MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU
Từ xa xưa, trong lịch sử dân tộc Việt Nam, phụ nữ là lực lượng cơ bản, luôn giữ vị
trí quan trọng. Với bản lĩnh phi thường, chí kiên cường, bất khuất, phụ nữ Việt Nam đã
có những cống hiến to lớn, sẵn sàng cùng nam giới đứng lên giành độc lập cho Tổ quốc,
tự do, hạnh phúc cho nhân dân, góp phần xây dựng lên truyền thống vẻ vang của dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Non sơng gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ
cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”.
Ở khu vực Á Đông, hiếm dân tộc nào phụ nữ lại có vai trị quan trọng trong xã hội
như ở Việt Nam. Nữ giới Việt Nam luôn thể hiện tinh thần làm chủ, ý thức cộng đồng,
năng lực chủ động, tích cực khi “gánh vác” vai trò quan trọng trong lao động sản xuất và
chăm lo đời sống gia đình, xứng đáng với tám chữ vàng “Anh hùng, bất khuất, trung hậu,
đảm đang” mà Đảng, Chính phủ, Bác Hồ đã trao tặng.
Đảng, nhà nước ta luôn ghi nhận những đóng góp to lớn của phụ nữ Việt Nam và
đã sớm dành cho cơng tác bình đẳng giới những ưu tiên nhất định để họ vươn lên, khẳng
định vị thế của mình.
Trong xã hội hiện nay, vị thế của phụ nữ Việt Nam ngày càng được cải thiện, về cơ
bản nữ giới đã được hưởng các cơ hội bình đẳng như nam giới. Vị thế của Phụ nữ Việt
Nam được đánh giá thuộc nhóm có thứ hạng cao trong khu vực nói riêng và trên thế giới
nói chung. Tuy nhiên, vị thế đó chưa xứng tầm với những đóng góp, cống hiến của họ
cho sự phát triển của xã hội. Tỷ lệ cán bộ nữ giữ chức danh chủ chốt trong các cơ quan
nhà nước còn thấp, sự hiện diện trong những vị trí chủ chốt cịn mờ nhạt. Cơ hội để phụ
nữ tiếp cận những việc làm có thu nhập cao bị hạn chế so với nam giới, lao động nữ chưa
được đánh giá cao như lao động nam, chênh lệch thu nhập…
Từ thực tế nêu trên, yêu cầu bức thiết đặt ra là cần có những giải pháp hữu ích góp
phần nâng cao tỷ lệ nữ cán bộ quản lý, lãnh đạo trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội
để vị thế của phụ nữ Việt Nam xứng tầm với vai trò và những đóng góp lớn lao của họ.
Do đó qua q trình học tập và tìm hiểu, tác giả đã chọn đề tài “ Nâng cao vai trò, vị thế
của phụ nữ Việt Nam trong xã hội hiện nay”.
2
NỘI DUNG
I.
MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ PHỤ NỮU VÀ VAI TRÒ VÀ VỊ
THẾ CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI
1.1. Khái niệm và đặc điểm của phụ nữ Việt Nam
1.1.1. Khái niệm phụ nữ
Phụ nữ là một khái niệm chung để chỉ một người, một nhóm người hay tồn bộ
những người trong xã hội mà một cách tự nhiên, mang những đặc điểm giới tính được xã
hội thừa nhận về khả năng mang thai và sinh nở khi cơ thể họ hoàn thiện và chức năng
giới tính hoạt động bình thường.
Phụ nữ, phân biệt với đàn ơng/nam giới, là một trong hai giới tính truyền thống, cơ
bản và đặc trưng của lồi người.
Nhìn theo khía cạnh sinh học, nữ giới chỉ những người thuộc giống cái, với bộ
nhiễm sắc thể giới tính XX.
Trong ngơn ngữ Việt Nam, có nhiều từ gần nghĩa với "phụ nữ", đều chỉ một nhóm
đối tượng thuộc nữ giới nhưng mang tính phân loại cao hơn. Một số từ tiêu biểu hay gặp
là đàn bà, phụ nữ, con gái...
Phụ nữ chỉ một, một nhóm hay tất cả nữ giới đã trưởng thành, hoặc được cho là đã
trưởng thành về mặt xã hội. Nó cho thấy một cái nhìn ít nhất là trung lập, hoặc thể hiện
thiện cảm, sự trân trọng nhất định từ phía người sử dụng.
1.1.2. Đặc điểm phụ nữ Việt Nam
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, con người Việt Nam đã hình
thành những phẩm chất tốt đẹp, đó là tinh thần anh dũng, kiên cường, tạo nên sức mạnh
dân tộc để tồn tại, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù.
Trong tiến trình lịch sử đó, phụ nữ Việt Nam đã đóng góp một phần khơng nhỏ
vào việc bảo tồn, gìn giữ, phát huy những giá trị bản sắc của dân tộc ta từ thế hệ này qua
thế hệ khác. Sự đóng góp thầm lặng ấy đã dần kết tinh thành những phẩm chất đạo đức
tuyệt vời của người phụ nữ Việt Nam thời đại mới: “Tự tin - Tự trọng - Trung hậu - Đảm
đang”.
“Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang” luôn là phẩm chất đạo đức, truyền thống
tốt đẹp, thể hiện vai trò làm vợ, làm mẹ của người phụ nữ, đồng thời khẳng định vị thế
của các chị trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, việc phát huy
những phẩm chất đạo đức ấy càng có ý nghĩa hơn, giúp người phụ nữ nhanh chóng thích
nghi với u cầu của thời kỳ Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Với những phẩm chất cao quý đó, các chị sẽ vượt qua những thách thức, khó khăn để trở
thành người phụ nữ thành công trong công việc và cuộc sống của mình.
Một trong những phẩm chất đạo đức quý giá của người phụ nữ là tự tin. Phụ nữ
ngày nay tự tin vào bản thân, bình đẳng với nam giới, biết tự đánh giá ưu nhược điểm của
3
bản thân, dám nhận những nhiệm vụ khó để rồi từ đó nỗ lực và vượt khó để hồn thành
tốt nhiệm vụ được giao. Để có được thành quả đó, các chị đã phải nỗ lực rất nhiều trong
học tập, lao động sáng tạo, không ngừng học hỏi, bồi dưỡng trí tuệ, tích lũy tri thức để
ngày càng hồn thiện chính mình.
