đạo đức trong lao động, giao tiếp và đạo
đức tronggia đình. Từ đó các nhà khoa học đã chỉ ra nguyên nhân suy thoái đạo đức trong xã
hội và đề xuất phương hướng, giải pháp xây dựng đạo đức xã hội.
7. GS, TS Trần Văn Bính,“ Xây dựng văn hóa đạo đức và lối sống văn hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường và hội nhập quốc tế ”.Kinh tế thị trường và tồn cầu hóa là những xu thế khách
quan, tất yếu đối với mọi quốc gia, dân tộc, tác động tích cực tới sựphát triển của xã hội, không
chỉ trên lĩnh vực sản xuất vật chất, mà cả lĩnh vực sản xuất tinh thần.... Chúng ta chậm nhận
thức ra mặt trái của kinh tế thịtrường và tồn cầu hóa về phương diện sản xuất tinh thần, đặc
biệt về đạo đức, lối sống, do đó chưa có những đối sách cần thiết và hữu hiệu. Vì những lý do
đó mà tác giả đưa ra những giải pháp nhằm xây dựng văn hóa đạo đứcvà lối sống có văn hóa ở
nước ta hiện nay.
8. Lưu Thu Thủy, “Thực trạng và giải pháp giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống cho
học sinh, sinh viên Việt Nam”,bài trong kỷ yếu Hội thảo quốc gia. Trên cơ sở thực trạng đạo
đức, tư tưởng, lối sống của thanh niên, sinh viên bài viết đã đưa ra những giải pháp thiết thực
nhằm giáo dục, kế thừa và phát huy giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên.
Nhìn chung, các cơng trình trên trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến sự hình thành, biến đổi
về nhân cách và lối sống con người nói chung, sinh viên nói riêng; đồng thời một số cơng trình
có đóng góp lớn trong việc tìm ra những giải pháp trong việc xây dựng nhân cách cho sinh viên.
Vì vậy việc kế thừa kết quả nghiên cứu đã đạt được có một ý nghĩa nhất định trong việc thực
hiện đề tài nghiên cứu khoa học này.Có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về văn hóa, nhân cách,
lối sống và vai trị của văn hóa đối với việc hình thành nhân cách con người, tuy nhiên, cho đến
nay chưa có cơng trình nào nói đến “Vai trị của văn hóa trong việc hình thành nhân cách và lối
sống của sinh viên trường Đại học Bách Khoa Hà Nội”. Cơng trình nghiên cứu khoa học này
khơng chỉ nói lên mối liên hệ giữa văn hóa, nhân cách và lối sống mà cịn nêu lên những nhân
tố tác động tới việc hình thành nhân cách, lối sống của sinh viên. Trên cơ sở đó đưa ra những

giải pháp nhằm hồn thiện nhân cách và lối sống của sinh viên Đại học Bách Khoa Hà Nội nói
riêng.

4


3. Mục tiêu đề tài
3.1 Mục tiêu tổng quát
Làm rõ tầm quan trọng việc phát huy vai trò của văn hóa trong việc hình thành nhân cách, lối
sống của sinh viên.Từ đó, đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu góp phần hồn
thiện nhân cách, lối sống cho sinh viên đại học Bách Khoa Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
3.2 Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm của văn hóa, lối sống và nhân cách.
- Xác định và phân tích những nhân tố tác động đến việc nhân cách, lối sống của sinh viên đại
học Bách Khoa Hà Nội.
- Đánh giá thực trạng về sinh viên Đại học Bách Khoa Hà Nội hiện nay.
- Đề xuất phương hướng, một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nhân cách, lối sống của sinh
viên trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Cơ sở lý luận
Đề tài chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, đạo đức, giá trị đạo đức truyền thống,
về lối sống và xây dựng lối sống mới. Đồng thời đề tài kế thừa có chọn lọc những thành tựu của
một số cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, các quan
điểm có ý nghĩa phương pháp luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng.
Trong đó, sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hết sức quan trọng. Ngồi ra
cịn có sử dụng các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp và diễn dịch,
cụ thể hóa, trừu tượng hóa, điều tra xã hội học… thích hợp với từng nội dung. Trong đề tài này,

chúng em đã sử dụng kết hợp thống nhất các phương pháp chủ yếu sau:
Phương pháp lịch sử và lôgic
Phương pháp lịch sử là phương pháp phổ biến, cơ bản nhất, nghiên cứu sự vật, hiện tượng theo
trình tự thời gian, theo quá trình diễn biến đi từ phát sinh, phát triển đến kết quả của nó. Phương
pháp logic là hết sức quan trọng trong nghiên cứu đường lối cách mạng của Đảng, nghiên cứu
một cách tổng quát nhằm tìm ra bản chất của sự vật, hiện tượng và khái quát thành lý luận.

5


Phương pháp trừu tượng hóa khoa học
Đề tài mang tính chất khoa học xã hội khái quát không thể nghiên cứu trong phịng thí nghiệm
mà chỉ có thể thử nghiệm trong đời sống hiện thực. Việc kiểm tra, thử nghiệm cụ thể được tiến
hành trong phạm vi trường đại học Bách Khoa Hà Nội. Do vậy đề tài sử dụng phương pháp trừu
tượng hóa khoa học, gạt bỏ những yếu tố ngẫu nhiên trong quá trình nghiên cứu, nắm vững bản
chất của hiên tượng để tách ra cái bền vững, điển hình.
Phương pháp điều tra xã hội học và thống kê
Điều tra xã hội học được hiểu là phương pháp thu thập thông tin về các hiện tượng và quá trình
kinh tế - xã hội trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể nhằm phân tích và đưa ra những
kiến nghị đúng đắn đối với công tác quản lý.
Thống kê là hệ thống các phương pháp dùng để thu thập, xử lý và phân tích các con số
(mặt lượng) của hiện tượng kinh tế-xã hội để tìm hiểu bản chất và tính quy luật vốn có của
chúng (mặt chất) trong điều kiện thời gian và không gian cụ thể.
Để thực hiện đề tài, chúng em đã tiến hành điều tra xã hội học bằng cách phát phiếu khảo sát
cho các bạn sinh viên để thu được những câu trả lời khách quan nhất.Sau đó, nhóm em sử dụng
phương pháp thống kê để đưa ra những dẫn chứng về hiện thực để chứng minh cho những luận
điểm trong bài nghiên cứu.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu:
Văn hóa có tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên, trong khuôn khổ đề tài

