BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
LÊ TRUNG HẬU
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380104
Người hướng dẫn khoa học : TS. Phan Anh Tuấn
Học viên
: Lê Trung Hậu
Lớp
: Cao học luật – Khóa 32
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Phan Anh Tuấn. Các kết quả nêu trong luận văn chưa
được công bố trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào khác. Các ví dụ và trích dẫn
trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất
cả các mơn học trong chương trình đào tạo thạc sĩ luật và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
tài chính theo quy định của trường Đại học luật TP. Hồ Chí Minh.
Vậy tơi viết lời cam đoan này kính mong trường Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh xem xét, cho phép tơi được bảo vệ luận văn trước Hội đồng chấm luận văn.
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lê Trung Hậu
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS năm 2015
Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Công ước
Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng
CTTP
Cấu thành tội phạm
ĐƯQT
Điều ước quốc tế
THTT
Tiến hành tố tụng
TNHS
Trách nhiệm hình sự
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ NỘI LUẬT
HÓA QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC VỀ CHỐNG THAM
NHŨNG ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI HỐI LỘ .........................................................8
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hành vi hối lộ ...................................................8
1.1.1. Khái niệm hành vi hối lộ ............................................................................8
1.1.2. Đặc điểm của các tội phạm hối lộ ............................................................11
1.2. Khái niệm nội luật hóa quy định của Công ước Liên hợp quốc về chống
tham nhũng đối với các hành vi hối lộ ..............................................................13
1.2.1. Khái niệm nội luật hóa điều ước quốc tế..................................................13
1.2.2. Khái niệm nội luật hóa quy định của Cơng ước Liên hợp quốc về chống
tham nhũng đối với các hành vi hối lộ trong Bộ luật hình sự ............................17
1.3. Các u cầu của Cơng ước về nội luật hóa đối với các hành vi hối lộ.....19
Kết luận Chương 1 ..................................................................................................22
CHƯƠNG 2. SỰ TƯƠNG THÍCH GIỮA QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC
LIÊN HỢP QUỐC VỀ CHỐNG THAM NHŨNG VỚI BỘ LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI HỐI LỘ..................................................23
2.1. Quy định của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng đối với các
hành vi hối lộ .......................................................................................................23
2.1.1. Dấu hiệu pháp lý chung về các tội phạm hối lộ .......................................23
2.1.2. Dấu hiệu pháp lý riêng về các tội phạm hối lộ ........................................26
2.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm hối lộ..........29
2.2.1. Tội nhận hối lộ ..........................................................................................29
2.2.2. Tội đưa hối lộ ...........................................................................................34
2.2.3. Tội môi giới hối lộ ....................................................................................37
2.3. Đánh giá sự tương thích giữa quy định của Cơng ước Liên hợp quốc về
chống tham nhũng với Bộ luật hình sự Việt Nam đối với các hành vi hối lộ ....
...............................................................................................................................39
2.3.1. Những điểm tương đồng ...........................................................................39
2.3.2. Những điểm khác biệt ...............................................................................42
2.4. Pháp luật hình sự của một số nước về việc tội phạm hóa các hành vi hối
lộ và một số kinh nghiệm cho Việt Nam ...........................................................45
2.4.1. Các tội phạm hối lộ trong BLHS Trung Quốc ..........................................45
2.4.2. Các tội phạm hối lộ trong BLHS Liên bang Nga .....................................49
2.4.3. Một số kinh nghiệm cho Việt Nam ............................................................51
Kết luận Chương 2 ..................................................................................................53
CHƯƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VỀ NỘI LUẬT HÓA VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
ĐỀ XUẤT NỘI LUẬT HÓA QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP
QUỐC VỀ CHỐNG THAM NHŨNG ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI HỐI LỘ
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ..........................................................54
3.1. Các yêu cầu nội luật hóa quy định của Công ước Liên hợp quốc về
chống tham nhũng đối với các hành vi hối lộ trong Bộ luật hình sự Việt Nam
...............................................................................................................................54
3.2. Một số kiến nghị đề xuất nội luật hóa quy định của Cơng ước Liên hợp
quốc về chống tham nhũng đối với các hành vi hối lộ trong Bộ luật hình sự
Việt Nam. .............................................................................................................55
Kết luận Chương 3 ..................................................................................................64
KẾT LUẬN ..............................................................................................................65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (tên Tiếng Anh: United
Nations Convention against Corruption, gọi tắt là Công ước) được Hội đồng Liên
hợp quốc thơng qua ngày 31/10/2003 và có hiệu lực thi hành vào ngày 14/12/2005.
Cơng ước có hiệu lực tại Việt Nam ngày 18/9/2009. Tuy nhiên, Công ước này
không có hiệu lực áp dụng trực tiếp ở Việt Nam, địi hỏi Việt Nam phải tiến hành
nội luật hóa để chuyển quy định của Cơng ước vào pháp luật hình sự Việt Nam.
Chính vì điều này, BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã thể hiện những
quy định được nội luật hóa sự so với BLHS năm 1999 về các tội phạm tham nhũng,
trong đó có các hành vi hối lộ. Tuy nhiên, việc nội luật hóa Cơng ước đối với các
hành vi hối lộ trong BLHS năm 2015 vẫn cịn nhiều điểm chưa tương thích, cần
nghiên cứu hồn thiện trong thời gian tới, điển hình như: chưa nội luật hóa đầy đủ
hành vi khách quan của các tội phạm hối lộ vào BLHS Việt Nam; quy định “của hối
lộ” bao gồm lợi ích vật chất và lợi ích phi vật chất trong BLHS Việt Nam đã cơ bản
đáp ứng thực tiễn đấu tranh chống các tội phạm hối lộ ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay nhưng vẫn còn nhiều điểm khác biệt so với quy định “của hối lộ” là “lợi
ích khơng chính đáng” trong Cơng ước; chủ thể của các tội phạm về hối lộ theo
Cơng ước chưa được hình sự hóa đầy đủ và thiếu tính đồng bộ trong BLHS Việt
Nam. Ngồi ra, Cơng ước u cầu các quốc gia cần hình sự hóa hành vi tham gia
với bất kỳ tư cách nào vào việc phạm tội đưa và nhận hối lộ, đây là vấn đề mà
BLHS Việt Nam cần nghiên cứu để hoàn thiện quy định tội môi giới hối lộ.