Tự trọng chính là một yếu tố nền tảng quan trọng nhất để làm nên giá trị và nhân
cách của con người chân chính. Nói đến phẩm chất tự trọng của người phụ nữ Việt Nam
thì đó chính là việc coi trọng và giữ gìn phẩm cách, danh dự của mình. Người phụ nữ
trong thời kì mới ln có phẩm chất tự trọng để yêu nước, thực hiện tốt nghĩa vụ của
công dân và không làm ảnh hưởng xấu đến đất nước, cơ quan, đoàn thể. Đồng thời, vẻ
đẹp đằm thắm, giàu nữ tính cũng tạo nên bản lĩnh riêng cho mỗi người phụ nữ, trí tuệ
được nâng cao tỏa ra từ lòng nhân hậu, khoan dung của mỗi người.
1.2. Vai trò, vị thế của phụ nữ Việt Nam trong gia đình và xã hội
1.2.1. Thực trạng vai trị và vị thế của phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Từ xưa đến nay, ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, phụ nữ Việt Nam luôn thực hiện
tốt sứ mệnh, vai trị của mình. Với lý trí và sự quyết tâm học hỏi, rèn luyện để trở thành
người có văn hóa, có tri thức, có kỹ năng sống, có sức khoẻ tốt, phụ nữ Việt Nam đã ln
biết cách cân bằng giữa trách nhiệm gia đình với việc tham gia các hoạt động xã hội.
Trước yêu cầu ngày càng cao của xã hội hiện đại, phụ nữ Việt Nam hoàn toàn đủ khả
năng sáng tạo để thực hiện tốt chức năng “kép”- “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”.
Thiên chức làm vợ, làm mẹ của người phụ nữ Việt Nam có ảnh hưởng to lớn đến
hạnh phúc và sự ổn định của gia đình. Họ ln là bạn đồng hành trên đường đời, là hậu
phương vững chắc đem đến sự thành đạt của người chồng “Đằng sau sự thành đạt của
người đàn ơng là bóng dáng của người phụ nữ” .
Người phụ nữ cịn có vai trị đặc biệt trong việc thực hiện chức năng sinh đẻ, duy
trì nịi giống và ni dạy con cái. Khơng chỉ chăm lo cái ăn, cái mặc cho con cái, mẹ còn
là người thầy đầu tiên của con, giáo dục và theo dõi sự trưởng thành của con: “Con dù
lớn vẫn là con của mẹ, đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con” .
Trong xã hội hiện đại, phụ nữ ngày càng khẳng định vai trò là “trụ cột” thứ hai
trong gia đình. Họ đã cùng với nam giới chia sẻ trách nhiệm kinh tế, tổ chức tốt cuộc
sống vật chất cho gia đình, “Dưới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, người phụ nữ
dũng cảm có thể hồn thành mọi nhiệm vụ của người đàn ơng dũng cảm có thể làm, dù
nhiệm vụ ấy đòi hỏi rất nhiều tài năng và nghị lực như việc lái các con tàu vũ trụ Phương
đông”. Đồng thời, người phụ nữ trở thành linh hồn cho những giá trị văn hóa, truyền
thống, là tâm điểm tình cảm của cả gia đình, biến mỗi căn nhà trở thành tổ ấm, nơi sum
vầy, chia sẻ yêu thương để mỗi thành viên phát huy tối đa năng lực, đạt được những kết
quả tốt nhất trong lao động và học tập.
Hòa cùng xu thế hội nhập và phát triển của đất nước, người phụ nữ Việt Nam
khơng cịn thu mình trong vỏ bọc gia đình, khơng bị dồn nén vào khn khổ chật hẹp của
đời sống gia đình mà họ vững vàng bước ra xã hội với bản lĩnh, trí tuệ và sự nỗ lực khơng
4
ngừng của bản thân, đóng góp tích cực vào các hoạt động xã hội, duy trì ảnh hưởng của
mình trên nhiều lĩnh vực.
Bàn tay, khối óc và trái tim của nữ giới Việt Nam đã tạo nên những chiến công
tuyệt vời trong đời sống xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế, phụ nữ đã tạo ra khối lượng hàng
hóa khổng lồ, 24% tổng số doanh nghiệp nhà nước do phụ nữ làm chủ [6]. Ở bất kỳ địa vị
công tác nào, phụ nữ Việt Nam cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, trung thực, thẳng
thắn, khiêm tốn, biết lắng nghe, dân chủ trong lãnh đạo, quản lý, có khả năng thuyết
phục, tác phong sâu sát, liêm khiết, ít tham nhũng, độ tin cậy của xã hội cao.
Đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước, sự đồng thuận của xã hội và
sự nỗ lực của bản thân nữ giới đã tác động, nâng tầm vị thế của phụ nữ Việt Nam. Phụ nữ
Việt Nam đã có tổ chức chính trị xã hội riêng là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Số lượng phụ nữ Việt Nam tham gia trong tổ chức Đảng ngày càng gia tăng. Năm
2011, mới có 01/14 nữ ủy viên bộ chính trị, năm 2013 là 02/14 nữ ủy viên bộ chính trị và
hiện nay số ủy viên bộ chính trị là 03/19 nữ ủy viên bộ chính trị. Ở cấp tỉnh nhiệm kỳ
2016 - 2020 có 7 nữ Bí thư, 14 nữ Phó Bí thư. Sự tham gia của phụ nữ trong tổ chức
Đảng là một chỉ báo rất quan trọng về vị thế của phụ nữ trong nền chính trị hiện đại
Cùng sự phát triển của phụ nữ tham gia trong tổ chức Đảng, tỷ lệ cán bộ nữ trong
hệ thống chính quyền cũng ngày càng gia tăng. Quán triệt tinh thần Đại hội XII của
Đảng: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ; Thực hiện
tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng” thì tỷ lệ nữ đại biểu Quốc
hội ln duy trì ở mức cao và có xu hướng ngày càng tăng lên. Cụ thể: Từ 3% ở Quốc hội
khóa I tăng lên 24,4% ở khóa VIII (2011 - 2016) và tỷ lệ này là 26,72% ở khóa XIV
(2016 - 2021). Ở cấp tỉnh, có 8 nữ Chủ tịch, 31 nữ Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân
(HĐND), 18 nữ Phó Chủ tịch UBND cùng nhiều nữ cán bộ đảm nhiệm các vị trí trọng
trách ở Trung ương và địa phương.
1.2.2. Đánh giá thực trạng vai trò và vị thế của phụ nữu Việt Nam
Qua một số dữ liệu nêu trên, chúng ta có thể khẳng định, quyền tham gia chính trị
của phụ nữ Việt Nam ngày càng được nâng cao. Đây là tiêu chí quan trọng thể hiện vị thế
ngày càng lớn của phụ nữ Việt Nam. Vì quyền chính trị là cơ sở, nền tảng để đảm bảo
thực hiện các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Vị thế xã hội của phụ nữ được cải thiện là
điều kiện tiến tới xóa bỏ khoảng cách giới. Tổ chức UNDP của Liên Hợp quốc tại Việt
nam đã ghi nhận: “Việt Nam có thể tự hào về những thành quả của mình trên bước đường
tiến tới sự bình đẳng về giới. Những thành quả này, một phần nhờ sự cam kết chính trị
của Chính phủ Việt Nam, mở đầu bằng việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao vai trị và tiềm
năng của phụ nữ”.