này, chỉ tập trung vào vai trò của văn hóa, những nhân tố liên quan đến văn hóa có tác động đến
việc hình thành nhân cách và lối sống của sinh viên, những phương hướng và giải pháp trong
bối cảnh hiện nay.
5.2 Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi là sinhviên đang học trong trường đại học Bách Khoa
Hà Nội. Số liệu khảo sát là ở trường đại học Bách Khoa Hà Nội. Đề tài chỉ khảo sát trong thời
gian hiện tại cuối tháng 4 tới đầu tháng 5 năm 2016.
6. Đóng góp của đề tài

- Đề tài góp phần làm rõ khái niệm văn hóa, nhân cách, lối sống.
- Đề tài góp phần xác định rõ tầm quan trọng văn hóa đối với việc hình thành nhân cách và lối
sống của sinh viên đại học Bách Khoa Hà Nội.

6


- Đề tài làm rõ thực trạng nhân cách và lối sống của sinh viên đại học Bách Khoa Hà Nội.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện nhân cách và lối sống cho
sinh viên đại học Bách Khoa Hà Nội.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về văn hóa nhân cách và lối sống
- Chương 2: Tác động của văn hóa đối với việc hồn thiện nhân cách và lối sống sinh
viên trường đại học Bách Khoa Hà Nội.

7


CHƯƠNG I : LÍ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HĨA, NHÂN
CÁCH, LỐI SỐNG

1. VĂN HĨA
1.1 Định nghĩa văn hóa
Ngay từ thuở lọt lịng, chúng ta đã đắm mình trong chất men văn hoá: từ lời ru của mẹ,
bài học của cha, trò chơi của chị… cho đến tiếng gọi đò bên sông, tiếng võng đưa kẽo kẹt lúc
trưa hè, tiếng chuông buông khi chiều xuống… tất cả, tất cả những sự kiện, những ấn tượng,
những âm thanh, những hình ảnh đó,… đều thuộc về văn hóa. Cái tinh thần như tư tưởng, ngơn
ngữ… là văn hố; cái vật chất như ăn, ở, mặc… cũng là văn hố.Chính văn hố đã ni chúng
ta lớn, dạy chúng ta khơn. Người ta cịn nói: văn hóa ẩm thực, văn hố trang phục, văn hố ứng
xử, văn hoá tiêu dùng, văn hoá kinh doanh, văn hóa chính trị, đến văn hố Đơng Sơn, văn hố
Hồ Bình, văn hố rìu vai… Từ “Văn hố” có biết bao nhiêu là nghĩa và nó được dùng để chỉ
những khái niệm có nội hàm hết sức khác nhau nhưng chung quy lại đều bao gồm hai lĩnh vực:
văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Và sau đây là những định nghĩa, khái niệm, nổi bật về
văn hóa.

1.1.1 Theo quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh
Năm 1943, Hồ Chí Minh viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoại hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức
sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hố. Văn hố là sự tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích
ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.Trong định nghĩa này, ta hiểu:
Văn hóa, theo định nghĩa chung nhất, là những giá trị vật chất và tinh thần mà loài người sáng
tạo nên trong q trình lịch sử. Cịn theo cách hiểu thơng thường nhất đó là tồn bộ đời sống
tinh thần của xã hội, bao gồm tư tưởng xã hội, tri thức xã hội, đạo đức xã hội,đời sống và lối
sống xã hội. Văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng nhất là: Sự tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện cuả nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và địi hỏi sự sinh tồn”. Người coi văn hóa là kết quả tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt
của loài người thích ứng với nhu cầu đời sống và địi hỏi của sự sinh tồn.Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, văn hóa là một bộ phận hợp thành tồn bộ đời sống xã hội. Từ nhận thức đó, Hồ Chí
Minh đã chỉ ra: “Kiến thiết xã hội cần bốn lĩnh vực (kinh tế-chính trị-văn hóa- xã hội) cùng

được coi trọng. Trong đó, văn hóa ở vị trí trung tâm có vai trò điều tiết xã hội. Muốn xác định

8


vai trị đó, mọi hoạt động văn hóa phải thực sự hịa quyện, thâm nhập vào cuộc sống mn màu,
mn vẻ của đông đảo quần chúng nhân dân với đầy đủ các mảng tối sáng đầy góc cạnh của nó
làm đối tượng phản ánh và phục vụ. Quan trọng hơn, văn hóa phải: “Thiết thực phục vụ nhân
dân, góp phần vào nâng cao đời sống vui tươi lành mạnh của quần chúng.”3