Nói tóm lại, phụ nữ Việt Nam đã tham gia hoạt động trong tất cả các cơ quan, ban
ngành, đoàn thể của hệ thống chính trị Việt Nam nhưng tỷ lệ và chất lượng tham chính
của phụ nữ chưa cao, cịn nhiều hạn chế so với khả năng, trí tuệ và những đóng góp của
họ. Cơ hội tham gia chức vụ lãnh đạo của nữ giới vẫn cịn thiếu bình đẳng. Trong q
5
trình tham gia lãnh đạo, quản lý, phụ nữ xuất hiện rất ít ở các vị trí cao nhất trong các
thang bậc lãnh đạo. Đặc biệt, theo cơ cấu cứng, tỷ lệ nam, nữ trong công tác lãnh đạo đã
tạo nên một “hội chứng” cấp phó đối với nữ giới. Công việc mà phụ nữ tham gia đảm
nhiệm quản lý, lãnh đạo chủ yếu ở lĩnh vực văn hóa, xã hội, đồn thể. Cịn trong các
quyết định chính trị thường vắng bóng ảnh hưởng của phụ nữ. Phụ nữ tham gia làm các
cơng việc mang tính thừa hành, tham mưu và giúp việc cho nam giới. Phụ nữ gặp nhiều
trở ngại trong q trình thăng tiến quyền lực chính trị, thiếu thời gian, thiếu đào tạo và
thông tin, thiếu tự tin, thiếu tiền bạc, thiếu sự ủng hộ, thiếu động cơ tinh thần, thiếu mạng
lưới và tinh thần đoàn kết giữa phụ nữ.
Như vậy, theo thời gian, địa vị xã hội của người phụ nữ Việt Nam đã có sự thay
đổi vượt trội. Tuy nhiên vẫn tồn tại sự chênh lệch khá lớn giữa vai trò và vị thế xã hội của
phụ nữ Việt Nam. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này gồm cả nguyên nhân khách quan
và nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân khách quan:
Mặc dù Đảng, Nhà nước và chính quyền ở địa phương đã có nhiều kế hoạch hành
động vì sự tiến bộ của phụ nữ. Song các biện pháp tổ chức thực hiện nhiều khi còn chưa
khoa học. Cơ chế, chính sách tạo nguồn, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng cán bộ nữ chưa có tính chiến lược lâu dài, thiếu tính đột phá. Dự nguồn các chức
danh lãnh đạo chưa thực sự được chú trọng, điều này dẫn tới thiếu hụt nguồn cán bộ nữ
kế cận. Định kiến giới cũng là một rào cản đối với sự phấn đấu của phụ nữ, có một bộ
phận không nhỏ nhân dân chưa thực sự ủng hộ cho phụ nữ và cán bộ nữ. Chính yếu tố
này cũng đã kìm hãm sự phát triển vị thế của phụ nữ.
Nguyên nhân chủ quan:
Ý thức phấn đấu của người cán bộ nữ là một thước đo để tổ chức đánh giá, cất
nhắc, bổ nhiệm, đề bạt vào các vị trí lãnh đạo. Trước vai trị kép, tiêu chuẩn kép, nghĩa vụ
kép thì ý trí tự phấn đấu của người phụ nữ có một ý nghĩa quan trọng, là điều kiện tiên
quyết nâng cao vị thế cho phụ nữ. Nhận thức được điều đó, phụ nữ Việt Nam đã có ý
thức tự rèn luyện, phấn đấu, có nhiều tiến bộ, nhưng ý chí phấn đấu đó chưa đồng đều,
thường xuyên.
Yêu cầu cấp bách đặt ra là Đảng, Nhà nước, xã hội và bản thân mỗi người phụ nữ
cần phải có những giải pháp, hành động cụ thể để nâng cao vị thế của phụ nữ trong đời
sống chính trị nói riêng và đời sống xã hội nói chung để tương xứng với trí tuệ, bản lĩnh
và vai trị của phụ nữ.
II. VỊ THẾ, VAI TRÒ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VỊ
THẾ CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG XÃ HỘI HIỆN NAY
2.1. Quan điểm của Đảng về công tác phụ nữ
Thực tiễn cho thấy, hơn 30 năm qua phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công
tác phụ nữ có nhiều đổi mới theo hướng ngày càng dân chủ và đạt hiệu quả cao hơn.
6
Ngày 12/7/1993, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW “Về đổi mới và tăng
cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”. Ngày 19/9/1993, Ban Bí thư ra
Chỉ thị số 28-CT/TW để lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị về
cơng tác vận động phụ nữ mới ban hành. Đặc biệt, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết
số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 “về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết, Ban Bí thư đã chỉ đạo các cấp,
các ngành sơ kết, đánh giá và ban hành Kết luận số 55-KL/TW ngày 18/01/2013 về tiếp
tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW. Qua các nhiệm kỳ Đại hội Đảng
tồn quốc, Đảng đều có định hướng rõ nội dung, phương hướng lãnh đạo công tác phụ nữ
để các cấp, các ngành trong cả hệ thống chính trị thực hiện. Sau khi có nghị quyết Trung
ương, các cấp ủy đều xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết. Việc tổ
chức học tập, quán triệt đều được tổ chức chặt chẽ, có nhiều đổi mới trong chuyển tải nội
dung đến cán bộ, đảng viên nên nhận thức về cơng tác phụ nữ có chuyển biến tiến bộ.
Trên cơ sở các chủ trương, nghị quyết của Trung ương Đảng, Quốc hội đã thể chế
thành các văn bản pháp luật để thực hiện như ban hành: Luật Hôn nhân & Gia đình, Luật
Bình đẳng giới, Luật Phịng chống bạo lực gia đình... Chính phủ ban hành nhiều nghị
định, đề án để thực hiện.
Trong đổi mới phương thức lãnh đạo, Đảng rất quan tâm đổi mới công tác quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ trong cả hệ thống chính trị, trong đó có cán
bộ của các cấp hội. Báo cáo Chính trị Đại hội đại biểu của Đảng các khóa đều ghi rõ tăng
tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số. Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị xác
định rõ nhiệm vụ, giải pháp: “Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học nữ có trình độ cao, cán
bộ lãnh đạo quản lý nữ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp CNH - HĐH”; “Phấn đấu
đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở lên, nữ đại biểu
quốc hội và HĐND các cấp từ 35% đến 40%. Các cơ quan đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở
lên, nhất thiết có cán bộ chủ chốt lãnh đạo là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng,
Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới”.
Thực tế nhiệm kỳ 2016 -2021 ở Trung ương, nhiệm kỳ 2015 - 2020 ở địa phương,
tỷ lệ cán bộ nữ trong cả hệ thống chính trị nói chung đều tăng cao hơn các nhiệm kỳ
trước. Tỷ lệ cấp ủy cơ sở cả nước là 19,18%, cấp trên cơ sở là 14,63%, cấp tỉnh, thành
chiếm 13,1%. Tỷ lệ nữ tham gia đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp đều tăng. Hàng
năm có nhiều nhà khoa học và doanh nhân nữ được tôn vinh về sự cống hiến trong
nghiên cứu khoa học, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh.
Thực hiện các đề án của Trung ương, của Chính phủ, đội ngũ cán bộ nữ có triển
vọng được đưa vào nguồn quy hoạch để đào tạo, bồi dưỡng ngày càng tăng. Các cấp ủy
đảng luôn tăng cường sự lãnh đạo đối với tổ chức Hội Phụ nữ nhiều tỉnh, thành đã phân
cơng các đồng chí ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ trực tiếp phụ trách, theo dõi
hoạt động của Hội. Ban Bí thư, thường trực cấp ủy các cấp đều duy trì tốt chế độ làm việc
với Đảng đoàn, Ban Thường vụ Hội Phụ nữ theo quy chế cơng tác dân vận của hệ thống
chính trị. Việc bầu cử Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Hội
7
LHPN các nhiệm kỳ, cấp ủy đảng đều tôn trọng, phát huy dân chủ, bầu cử có số dư. Tổ
chức đảng giới thiệu đảng viên ứng cử các chức danh chủ chốt của Hội, khơng gị ép, áp
đặt.
Để tổ chức đưa các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác phụ nữ vào thực
tiễn cuộc sống, các cấp ủy đảng thường xuyên coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, nhờ
đó nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, của cán bộ lãnh đạo quản lý đối với công
tác vận động phụ nữ, công tác Hội Phụ nữ có chuyển biến rõ nét.
Tuy nhiên việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ
còn một số mặt hạn chế. Các cấp ủy đảng chưa chỉ đạo sâu sắc và lãnh đạo cụ thể hóa có
hiệu quả cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Sau khi có Nghị
quyết của Trung ương, Quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhưng việc thể chế hóa
thành văn bản pháp luật của Nhà nước để thực hiện có lĩnh vực cịn chậm. Cơng tác
nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về vận động phụ nữ; việc dự báo xu hướng phát
triển của phụ nữ, tình hình tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của phụ nữ để đổi
mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo công tác vận động phụ nữ có hiệu quả hơn chưa được
quan tâm đúng mức. Việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của hội viên phụ nữ trong
một số khu công nghiệp, khu chế xuất, trong doanh nghiệp chưa tốt. Các giải pháp hỗ trợ
phụ nữ giảm nghèo, phát triển kinh tế bền vững thiếu đồng bộ. Một số địa phương chưa
thực sự tạo điều kiện cho Hội LHPN làm tốt công tác giám sát, phản biện xã hội và tham
gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo,
quản lý các cấp, các ngành, tham gia cấp ủy các cấp còn thấp so với mục tiêu chỉ tiêu đề
ra, chưa tương xứng với năng lực và sự phát triển của lực lượng lao động nữ. Một số lĩnh
vực, ngành, địa phương nguồn cán bộ nữ hẫng hụt nhưng việc xây dựng quy hoạch để
đào tạo, bồi dưỡng chưa được quan tâm đúng mức...
2.2. Thực trạng phong trào phụ nữ ở nước ta
2.2.1. Thành tựu
Lao động nữ tiếp tục chiếm tỷ lệ cao trong các ngành công nghiệp chế biến, dệt
may, giầy da, thương mại, dịch vụ và tham gia ngày càng nhiều vào các ngành kinh tế đòi
hỏi yêu cầu chuyên mơn, kỹ thuật, cơng nghệ cao. Chị emđã tích cựchưởng ứng phong
trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, khơng ngừng phấn đấu nâng cao trình độ
chun mơn, tay nghề, khơng quản ngại làm thêm ca, thêm giờ, góp sức tạo ra nhiều sản
phẩm ngày càng đa dạng, chất lượng cao,tạo niềm tin cho người tiêu dùng, đáp ứng nhu
cầu trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước, tăng kim ngạch xuất khẩu, nâng cao
tiềm lực kinh tế của đất nước.
Trong gia đình, vị trí, vai trị và đóng góp của phụ nữ được nâng lên. Giữ vai trị
chủ chốt trong xây dựng gia đình hạnh phúc, chị em đã tích cực lao động tạo thu nhập, tổ
chức tốt cuộc sống gia đình; giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống gia đình
Việt Nam. Hàng triệu phụ nữ trong điều kiện gia đình cịn nhiều khó khăn nhưng với tình
u thương và trách nhiệm, đã tần tảo, chăm lo, giáo dục con, cháu; trở thành chỗ dựa
tinh thần cho gia đình.
8
Trong lĩnh vực chính trị, phụ nữ ngày càng tích cực, chủ động thực hiện quyền
công dân, tham gia các hình thức dân chủ trực tiếp ở cộng đồng. Đội ngũ cán bộ nữ trên
một số lĩnh vựcphát triển về số lượng, chất lượng. Nữ cấp ủy cấp xã, cấp huyện vànữ đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp đều tăng; nữ đại biểu Quốc hội khóa XIII đạt 24,4%; nữ
cơng chứctrong cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện đến trung ương chiếm 31%.
Cán bộ nữ tham gia cấp ủy Đảng, cơ quan dân cử, cơ quan hành chính nhà nước các cấp
đã đóng góp tích cực vào việc lãnh đạo, quản lý đất nước, ngành, địa phương. Nữ cán bộ,
công chức, viên chức phấn đấu giỏi việc nước, đảm việc nhà, tích cực nâng cao trình độ
học vấn, chun mơn, nghiệp vụ, trau dồi bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức, tự
khẳng định mình ở từng vị trí cơng tác.