1.1.2 Theo quan điểm phương Tây
Khái niệm văn hoá của Tylor trong cuốn “Văn hoá nguyên thuỷ” tuy ra đời cách đây đã
lâu (1871), nhưng nó là một khái niệm mang tính kinh điển và vẫn hữu dụng trong nghiên cứu
nhân học văn hố nói chung và nhân học mơi trường nói riêng:
“Một tồn thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, luân lý, luật pháp, phong tục
và tất thảy những năng lực khác nhau và những tập quán khác nhau mà con người hoạch đắc
với tư cách là thành viên của xã hội” hay như định nghĩa của Malinowski cũng vậy: “Văn hóa
bao gồm các quá trình kế thừa về kỹ thuật, tư tưởng, tập quán và giá trị”. L. Kroibơ (A.L.
Kroeber) và C.L. Klúchôn (C. L. Kluckhohn) quan niệm: “Văn hoá là loại hành vi rõ ràng và
ám thị đã được đúc kết và truyền lại bằng biểu tượng, và nó hình thành quả độc đáo của nhân
loại khác với các loại hình khác, trong đó bao gồm cả đồ tạo tác do con người làm ra”.
Khái niệm văn hóa về sau phát triển ngày càng phong phú.Tùy cách tiếp cận khác nhau, cách
hiểu khác nhau, đến nay đã có mấy trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa. Tuy khác nhau,
nhưng các định nghĩa đó đều thống nhất ở một điểm, coi văn hóa là cái do con người sáng tạo
ra, cái đặc hữu của con người. Mọi thứ văn hóa đều là văn hóa thuộc về con người, các thứ tự
nhiên khơng thuộc về khái niệm văn hóa. Văn hóa là đặc trưng căn bản, phân biệt con người với
động vật, cũng là tiêu chí căn bản để phân biệt sản phẩm nhân tạo và sản phẩm tự nhiên.
Tuy nhiên, con người là từ tự nhiên mà ra, không thể tách khỏi tự nhiên để tồn tại và
phát triển.Văn hóa trước hết là một sự thích nghi chủ động và có ý thức của con người với tự
nhiên, đồng thời lại là sự phát triển của sự thích nghi ấy.Với tính cách là một sinh vật, con

người có một bản chất thứ nhất, đó là bản chất tự nhiên. Nhưng với tính cách là một sinh vật có
ý thức và sống thành xã hội thì con người lại có bản chất thứ hai, đó là bản chất văn hóa, vượt
ra khỏi bản chất tự nhiên, điều này đưa đến quan niệm coi văn hóa là tự nhiên thứ hai được hình
thành và phát triển trên cơ sở tự nhiên thứ nhất tự tại: Là văn hóa, những gì khơng phải tự
nhiên.

1.1.3 Theo tổ chức Unesco
Trong Tuyên bố về những chính sách văn hóa tại Hội nghị quốc tế do Unesco chủ trì từ
ngày 26/7 đến ngày 6/8/1982 ở Mexico, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau:
3 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 3, tr.431.

9


“Văn hóa hơm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và
xúc cảm riêng biệt của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm
nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống
các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng”.
Định nghĩa văn hố của UNESCO đi theo hướng tổng hòa, tổng hợp, coi văn hóa là tất cả
những gì do con người tạo ra, bao gồm cả những vấn đề thuộc về tinh thần và những vấn đề
thuộc về vật chất, bất kể tốt xấu, phù hợp hay không phù hợp. Theo định nghĩa này, hệ thống
các giá trị chỉ là một thành tố tạo nên văn hóa. Mơi trường để văn hóa tồn tại, mơi trường hình
thành văn hóa cũng như chủ sở hữu, chủ nhân tạo ra văn hóa là một cộng đồng, một tập thể xã
hội chứ không phải một cá nhân đơn lẻ. Định nghĩa làm nổi bật được những đặc trưng cơ bản
của văn hố là tính nhân sinh, tính lịch sử và tính hệ thống.
Tóm lại, trên bình diện phương pháp luận, xem xét mối tương quan giữa văn hóa và xã hội
có thể lựa ra những cách tiếp cận, những quan điểm về khái niệm của văn hóa khác nhau để phù
hợp với đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu. Mỗi định nghĩa đều có điểm mạnh, điểm
yếu của nó. Có thể nó chỉ đề cập đến một khía cạnh này mà bỏ qua khía cạnh kia của khái niệm
văn hóa. Nhiệm vụ của chúng ta là phải xuất phát từ đối tượng nghiên cứu mà chọn định nghĩa

cho phù hợp, để qua định nghĩa đó nó sẽ giúp chúng ta có thể làm sáng tỏ nội dung cần nghiên
cứu và làm cho việc nghiên cứu thuận lợi và có hiệu quả hơn. Đây chính là điểm mà các nhà
nghiên cứu văn hóa cần nắm vững để tránh bị sa lầy vào một mê hồn trận các định nghĩa khái
niệm khác nhau về văn hóa từ đó làm cản trở cơng việc nghiên cứu của mình.
1.2 Vị trí, chức năng và vai trị của văn hóa
1.2.1 Quan điểm về vị trí trong đời sống xã hội
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội
Theo ý kiến của Nguyên Tổng Giám Đốc UNESCO: Văn hóa phản ánh và thể hiện một
cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) diễn ra
trong quá khứ cũng như diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ
thống các giá trị, truyền thống và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng
của mình.
Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thẩm lượng cho mỗi con
người và trong cả cộng đồng, được truyền lại, nối tiếp và phát huy qua các thế hệ, được vật chất
hóa và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã hội của từng dân tộc (ví dụ: cấu trúc này ở Việt
Nam là cấu trúc nhà - làng - nước). Các giá trị này chi phối hàng ngày đến cuộc sống, tư tưởng,