Phụ nữ đã tham gia tích cực trong các hoạt động đấu tranh chống âm mưu diễn
biến hịa bình, giữ gìn trật tự an tồn xã hội, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, bảo vệ
chủ quyền an ninh, biên giới tại các địa bàn xung yếu và đóng góp tích cực vào hoạt động
đối ngoại nhân dân. Với tinh thần thi đua quyết thắng, vì an ninh tổ quốc, phụ nữ trong
lực lượng vũ trang tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, mưu trí, dũng cảm, phấn
đấu hồn thành tốt nhiệm vụ. Chị em hoạt động trong ngành ngoại giao đã tích cực, chủ
động, đóng góp hiệu quả trong lĩnh vực đối ngoại và hợp tác quốc tế, góp phần nâng cao
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Những kết quả đáng tự hào trên cho thấy, phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học
tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” gắn với việc thực hiện cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và các phong trào, cuộc
vận động do các cấp, các ngành phát động đã tạo nên khí thế thi đua sôi nổi trong các
tầng lớp phụ nữ cả nước. Với nội dung thiết thực, toàn diện, các phong trào thi đua đã thu
hút đông đảo phụ nữ hưởng ứng và trở thành động lực thúc đẩy chị em hăng hái tham gia
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong số gần 13
triệu phụ nữ đăng ký thực hiện phong trào thi đua của cả nhiệm kỳ, đã có trên 11 triệu
phụ nữ đạt 3 tiêu chuẩn, 2.419 phụ nữ được công nhận danh hiệu “Phụ nữ xuất sắc 5 năm
tiêu biểu toàn quốc”
2.2.2. Hạn chế
Bên cạnh sự nỗ lực và đóng góp to lớn, phụ nữ cịn gặp khơng ít khó khăn, thách
thức, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của phụ nữ và thực hiện mục tiêu bình đẳng
giới:
Phụ nữ có ít cơ hội tham gia học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp; lực
lượng lao động nữ tuy đông về số lượng nhưng tỷ lệ qua đào tạo thấp nên chưa thực sự
đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập.
Số lao động nữ có bằng cấp chun mơn chỉ đạt 11,1%, đặc biệt là lao động nữ nông
thôn, độ tuổi trung niên, phụ nữ dân tộc thiểu số; tỷ lệ lao động nữ làm các công việc giản
đơn chiếm tới 42,9% (so với 36,2% lao động nam).
9
Khoảng cách thu nhập và mức sống giữa các nhóm phụ nữ, các vùng miền cịn
lớn. Nữ cơng nhân lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, lao động nữ di cư
tự do… việc làm không ổn định, thu nhập thấp, điều kiện sinh hoạt tối thiểu không đảm
bảo. Nữ nơng dân thiếu việc làm, khó chuyển đổi nghề khi đất canh tác phải chuyển đổi
mục đích sử dụng, chị em ít có điều kiện nghỉ ngơi, chăm sóc bản thân, kể cả khi sinh
con. Phụ nữ dân tộc thiểu số, vùng sâu và các nhóm phụ nữ yếu thế (nghèo, khuyết tật,
đơn thân…) đời sống còn nhiều khó khăn, ít cơ hội tiếp cận thơng tin, giáo dục đào tạo và
hệ thống an sinh xã hội. Tình trạng ô nhiễm môi trường, ô nhiễm thực phẩm, dịch bệnh
ngày càng tăng, ảnh hưởng đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống, trong khi các điều kiện
chăm sóc sức khoẻ chưabảo đảm. Đã xuất hiện tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh;
tình trạng nạo phá thai, đặc biệt ở tuổi vị thành niên đến mức báo động; tỷ lệ phụ nữ
nhiễm HIV có xu hướng tăng nhanh (từ 19,65% năm 2006 lên 31% năm 2011). Thiếu các
chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để phụ nữ có thể làm tốt công việc xã hội và chăm lo gia
đình. Dịch vụ gia đình, phúc lợi xã hội hỗ trợ gia đình và phụ nữ chưa được quan tâm
đúng mức; tình trạng thiếu nhà trẻ, mẫu giáo cịn phổ biến ở hầu hết các địa phương và
các khu công nghiệp (tỷ lệ trẻ dưới 36 tháng đến trường chỉ đạt 18%) là khó khăn, thách
thức lớn đối với các gia đình, đặc biệt là người mẹ.
Tư tưởng trọng nam hơn nữ còn tồn tại trong xã hội. Giá trị văn hóa, đạo đức
truyền thống mai một. Tình trạng bạo lực gia đình, bạo lực học đường, bn bán người,
xúc phạm nhân phẩm, xâm hại tình dục đối với phụ nữ và trẻ em gái vẫn đang là vấn đề
nổi cộm. Một bộ phận phụ nữ có xu hướng chạy theo lối sống coi trọng vật chất, đua đòi,
hưởng thụ. Tình trạng phụ nữ vi phạm pháp luật, mắc tệ nạn xã hội có chiều hướng tăng.
Khiếu kiện đơng người trái pháp luật có sự tham gia của phụ nữ cịn xảy ra ở một số địa
phương.
Cơng tác cán bộ nữ cịn nhiều khó khăn, bất cập. Một số chỉ tiêu về tỷ lệ nữ lãnh
đạo nhiều nhiệm kỳ chưa đạt và có xu hướng giảm như chỉ tiêu nữ tham gia Quốc hội, nữ
ủy viên Ban Chấp hành TW Đảng khóa XI chỉ đạt gần 9%, nữ ủy viên Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2010-2015 đạt 11,3%. Cán bộ nữ ở vị trí ra quyết định và hoạch
định chính sách chiếm tỷ lệ thấp (Chủ tịch UBND và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011 2016 đạt 3 - 4%).
Những khó khăn, thách thức nêu trên ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của
phụ nữ và thực hiện mục tiêu bình đẳng giới.
2.2.3. Bài học kinh nghiệm
Phát triển toàn diện phụ nữ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đặc biệt là
nguồn nhân lực nữ chất lượng cao có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của đất nước nói chung, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước,
góp phần đẩy nhanh q trình Cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.
Trên cơ sở yêu cầu của thực tiễn trong giai đoạn tới và thực trạng các vấn đề liên
quan phụ nữ và công tác phụ nữ hiện nay, cần tập trung phát triển toàn diện phụ nữ và
10
nguồn nhân lực nữ, đặc biệt là nhân lực nữ chất lượng cao. Ðồng thời quan tâm đến nhóm
phụ nữ khó khăn, phụ nữ Dân tộc thiểu số, miền núi. Các cấp ủy đảng, chính quyền, các
ngành cần quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu công tác phụ nữ trong tình hình
mới, tổ chức lãnh đạo, xây dựng các chương trình, kế hoạch hoạt động cụ thể, tạo bước
chuyển biến rõ rệt về chất lượng, hiệu quả công tác phụ nữ ở từng ngành, địa phương,
đơn vị. Tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức về giới và ý thức trách nhiệm thực hiện
bình đẳng giới cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân. Xây dựng trong tồn xã hội
thái độ tơn trọng, tơn vinh, bảo vệ phụ nữ; phong cách ứng xử văn minh, văn hóa đối với
phụ nữ; phê phán, đấu tranh chống tư tưởng coi thường phụ nữ, các hành vi phân biệt đối
xử, xâm hại, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp cần làm tốt hơn nữa việc chăm lo, bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, phụ nữ. Tuyên truyền, vận động phụ
nữ thực hiện nghiêm các chủ trương, chính sách của Ðảng, Nhà nước, nhất là tại những
địa bàn triển khai các chương trình, dự án có tác động lớn đến đời sống nhân dân. Bồi
dưỡng, giới thiệu nguồn cán bộ nữ cho Ðảng; kết nối, phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ
nữ. Chủ động rà sốt chính sách, quy định hiện hành và nghiên cứu thực tiễn các vấn đề
của phụ nữ, trẻ em gái, bình đẳng giới và gia đình trong bối cảnh hội nhập làm cơ sở đề
xuất chính sách về lao động nữ, an sinh xã hội, cán bộ nữ, phát triển tài năng nữ, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, chính sách cho một số đối tượng đặc thù. Tham gia sơ
kết, tổng kết các nghị quyết và văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến phụ nữ và bình
đẳng giới;...
2.3. Một số giải pháp nâng cao vị thế phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
2.3.1. Nhóm giải pháp về chủ trương, đường lối, chính sách
*
Các chủ trương, chính sách về tạo nguồn nữ cán bộ
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Trong sự nghiệp chống Mỹ
cứu nước, phụ nữ vô cùng đảm đang, đã góp rất nhiều trong chiến đấu và sản xuất. Đảng
và chính phủ cần có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng
thêm nhiều phụ nữ phụ trách nhiều công việc kể cả lãnh đạo”.
Bác kính yêu giao cho Đảng, Chính phủ một trọng trách lớn lao là phải chú trọng
công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ. Việc tạo nguồn cán bộ là khâu
quan trọng, ảnh hưởng lớn tới số lượng, chất lượng nữ cán bộ. Do đó, cần phải có tính
chiến lược, khoa học, có bước đi phù hợp trong chủ trương, chính sách tạo nguồn cán bộ
nữ.
Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý, lãnh đạo trong giai đoạn hiện nay chưa nhiều,
chưa đáp ứng yêu cầu xã hội. Nguyên nhân chính là do nguồn cán bộ chưa đáp ứng được
yêu cầu đặt ra. Để tăng cường tỷ lệ và chất lượng cán bộ nữ địi hỏi phải chú trọng cơng
tác quy hoạch cán bộ nữ. Tác giả Nguyễn Đức Hạt đề ra một phương thức quy hoạch cán
bộ khá là hiệu quả và hợp lý “Mỗi nữ cán bộ lãnh đạo, quản lý có trách nhiệm quy hoạch
từ một đến hai cán bộ nữ kế cận chức danh mà mình đảm nhận. Quy hoạch cán bộ phải
11
có thời gian từ 5 đến 10 năm. Phạm vi quy hoạch gồm nhiều cấp, nhiều ngành. Quy trình
quy hoạch phải dựa trên nhu cầu cán bộ cụ thể của từng thời kỳ, nội dung quy hoạch dựa
trên các chức danh, số lượng từng chức danh. Tiêu chuẩn cần và đủ của mỗi chức danh”.
Trên cơ sở số lượng cán bộ được quy hoạch, xây dựng chiến lược đào tạo cán bộ
theo từng lĩnh vực, ngành nghề. Việc đặt các tiêu chuẩn để đào tạo cán bộ là hết sức quan
trọng và cần thiết. Việc xác định tiêu chuẩn cán bộ một cách chính xác là cơ sở, tiền đề
đào tạo, bồi dưỡng và đề bạt cán bộ đúng.
Quá trình quy hoạch cán bộ cần có cơ chế sàng lọc, thử thách, theo dõi thời gian
cơng tác để có thứ tự sắp xếp đúng, phù hợp với sở trường của cán bộ. Đồng thời với quy
trình quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ thì cần chú trọng đến các giải pháp về bố
trí, sử dụng và luân chuyển cán bộ. Ngày nay, muốn có một đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý chất lượng cao, điều hành công việc có hiệu quả, thì việc đánh giá, lựa chọn, đề
bạt cán bộ phải tránh tình trạng ưu tiên, chiếu cố hoặc đề bạt cho đủ cơ cấu.
Đảng, nhà nước quan tâm, sắp xếp, bố trí cơng việc phù hợp, tạo môi trường thuận
lợi để cán bộ nữ thể hiện hết năng lực, sở trường. Bố trí cán bộ phải xuất phát từ việc mà
đặt người, chứ không từ người mà sắp xếp công việc. Căn cứ vào tiêu chuẩn đối với từng
chức danh và kết quả đánh giá cán bộ để bổ nhiệm đúng chỗ, đúng lúc, đúng sở trường.
Kiên quyết khơng vì người mà xếp sẵn “ghế”, khơng để lặp lại tình trạng một số ít cán bộ
“ngồi nhầm ghế”, gây hậu họa cho Đảng, Nhà nước và nhân dân
* Xây dựng mơ hình lãnh đạo hài hịa giới
Mơ hình lãnh đạo hài hịa giới địi hỏi trong thành phần lãnh đạo, quản lý phải có
cả lãnh đạo nam và lãnh đạo nữ. Mối tương quan tỷ lệ giữa cán bộ nam và cán bộ nữ
trong ban lãnh đạo của đơn vị được xác định trên cơ sở các đặc điểm, tổ chức, hoạt động
của từng cơ quan, đơn vị trong từng lĩnh vực hoạt động cụ thể.
Mô hình hài hịa giới khơng chỉ chú trọng đến tổ chức, cơ cấu của ban lãnh đạo
cao nhất mà nó địi hỏi phải bố trí, sắp xếp hợp lý các vị trí lãnh đạo, quản lý trong các bộ
phận của cơ quan, đơn vị.
Mơ hình lãnh đạo giới khơng chỉ hướng đến mục tiêu bình đẳng giới mà cịn
hướng tới mục tiêu sâu xa hơn là xác lập một sự lãnh đạo, quản lý thật sự dân chủ và hiệu
quả. Để thực hiện được mơ hình này khơng chỉ là trách nhiệm của các cấp lãnh đaọ hệ
thống chính trị mà quan trọng là ở sự quyết tâm, phấn đấu, rèn luyện, mức độ trưởng
thành và khả năng tự khẳng định mình của cán bộ nam và cán bộ nữ. Sự đồng thuận của
cấp ủy, chính quyền và sự tự phấn đấu của mỗi cán bộ nữ sẽ tạo ra một mơ hình lãnh đạo
hài hịa giới, đảm bảo cho sự bình đẳng giới được thực thi theo đúng ý nghĩa.