10


tình cảm của mọi thành viên xã hội bằng mơi trường xã hội- văn hóa (bao gồm văn hóa vật thể
và văn hóa phi vật thể).
Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực
phát triển kinh tế- xã hội. Đó cũng là con đường xây dựng con người mới, xây dựng mơi trường
văn hóa lành mạnh đủ sức đề kháng và đẩy lùi các tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập của tư
tưởng, văn hóa phản tiến bộ. Biện pháp tích cực là đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết
xây dựng cuộc sống văn hóa; đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa, phường xã

văn hóa, cơ quan, đơn vị văn hóa; nêu gương người tốt, việc tốt.
Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển
Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hóa.Sự phát triển
của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp cận cái mới, tạo ra cái mới nhưng lại không thể tách
khỏi cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn. Cội nguồn
của mỗi quốc gia, dân tộc chính là văn hóa.
Kinh nghiệm đổi mới ở nước ta cũng chứng tỏ rằng, bản thân sự phát triển kinh tế cũng không
chỉ do các nhân tố thuần túy kinh tế tạo ra. Nền kinh tế Việt Nam hơm nay có một bước tiến
đáng kể so với thời kỳ thực dân chế độ kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp. Nguyên nhân không
phải chỉ là sự tiến triển tự nhiên của các nhân tố kinh tế, mà còn do sự đổi mới tư duy, đổi mới
chính sách và chế độ quản lý, do sự giải phóng tư tưởng và bước phát triển mới về trình độ,
năng lực của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, cán bộ quản lý và lực lượng lao động.
Nghĩa là động lực của sự đổi mới kinh tế một phần quan trọng làm trong những giá trị văn hóa
đang được phát huy.
Ngày nay, trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi yếu tố
quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế là trí tuệ, là thơng tin, là ý tưởng sáng tạo và đổi mới
khơng ngừng thì một nước trở thành giàu hay nghèo khơng chỉ ở chỗ có nhiều hay ít lao động
và tài nguyên thiên nhiên, mà trước hết là có khả năng phát huy đến mức cao nhất tiềm năng
sáng tạo của nguồn lực con người hay không. Tiềm năng sáng tạo này làm cho các yếu tố cấu
thành văn hóa, nghĩa là trong tri thức, khả năng sáng tạo, trong bản lĩnh tự đổi mới của mỗi cá
nhân và của cả cộng đồng.
Nói cách khác, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao bao
nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội càng hiện thực và bền vững bấy nhiêu. Trong nền
kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào tiêu chuẩn của cái đúng, cái tốt, cái đẹp hướng dẫn
và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay
nghề, sản xuất ra hàng hóa với số lượng và chất lượng ngày càng cao đáp ứng nhu cầu của xã
hội. Mặt khác, văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý dân tộc để hạn

11



chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng bái tiền tệ, nghĩa là hạn chế xu hướng hàng hóa và
đồng tiền xuất hiện với tính cách là lực lượng có khả năng xuyên tạc bản chất con người cũng
như những mối quan hệ khác dẫn đến suy thoái xã hội. Nền văn hóa Việt Nam đương đại, với
những giá trị mới sẽ là tiền đề quan trọng đưa nước ta hội nhập ngày càng sâu hơn và toàn diện
hơn vào nền kinh tế thế giới.
Văn hóa là mục tiêu của phát triển
Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh chính là mục tiêu văn hóa. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011- 2020 xác định:
“Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu
của sự phát triển”4. Đồng thời nêu rõ yêu cầu: “Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng
cuộc sống của nhân dân”5. Phát triển hướng tới mục tiêu văn hóa - xã hội mới bảo đảm sự bền
vững, trường tồn.
Thực tế, mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển là vấn đề bức xúc của mỗi quốc gia. Sau khi
thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, các nước độc lập đang tìm con đường dẫn tới
ấm no, hạnh phúc, thì việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển kinh tế xã hội lại càng có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, trong nhận thức và hành động, mục tiêu kinh
tế vẫn thường là các mục tiêu văn hóa và thường được đặt vào vị trí ưu tiên trong các kế hoạch,
chương trình, chính sách phát triển của nhiều quốc gia, nhất là các nước nghèo đang phát triển
theo con đường công nghiệp hóa. Để làm cho văn hóa trở thành động lực và mục tiêu của sự
phát triển, chúng ta chủ trương phát triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát
triển kinh tế, xã hội. Cụ thể là:
- Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hịa với phát triển kinh tế. Xử lý tốt mối
quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một
động lực phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế.
- Khi xác định mục tiêu, giải pháp phát triển văn hóa phải căn cứ và hướng tới mục tiêu, giải
pháp phát triển kinh tế- xã hội, làm cho phát triển văn hóa trở thành động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế.
- Khi xác định mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội phải đồng thời xác định mục tiêu văn hóa,
hướng tới xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh. Phải có chính sách kinh tế trong văn hóa để gắn

văn hóa với hoạt động kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa. Xây dựng chính sách văn
4 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tr. 100
5 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tr. 100

12


hóa trong kinh tế để chủ động đưa các yếu tố văn hóa thâm nhập vào các hoạt động kinh tế - xã
hội, xây dựng văn hóa kinh doanh, đạo đức kinh doanh, văn minh thương nghiệp, xây dựng đội
ngũ danh nhân thời hội nhập.
Văn hóa có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con
người và xây dựng xã hội mới
Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau tài nguyên thiên nhiên,
vốn...Tuy nhiên những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Chỉ có tri thức
con người mới là nguồn lực vơ hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh không bao giờ cạn kiệt. Các
nguồn lực khác sẽ khơng được sử dụng có hiệu quả nếu như khơng có những con người đủ trí
tuệ và năng lực khai thác chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa” 6. Năm 1990, UNDP (Chương trình phát triển của
Liên hợp quốc) đưa ra những tiêu chí mới để đánh giá mức độ phát triển của các quốc gia, đó là
chỉ số phát triển con người. Một trong ba chỉ tiêu của cách tính tốn mới này là thành tựu giáo
dục (hai chỉ tiêu kia là tuổi thọ trung bình và mức thu nhập). Chỉ tiêu giáo dục lại được tổng
hợp từ hai chỉ tiêu khác là tình trạng học vấn của nhân dân và số năm được giáo dục tính bình
qn mỗi người. Theo đó, quốc gia nào đạt thành tựu giáo dục cao, tức là có vốn trí tuệ nhân
dân nhiều hơn thì chứng tỏ xã hội đó phát triển hơn, có khả năng tăng trưởng dồi dào. “Tài
nguyên” con người, “cái vốn” con người, nói cho cùng chính là vốn trí tuệ của dân tộc. Như
vậy, văn hóa trực tiếp tạo dựng và nâng cao vốn “tài nguyên mới”.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi vào cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam chưa có
lợi thế về chỉ số phát triển con người như mong muốn. Tỷ lệ người biết đọc, biết viết được xếp
thứ hạng cao trong khu vực (88%) nhưng nguy cơ tái mù chữ tăng, đặc biệt là mù ngoại ngữ và
mù tin học. Chúng ta có thể suy ra rằng, văn hóa có tác động to lớn đến nhiều lĩnh vực như:

Một là, văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng.
Hồ Chí Minh đặt văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn vấn đề
chính của đời sống và chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau.Trong đó, chính trị, xã hội có
được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Ngược lại, chính trị giải phóng sẽ mở đường
cho văn hóa phát triển. Người nói: “Xã hội thế nào thì văn hóa thế ấy. Văn hóa của ta rất phong
phú, nhưng dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị nơ lệ thì văn hóa cũng bị nơ lệ,
bị tồi tàn, không thể phát triển được”7.
Phải tiến hành cách mạng chính trị trước cụ thể là cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính
6 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 9, tr. 296.
7 Diễn văn khai mạc Hội nghị văn hóa tồn quốc 24 -11-1946

13


quyền từ đó giải phóng văn hóa mở đường cho văn hóa phát triển trong quan hệ với kinh tế thì
kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng là nền tảng của việc xây dựng văn hóa cho nên phải chú trọng
xây dựng kinh tế xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn
hóa, kinh tế phải đi trước một bước.
Hai là, văn hóa khơng thể đứng ngồi mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ nhiệm
vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Hồ Chí Minh cho rằng, văn hóa có tính tích cực, chủ động, nó đóng vai trị như một động
lực to lớn thúc đẩy kinh tế và chính trị phát triển. Người khẳng định: “Trình độ văn hóa của
nhân dân nâng cao sẽ giúp cho chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân
chủ cần thiết, xây dựng nước ta thành một nước hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, dân
giàu nước mạnh”.8
- “Văn hóa ở trong chính trị” tức là văn hóa phải tham gia nhiệm vụ chính trị, tham gia cách
mạng kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- “Văn hóa ở trong kinh tế” tức là văn hóa phải phục vụ, thúc đẩy sự xây dựng và phát triển
kinh tế.
- “Văn hóa ở trong kinh tế và chính trị” cũng có nghĩa là chính trị và kinh tế phải có tính văn

hóa trong kháng chiến chống Pháp. Quan điểm “văn hóa là một mặt trận, kháng chiến hóa văn
hóa, văn hóa hóa kháng chiến” mà Người đã đưa ra tạo nên một phong trào văn hóa văn nghệ
sơi động, đem lại sức mạnh vượt trội cho nhân dân Việt Nam đánh bại cuộc chiến tranh xâm
lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
1.2.2 Chức năng của văn hóa

Chức năng của văn hóa mới rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh cho rằng, văn hóa có ba
chức năng chủ yếu sau đây:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp
Văn hóa thuộc đời sống tinh thần của xã hội. Tư tưởng và tình cảm là vấn đề chủ yếu nhất
của đời sống tinh thần của xã hội và con người. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, văn hóa phải thấm
sâu vào tâm lý quốc dân để thực hiện chức năng hàng đầu là bồi dưỡng nâng cao tư tưởng đúng
đắn và tình cảm cao đẹp cho con người, đồng thời loại bỏ những tư tưởng sai lầm, tình cảm
thấp hèn. Tư tưởng và tình cảm rất phong phú nhưng phải đặc biệt quan tâm tới những tư tưởng
và tình cảm chi phối đời sống tinh thần của mỗi con người và cả dân tộc. Lý tưởng là điểm hội
8 Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.8, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, tr.281-282

14


tụ của tư tưởng lớn. Hồ Chí Minh khẳng định văn hóa phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ,
tự cường, độc lập, tự do; phải làm cho quốc dân “có tinh thần vì nước qn mình, vì lợi ích
chung mà qn lợi ích riêng”. Đó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, thực
hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Một khi con
người đã phai nhạt lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì khơng cịn ý nghĩa gì đối
với cuộc sống cách mạng. Tình cảm lớn, theo Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân,
thương nhân loại bị đau khổ, áp bức. Đó là tính trung thực, thẳng thắn, thủy chung; đề cao cái
chân, cái thiện, cái mỹ...Tình cảm đó thể hiện trong nhiều mối quan hệ: với gia đình, quê
hương, dân tộc, nhân loại, với bạn bè, đồng chí, quan hệ thầy trị... Tư tưởng và tình cảm có mối
quan hệ gắn bó với nhau. Tình cảm cao đẹp là con đường dẫn tới tư tưởng đúng đắn, tư tưởng