2.3.2. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức của gia đình, xã hội và của cả hệ thống chính
trị đối với cơng tác cán bộ nữ
Để nâng cao trình độ nhận thức về giới và bình đẳng giới cần tiến hành các hình
thức tuyên truyền, giáo dục. Nội dung, phương thức tuyên truyền phải để mọi người nhận
12
thấy rằng, vị thế thấp kém của phụ nữ so với nam giới không phải là “điều kiện tự nhiên”
mà là kết quả của sự phân biệt đối xử với phụ nữ theo một hệ thống.
Một số hình thức tuyên truyền giáo dục có thể thực hiện thường xuyên, liên tục
như: Đưa nội dung giới vào các chương trình giảng dạy ở các lớp tập huấn, hội nghị, hội
thảo, các chương trình ở các trường đại học, các học viện…Đồng thời, kết hợp đẩy mạnh
công tác tuyên truyền qua các phương tiện thơng tin đại chúng về bình đẳng giới, về vị
trí, vai trị của phụ nữ, cán bộ nữ để tồn xã hội có nhìn nhận đúng đắn về vị trí, vai trị
của phụ nữ trong tiến trình phát triển của xã hội, tôn trọng phụ nữ và tạo điều kiện cho
phụ nữ vừa thực hiện quyền của mình, vừa đóng góp cơng sức xây dựng đất nước.
Đặc biệt đối với vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng các dân tộc thiểu số…là
những nơi kinh tế khó khăn, trình độ dân trí thấp, tư tưởng phong kiến cịn nặng nề, cần
có nhiều chương trình, dự án lồng ghép với phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, tạo
điều kiện để phát huy vai trò, vị thế của phụ nữ, trên cơ sở này sẽ xóa bỏ được những
tưởng phong kiến, lạc hậu ăn sâu trong tâm trí người dân, tạo điều kiện cho bình đẳng
giới được thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn.
Trong gia đình, mỗi người đàn ơng cần có sự tơn trọng, cảm thơng, chung tay chia
sẻ cơng việc gia đình, cùng gánh vác những khó khăn với những người phụ nữ. Đồng
thời cũng cần đổi mới trong quan niệm về sự “đảm đang” của người phụ nữ, khơng nên
bó hẹp trong “khn khổ” của gia đình. Có như thế, người phụ nữ mới có thể làm tốt
được cả hai trọng trách: “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” và có được cuộc sống thực sự
vui vẻ, hạnh phúc.
Để phát huy sức mạnh của phụ nữ, cộng đồng cần có cái nhìn cơng bằng, nhân ái
với họ, nếu không chúng ta sẽ đánh mất đi một nửa sức mạnh của nguồn nhân lực. Chỉ
khi toàn xã hội có nhận thức đúng đắn và sâu sắc về vai trị của phụ nữ mới có thể tạo
nên sức mạnh về vật chất và tinh thần, nâng tầm vị thế cho nữ giới trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Bản thân mỗi người dân nên có trách nhiệm với sự bình đẳng giới nói chung, sự
tiến bộ của phụ nữ nói riêng. Chúng ta nên giành cho phụ nữ một sự tin tưởng để họ có
thể cống hiến cho sự phát triển chung của đất nước.Thực hiện tốt cơng tác tun truyền,
nâng cao nhận thức về bình đẳng giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tham chính
nói chung và tham gia quản lý lãnh đạo nói riêng.
2.3.3. Nhóm giải pháp nâng cao phẩm chất, năng lực của bản thân phụ nữ trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã căn dặn, giành lại quyền bình đẳng cho phụ
nữ là cuộc cách mạng lâu dài, to lớn, khó nhất. Phụ nữ muốn giành quyền bình đẳng
khơng phải bảo Đảng, chính phủ hay nam giới giải quyết mà phải tự đấu tranh phấn đấu
giành lấy.
13
Như vậy, sự tự khẳng định bản thân của mỗi phụ nữ là tất yếu khách quan, là chìa
khóa của thành công để phụ nữ nâng tầm vị thế của mình. Khi người phụ nữ hiểu được
khả năng, giá trị của bản thân mình, họ sẽ có lịng tự tơn, tự tin, phấn đấu vươn lên trong
cuộc sống, họ sẽ xóa bỏ được các tập quán lạc hậu, áp bức coi thường, trói buộc bản thân
phụ nữ. Đối với người phụ nữ để nâng cao vị thế của mình trong mọi mặt của đời sống
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đòi hỏi mỗi người phụ nữ cần phải tự phấn đấu và rèn
luyện với một số yêu cầu chuẩn mực sau:
Thứ nhất, về phẩm chất chính trị, tư tưởng
Phụ nữ cần có lập trường tư tưởng vững vàng, phải kiên trì thực hiện cho bằng
được những nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà n-ước, đấu tranh, phê phán và vạch
trần những tư tưởng, hành vi lệch lạc, chống đối và xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng.
Tu dưỡng tốt những phẩm chất đạo đức cơ bản như: Cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư, khơng tham nhũng, khơng lạm dụng chức vụ, quyền hạn để mưu cầu lợi
riêng; Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; Biết phát huy trí tuệ, tài năng và mọi
nguồn của cải, cơng sức, trí tuệ của nhân dân để tạo nên sức mạnh; Biết tơn trọng lợi ích
và quyền lực của nhân dân.
Cán bộ nữ cần phát huy điểm mạnh của mình là khả năng tuyên truyền, thuyết
phục vì trong giao tiếp họ thường rất tình cảm, hịa nhã, mềm mỏng nên dễ thu phục lòng
người. Cán bộ nữ cần phát huy những ưu trội của giới mình là điều kiện để phát huy năng
lực, nâng cao vị thế.
Thứ hai, trau dồi trình độ chun mơn, nghiệp vụ và năng lực cá nhân.
Trình độ chun mơn, nghiệp vụ là nhân tố cấu thành năng lực của người cán bộ
lãnh đạo. Để có được vị thế xã hội đòi hỏi nữ cán bộ khơng ngừng nâng cao trình độ
chun mơn, nghiệp vụ, khơng ngừng học tập lý luận quản lý nhà nước để có kiến thức
và kinh nghiệm trong quản lý, lãnh đạo mọi mặt của đời sống xã hội.
“Người phụ nữ cần vượt qua nỗi tự ti, vươn lên tự phấn đấu, thay đổi, học hỏi phụ
nữ ở những nước tiến bộ để đấu tranh giải phóng bản thân mình” [12, tr. 201]. Người phụ
nữ cần rèn luyện năng lực tổ chức, lãnh đạo, chỉ đạo, bao gồm: Trí tuệ thơng minh, năng
lực dự báo, khả năng định hướng, sự nhạy cảm về tổ chức, sự thấu đáo và năng lực điều
khiển, sự am hiểu về con người, thời cuộc; tính cởi mở, óc sáng suốt, tháo vát, khơi hài,
dí dỏm, tính kiên nghị, khả năng chan hoà với mọi người, thu hút nhân tâm; quy tụ, đoàn
kết quần chúng.
Đồng thời với nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, phụ nữ cần tạo được uy
tín bởi là uy tín chính là điều kiện bảo đảm hiệu quả công tác của người lãnh đạo. Để có
thể xây dựng, củng cố và nâng cao uy tín, phụ nữ cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
Phải thường xuyên tự giác tu dưỡng rèn luyện, bồi dưỡng phẩm chất và năng lực cần
thiết, có thái độ nghiêm khắc với bản thân, đề cao tính tự chủ, tự kiềm chế, tự điều chỉnh,
14
đặc biệt là ln đề cao tự phê bình và phê bình. Chủ tịch Hồ Chí minh đã chỉ rõ, để được
cất nhắc, giao nhiệm vụ, bản thân phụ nữ phải “Gắng học tập chính trị, học tập văn hóa,
kỹ thuật. Nâng cao tinh thần yêu nước và giác ngộ xã hội chủ nghĩa; Hăng hái thi đua
thực hiện “cần kiệm xây dựng tổ quốc, cần kiệm xây dựng gia đình”.
Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, phụ nữ Việt Nam có nhiều cơ hội và
cũng gặp nhiều thách thức để có thể khẳng định và phát huy vị thế của mình. Do đó, bản
thân phụ nữ trước hết phải ý thức được đầy đủ vai trò về giới của mình mới có thể nắm
bắt được những cơ hội, cùng với xã hội, hướng tới cách ứng xử bình đẳng giới.
Trên đây là ba nhóm giải pháp cơ bản để xóa bỏ sự chệnh lệch giữa vai trò và vị
thế trong xã hội của phụ nữ Việt Nam. Các nhóm giải pháp này cần được kết hợp chặt
chẽ và thực hiện đồng bộ. Vì nhóm giải pháp về chủ trương, chính sách và nhóm giải
pháp nâng cao nhận thức của gia đình, xã hội và của cả hệ thống chính trị đối với cơng
tác cán bộ nữ là cơ sở, tiền đề, còn năng lực của phụ nữ là điều kiện tiên quyết để phụ nữ
Việt Nam vươn lên khẳng định vị thế của giới.
15
KẾT LUẬN
Người phụ nữ có vai trị, vị thế rất lớn trong cuộc sống hiện đại. Nếu gia đình
được coi là tế bào của xã hội thì người phụ nữ được coi là hạt nhân của tế bào này. Gia
đình là nơi thể hiện thực chất sự bình đẳng và nâng cao vị thế của người phụ nữ. Bên
cạnh đó, người phụ nữ của thời hiện đại càng không thể tách rời với thực tế gia đình và
xã hội. Bởi chính tại hai mơi trường này, người phụ nữ mới thực hiện được những chức
năng của mình. Điều cần làm là làm sao để gia đình và xã hội tạo được những điều kiện
thuận lợi nhất cho phụ nữ phát huy được khả năng đó. Trước hết, người phụ nữ cần có
một cơng việc ổn định để đảm bảo cuộc sống, có cơ hội học tập để nâng cao kiến thức,
trình độ chun mơn, nghiệp vụ, tham gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động xã hội,
các đoàn thể, câu lạc bộ, có thời gian hưởng thụ văn hóa, văn nghệ, chăm sóc sức khỏe và
làm đẹp cho bản thân mình.
Để phát huy vai trị, vị thế của phụ nữ đối với sự phát triển của xã hội, bên cạnh sự
nỗ lực của chính bản thân, chị em phụ nữ rất cần được sự ủng hộ, hỗ trợ tích cực từ phía
gia đình và xã hội; Vì vậy, một mặt, mỗi người phụ nữ cần tích cực học tập, rèn luyện,
nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực công tác để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
cuộc sống hiện đại; Một mặt, các thành viên trong gia đình và xã hội cần tạo điều kiện để
phụ nữ có thời gian học tập, tham gia các hoạt động xã hội, có thời gian nghỉ ngơi, vui
chơi, giải trí, chăm sóc sức khỏe để vừa thực hiện tốt vai trị của mình trong gia đình vừa
đóng góp ngày càng nhiều cho xã hội; từng bước nâng cao vị thế của bản thân cũng như
xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững.
Trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, công tác phụ nữ đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, sự chênh lệch giữa vai trò và vị thế xã hội của phụ nữ
Việt Nam còn khá lớn. Từ thực trạng nêu trên, tác giả đã mạnh dạn đề xuất ba nhóm giải
pháp: Nhóm giải pháp về chủ trương, đường lối, chính sách; Nhóm giải pháp nâng cao
nhận thức của gia đình, xã hội và của cả hệ thống chính trị đối với cơng tác cán bộ nữ;
Nhóm giải pháp nâng cao phẩm chất, năng lực của bản thân phụ nữ trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Với những nhóm giải pháp này, tác giả hy vọng sẽ có những đóng góp vào q
trình nâng tầm vị thế của phụ nữ Việt Nam để xứng với những cơng hiến mà họ đã đóng
góp cho gia đình, quê hương và đất nước.
16
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lưu Trong Lư: Người con gái Sông Gianh.
Thư của Hội Liên hiệp phụ nữ Pháp gửi Hội Liên hiệp phụ nữ Việt-nam,
ngày 18 – 2 – 1969.
Thư của Hội Liên hiệp phụ nữ Lào gửi Hội Liên hiệp phụ nữ Việt-nam,
ngày 20 – 7 –1967.
Tăng cường các giải pháp nhằm xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam
Nhất Anh, ThanhtraVietnam.
Đánh giá phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam nhiệm
kỳ 2007-2012”.
Vinh danh 100 nữ doanh nhân tiêu biểu của Việt Nam năm 2010”.
Phụ nữ Việt Nam xưa và nay Lưu trữ 2010-11-22 tại Wayback Machine
Báo phunu.hochiminhcity.
Phụ nữ Việt Nam Báo Giáo dục
17