đúng làm cho tình cảm cao đẹp hơn, làm cho con người ngày càng hồn thiện. Văn hóa cịn góp
phần xây đắp niềm tin cho con người, tin ở bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tin vào nhân dân, tin vào tiền đồ của cách mạng.
Hai là, nâng cao dân trí
Văn hóa ln gắn với dân trí. Khơng có văn hóa khơng có dân trí. Văn hóa nâng cao dân trí
theo từng nấc thang, phục vụ mục tiêu cách mạng trước mắt và lâu dài. Nâng cao dân trí bắt đầu
từ việc làm cho người dân biết đọc, biết viết. Tiếp đến là sự hiểu biết các lĩnh vực khác nhau về
chính trị, kinh tế, văn hóa...Từng bước nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghĩa vụ, khoa
học - kỹ thuật, thực tiễn Việt Nam và thế giới... Đó là quá trình bổ sung kiến thức mới, làm cho
mọi người khơng chỉ là chuyển biến dân trí mà cịn nâng cao dân trí, điều mà khi chính trị chưa
được giải phóng thì khơng thể làm được. Tùy từng giai đoạn cách mạng mà mục đích của nâng
cao dân trí có điểm chung và riêng, nhưng tất cả đều nhằm mục tiêu chung là độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước có văn hóa cao và đời sống
tươi vui hạnh phúc. Mục tiêu đó hiện nay Đảng ta chỉ rõ vì “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.Và với kinh nghiệm thực tiễn phong phú kết hợp với lý luận cách
mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rõ: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” 9. Vì vậy, ngay
từ những ngày đầu mới thành lập chính quyền cách mạng, Người coi việc xố mù chữ, tiêu diệt
giặc dốt, nâng cao dân trí là nhiệm vụ thứ hai sau nhiệm vụ cấp bách của đất nước lúc bấy giờ.
Người chỉ rõ: “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công việc phải
thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí, nước nhà cần phải kiến thiết, để kiến thiết
cần phải có nhân tài”10. Người đã đưa ra quan điểm chỉ đạo mang tính chiến lược lâu dài đối với
sự nghiệp cách mạng “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người” 11.
9 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.4, tr.8.
10 Hồ Chí Minh: Tồn tâp,Nxb. Chính trị quốc gia, tập 4, tr.167, 36, 451
11 Hồ Chí Minh, sđd, tập 9, tr.222

15


Tư tưởng “trồng người” của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho chúng ta thấy rõ sự quan tâm đặc biệt

của Người đối với việc đào tạo thế hệ trẻ cho cách mạng. Đó là kế sách lâu bền để xây dựng và
bảo vệ đất nước.Với tầm nhìn xa, trơng rộng về lực lượng kế cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dành nhiều thời gian giáo dục, đào tạo, vận động, tập hợp, quan tâm theo dõi, chăm lo bồi
dưỡng thế hệ trẻ để thanh niên từng bước tiến bộ, trưởng thành. Người thường nhắc nhở nhiệm
vụ của các thế hệ đi trước là phải thường xuyên chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng các thế hệ đi sau,
làm sao để họ tiến bộ hơn mình, có tiến bộ hơn thì xã hội mới phát triển. Chính vì vậy, Người
đã căn dặn: “Phải đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”
vừa “chuyên”. Có như vậy họ mới hội tụ đủ các phẩm chất, năng lực cần thiết cả về nhân lực,
trí tuệ lẫn bản lĩnh chính trị, cả về nhân cách, đạo đức lẫn sức khoẻ để đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Và đó chính là một trong những nhiệm vụ chính và quan
trọng bậc nhất của văn hóa .
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng
con người tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để khơng ngừng hồn thiện bản thân mình
Muốn tham gia vào việc tạo ra những giá trị văn hóa, đồng thời biết hưởng thụ đúng đắn
những giá trị văn hóa của xã hội, mỗi người khơng những cần phải có những tư tưởng và tình
cảm lớn, việc hiểu biết ngày càng được nâng cao, mà cịn phải có những phẩm chất tốt đẹp,
những phong cách lành mạnh trong cuộc sống. Phải biến những tư tưởng, tình cảm lớn thành
phẩm chất và phong cách con người mới sử dụng được kiến thức để tham gia vào việc tạo ra
những giá trị văn hóa cho xã hội và biết hưởng thụ đúng đắn cho những giá trị văn hóa của xã
hội.
Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra những phẩm chất và
phong cách cần thiết để mỗi người tu dưỡng, rèn luyện. Trước hết là đối với cán bộ, đảng viên.
Đó là những phẩm chất đạo đức - chính trị, những phong cách trong lao động, sinh hoạt và
trong quan hệ xã hội. Từ Đường cách mệnh, sửa đổi lối làm việc, đời sống mới đến hàng loạt
những bài nói, bài viết về sau này của Người đã chứa đựng những chỉ dẫn rất phong phú về vấn
đề này.
Phẩm chất và phong cách được hình thành trong đạo đức, lối sống của con người và xã hội,
trong thói quen của cá nhân và trong phong tục tập quán của cả cộng đồng dân tộc.Văn hóa
giúp cho con người phân biệt cái tốt đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng, cái tiến bộ thúc
đẩy sự phát triển của xã hội với cái lạc hậu cản trở con người tiến lên phía trước. Từ đó con

người phấn đấu để làm cho cái tốt đẹp, lành mạnh ngày càng tăng, cái tiến bộ ngày càng nhiều;
mặt khác làm cho cái lạc hậu lỗi thời ngày càng bớt, cái xấu xa hư hỏng ngày càng bị loại bỏ
khỏi đời sống con người và xã hội. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Phải làm thế nào để văn hóa đi vào
sâu trong tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa sửa đổi được những tham nhũng, lười biếng, phù

16


hoa, xa xỉ”. Người đã nêu ra một luận điểm khái quát: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”.
Với đặc trưng khơng giống với chính trị và kinh tế, văn hóa hướng con người tới cái chân,
cái thiện, cái mỹ, từ cái hiện có vươn tới cái lý tưởng, từ chưa hồn thiện vươn tới cái hồn
thiện ln ln ở phía trước, đặc biệt là việc hồn thiện bản thân mỗi người.
Xây dựng nền văn hóa là sự nghiệp của Đảng, nhà nước, các đoàn thể và các tầng lớp nhân
dân. Hồ Chí Minh coi đội ngũ những nhà văn hóa, những người làm cơng tác văn hóa, những
văn nghệ sĩ là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp to lớn này. Đối với đội ngũ này, Người đã nói
những câu bất hủ:
“Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt ấy” hay “Văn hóa
giáo dục là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và
đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”.12
Quan điểm Hồ Chí Minh coi văn hóa là một mặt trận là quan điểm rất độc đáo, đòi hỏi các
chiến sĩ chiến đấu trên mặt trận này vừa phải bền bỉ, kiên cường, dũng cảm, vừa phải biết sử
dụng vũ khí của mình một cách sắc bén và có hiệu quả trong kháng chiến chống ngoại xâm
trước kia cũng như trong “cuộc chiến đấu khổng lồ” phục hồi và phát triển đất nước hiện nay.
Như vậy ngoài ba chức năng cơ bản trên cịn có thể nói đến chức năng khác của văn hóa
như: chức năng tổ chức, chức năng điều chỉnh, chức năng giao tiếp, chức năng giáo dục. Có thể
nhận thấy rằng văn hóa chi phối tồn bộ quá trình hình thành và phát triển của con người nói
riêng, nhân loại nói chung đồng thời văn hóa như một chất men gắn kết con người và tạo dựng
nhân cách của con người. Cụ thể, trong bài nghiên cứu này,chúng tôi muốn đề cập đến việc bồi
dưỡng và phát triển nhân cách của sinh viên Bách Khoa dưới tác động của văn hóa.
2. NHÂN CÁCH

2.1 Khái niệm nhân cách
Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm sinh lý của cá nhân thể hiện bản sắc và giá trị xã
hội của cá nhân. Nhân cách là tổ hợp, là hệ thống các thuộc tính tâm sinh lý chứ khơng phải là
một vài thuộc tính. Hệ thống các đặc điểm tâm - sinh lý của một cá nhân được thể hiện qua
hành vi của cá nhân khi hoạt động và giao tiếp với người khác. Những hành vi đó được xã hội
nhận xét, đánh giá so với chuẩn mực giá trị của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử. Nhân cách
của một người là “độc nhất vô nhị”. Khơng thể có trường hợp nhân cách của hai người hoàn
toàn giống nhau ngay cả là hai anh/chị em sinh đơi. Tính chủ thể thể hiện ở chỗ con người có
khả năng tiếp nhận và chọn lọc những gì phù hợp với mình. Cá nhân sống trong xã hội nào thì
lĩnh hội nền văn hóa xã hội của xã hội ấy. Con người sinh sống trong những hồn cảnh, mơi
12 Thư Bác Hồ gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa (1951)

17


trường gia đình và mơi trường xã hội khác nhau nên có những bản sắc độc đáo, riêng biệt. Hệ
thống các đặc điểm tâm - sinh lý của cá nhân phù hợp với ở mức độ nào so với chuẩn mực xã
hội sẽ quy định mức độ giá trị xã hội của cá nhân đó.Vì vậy, nhân cách là những gì tinh túy nhất
mà cá nhân đó đã lĩnh hội, tích lũy được thơng qua q trình sống. Những thuộc tính tâm sinh
lý của nhân cách thường biểu hiện qua ba cấp độ: cá nhân, liên cá nhân và siêu cá nhân.
- Với cấp độ cá nhân, nhân cách được xem xét trong một con người cụ thể, thể hiện bản sắc đặc
trưng, cái riêng so với những người khác. Nhân cách ở cấp độ cá nhân chủ yếu phản ánh cái tơi
của cá nhân đó.
- Nhân cách cũng tồn tại ở cấp độ liên cá nhân khi chúng ta đóng vai trị là chủ thể tác động đến
các khách thể thơng qua hoạt động giao tiếp. Trong q trình giao tiếp, nhân cách của cá nhân
ảnh hưởng đến những người khác, đồng thời cá nhân cũng điều chỉnh nhân cách của bản thân
khi lĩnh hội được những cái mới từ người khác.Nhân cách của một người sẽ được xem xét, đánh
giá trong mối liên hệ với các cá nhân khác.
- Nhân cách tồn tại ở cấp độ siêu cá nhân khi những tư tưởng, quan điểm của cá nhân ấy ảnh
hưởng rất lớn đến rất nhiều thế hệ mặc dù cá nhân đó khơng cịn tồn tại.

2.2 Những đặc điểm cơ bản của nhân cách
Nhân cách là một cấu trúc tâm lý, tức là một chỉnh thể thống nhất các thuộc tính, đặc điểm
tâm lý xã hội, thống nhất giữa phẩm chất và năng lực, giữa đức và tài. Các phần tử tạo nên nhân
cách liên hệ hữu cơ với nhau làm cho nhân cách mang tính trọn vẹn. X.L.Rubinstêin đã nhấn
mạnh: “Khi giải quyết bất cứ hiện tượng tâm lý nào, nhân cách nổi lên như một tổng thể liên kết
thống nhất của các điều kiện bên trong và tất cả các điều kiện bên ngoài đều bị khúc xạ”.

Tính thống nhất
- Tính thống nhất của nhân cách còn thể hiện ở sự thống nhất giữa ba cấp độ: cấp độ bên trong
cá nhân, cấp độ liên cá nhân và cấp độ siêu cá nhân. Đó chính là sự thống nhất giữa tâm lý, ý
thức với hoạt động, giao tiếp của nhân cách.
Ở cấp độ thứ nhất, nhân cách được thể hiện dưới dạng cá nhân, ở tính không đồng nhất,
ở sự khác biệt với mọi người, với cái chung.
Chính vì vậy giá trị nhân cách ở cấp độ này là tính tích cực của nó trong việc khắc phục những
hạn chế của hoàn cảnh và những hạn chế của bản thân.Có thể nói phân tích nhân vật ở cấp độ
bên trong cá nhân là xem xét các nhân tố bên trong cá nhân mình như một đại diện của toàn xã
hội.

18


Ở cấp độ thứ hai, nhân cách được thể hiện trong các mối quan hệ, liên hệ với nhân cách
khác nhau. Nhân cách nằm trong mối quan hệ liên nhân cách, tạo nên đặc trưng của mỗi nhân
cách.Giá trị của nhân cách ở cấp độ này được thể hiện trong các hành vi ứng xử xã hội của chủ
thể. Như vậy, phân tích ở cấp độ liên cá nhân là đã tách nhân cách ra thành các mức độ trong
nhóm của nó (nhân cách lệ thuộc, nhân cách bề trên)
Ở cấp độ cao nhất, cấp độ siêu cá nhân, nhân cách được xem xét như một chủ thể đang
tích cực hoạt động và gây ra những biến đổi ở người khác. Ở cấp độ này giá trị nhân cách được
xác định ở những hành động và hoạt động của nhân cách này có ảnh hưởng tới nhân cách khác.
Như một tấm gương để người khác học tập và noi theo.

Tính ổn định
Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm lý. Thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý
tương đối ổn định và bền vững, nó tạo thành bộ mặt tâm lý xã hội của cá nhân, phần nào nói lên
bản chất xã hội của cá nhân đó. Vì thế, các đặc điểm nhân cách cũng như cấu trúc nhân cách
khó hình thành và cũng khó mất đi. Trong thực tế, từng nét nhân cách (cá tính, phẩm chất) có
thể thay đổi trong q trình sống của con người, nhưng nhìn một cách tổng thể thì chúng vẫn
tạo thành một cấu trúc trọn vẹn, tương đối ổn định. Chính nhờ vậy, chúng ta mới có thể dự kiến
trước được hành vi của một nhân cách nào đó trong một tình huống, hồn cảnh nhất định nào
đó.
Tính tích cực
Nhân cách là chủ thể của hoạt động và giao tiếp, là sản phẩm của xã hội. Vì thế, tính tích
cực là một thuộc tính của nhân cách.Tính tích cực của nhân cách được biểu hiện trước hết ở
việc xác định một cách tự giác mục đích hoạt động, tiếp đó là sự chủ động, tự giác thực hiện các
hoạt động, giao tiếp nhằm hiện thực hóa mục đích. Ở đây, nhân cách bộc lộ khả năng tự điều
chỉnh và chịu sự điều chỉnh của xã hội. Đây cũng là biểu hiện của tính tích cực của nhân cách.
Tùy theo mức độ và loại hình hoạt động mà mục đích của nó được nhân cách xác định là nhận
thức hay cải tạo thế giới, nhận thức hay cải tạo chính bản thân mình.
Giá trị đích thực của nhân cách, chức năng xã hội và cốt cách làm người của cá nhân thể
hiện rõ nét tính tích cực của nhân cách. Tính tích cực của nhân cách cũng biểu hiện rõ trong q
trình thỏa mãn các nhu cầu của nó. Khơng chỉ thỏa mãn với các đối tượng sẵn có, con người
ln luôn sáng tạo ra các đối tượng mới, các phương thức thỏa mãn những nhu cầu ngày càng
cao của con người. Q trình đó ln là q trình hoạt động có mục đích, tự giác, trong đó con
người làm chủ được những hình thức hoạt động của mình.
Tính giao lưu

19


Nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển, tồn tại và thể hiện trong hoạt động và trong mối
quan hệ giao lưu với những cá nhân khác.Nhu cầu giao tiếp, giao lưu được xem như là một nhu

cầu bẩm sinh của con người.Thông qua quan hệ giao tiếp với người khác, con người gia nhập
các quan hệ xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá trị xã hội. Đồng thời cũng
thông qua giao tiếp mà con người được đánh giá, được nhìn nhận theo quan hệ xã hội. Điều
quan trọng là thông qua giao tiếp, con người cịn đóng góp các giá trị nhân cách của mình cho
người khác và cho xã hội. Giao tiếp chính là điều kiện để nhân cách biểu hiện cả ba cấp độ của
mình.
2.3 Cấu trúc của nhân cách
Giống như bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào, nhân cách cũng có một cấu tạo nhất
định, được đặc trưng bởi một tổ chức nhất định.Tùy theo quan niệm về bản chất nhân
cách, mỗi tác giả đưa ra một cấu trúc khác nhau về nhân cách.
Loại cấu trúc 2 thành phần
Trong tài lệu tâm lý học Việt Nam đã đưa ra quan niệm cho rằng cấu trúc của nhân cách
gồm hai thành phần cơ bản là “đức” và “tài” hay còn gọi là “phẩm chất” và “năng lực”.
Quan niệm cấu trúc nhân cách có hai tầng: Tầng “nổi” sáng tỏ gồm ý thức, tự ý thức, ý
thức nhóm và tầng “sâu” tối tăm bao gồm tiềm thức và vô thức.
Loại cấu trúc 3 thành phần
- A.G.Côvaliốp cho rằng trong cấu trúc nhân cách bao gồm: các quá trình tâm lý, các trạng
thái tâm lý và các thuộc tính tâm lý cá nhân.
- Có quan điểm coi nhân cách bao gồm ba lĩnh vực cơ bản, là nhận thức (bao gồm cả tri
thức và năng lực trí tuệ), tình cảm (bao gồm rung cảm và thái độ) và ý chí (bao gồm phẩm
chất ý chí, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen).
Loại cấu trúc 4 thành phần
- Tiểu cấu trúc có nguồn gốc sinh học: bao gồm khí chất, giới tính, lứa tuổi và cả những đặc
điểm tâm lý.
- Tiểu cấu trúc các đặc điểm của các quá trình tâm lý: các phẩn chất trí tuệ, trí nhớ, ý chí, đặc
điểm của cảm xúc…
- Tiểu cấu trúc về vốn kinh nghiệm: tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen…
- Tiểu cấu trúc xu hướng nhân cách: nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế giới quan, niềm
tin…
Theo nhà tâm lý học Việt Nam, Phạm Minh Hạc, thì nhân cách con người bao gồm 4 bộ

phận sau:
- Xu hướng của nhân cách
- Những khả năng của nhân cách
- Phong cách, hành vi của nhân cách
- Hệ thống điều khiển của nhân cách.

20



×