Nhằm hiện thực hóa các tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
25/5/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”
thì việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện BLHS năm 2015, trong đó hồn
thiện quy định pháp luật hình sự đối với các tội phạm về hối lộ là rất cần thiết, đáp
ứng yêu cầu Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Từ những lý do
trên, tác giả chọn vấn đề “Nội luật hóa quy định của Cơng ước Liên hợp quốc về
chống tham nhũng đối với các hành vi hối lộ trong Bộ luật hình sự Việt Nam” làm
đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học. Trên cơ sở đánh giá khách quan, toàn diện về
những vấn đề lý luận và thực tiễn thể hiện sự tương đồng và khác biệt giữa Công
2
ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng với quy định của pháp luật hình sự
hiện hành về các hành vi hối lộ; qua đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm hồn thiện
pháp luật hình sự Việt Nam đối với các tội phạm về hối lộ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài “Nội luật hóa quy định của Cơng ước Liên hợp quốc về
chống tham nhũng đối với các hành vi hối lộ trong Bộ luật hình sự Việt Nam” tác
giả đã tham khảo các tài liệu, cơng trình nghiên cứu gồm bốn nhóm chính:
- Nhóm thứ nhất: là các giáo trình:
+ Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật hình
sự Việt Nam - Phần các tội phạm, quyển 2, NXB Hồng Đức.
+ Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Phần các tội phạm, quyển 2, NXB Công an nhân dân.
Các giáo trình trên chủ yếu nêu ra một số vấn đề về lý luận và quy định của
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về các hành vi hối lộ; không so sánh,
đối chiếu với quy định của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, cũng
như chưa nêu lên được những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp
luật. Luận văn này sẽ kế thừa các dấu hiệu pháp lý của các hành vi hối lộ theo
BLHS Việt Nam.
- Nhóm thứ hai: sách chuyên khảo, tham khảo:
+ Nguyễn Thị Phương Hoa – Phan Anh Tuấn (đồng chủ biên), Bình luận
khoa học những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017), NXB Hồng Đức.
+ Đinh Văn Quế (2019), Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015 phần thứ hai
các tội phạm, Chương XV các tội phạm xâm phạm các quyền tự do của con người,
quyền tự do, dân chủ của công dân; Chương XXIII các tội phạm về chức vụ (bình
luận chun sâu), NXB Thơng tin và Truyền thơng.
+ Nguyễn Mạnh Cường (2019), Pháp luật về phòng, chống tham nhũng và xử
lý các hành vi phạm tội, NXB Lao động.
Nhóm tài liệu này tập trung phân tích những điểm mới trong BLHS năm
2015 so với BLHS năm 1999 về các hành vi hối lộ theo tinh thần nội luật hóa quy
3
định của Công ước và những hành vi tham nhũng trong Luật phòng, chống tham
nhũng 2018. Trong Luận văn này sẽ kế thừa một số bình luận khoa học về những
điểm mới trong BLHS hiện hành.
- Nhóm thứ ba: luận án, luận văn:
+ Đào Lệ Thu (2011), Các tội phạm về hối lộ theo Luật hình sự Việt Nam
trong sự so sánh với Luật hình sự Thụy Điển và Australia, Luận án Tiến sĩ, Trường
Đại học Luật Hà Nội.
+ Trần Hồn Nam (2017), Tội đưa hối lộ trong luật hình sự Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Luận văn
trình bày vấn đề lý luận và pháp lý về tội đưa hối lộ trong luật hình sự, tìm hiểu
thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện quy định về tội đưa hối lộ trong luật
hình sự Việt Nam
+ Nguyễn Ngọc Điền (2019), Tội nhận hối lộ theo Luật hình sự Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Luận văn
nghiên cứu các quy định của pháp luật về tội nhận hối lộ dưới khía cạnh lập pháp
hình sự và việc áp dụng trong thực tiễn xét xử, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm
hoàn thiện các quy định về tội nhận hối lộ trong luật hình sự Việt Nam, cũng như đề
xuất những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống tội
nhận hối lộ. Cụ thể sẽ nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về tội nhận hối lộ;
quy định pháp luật hình sự về tội nhận hối lộ; một số khó khăn, vướng mắc trong
thực tiễn xét xử tội nhận hối lộ và các kiến nghị hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật hình sự về tội nhận hối lộ hiện nay
+ Lê Thị Mộng Thi (2020), Dấu hiệu định tội của tội nhận hối lộ theo luật
Hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh. Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật về tội nhận hối lộ ở 2 vấn đề:
Chủ thể của tội nhận hối lộ (Chương I) và Hành vi khách quan của tội nhận hối lộ
(Chương II).
+ Trần Thị Tuyết Hồng (2020), Tội đưa hối lộ theo luật hình sự Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Luận văn trên
cơ sở nghiên cứu quy định của pháp luật về tội đưa hối lộ dưới khía cạnh lập pháp
hình sự và áp dụng tội danh này trong thực tiễn xét xử, từ đó đưa ra một số giải
pháp nhằm hồn thiện các quy định của pháp luật về tội đưa hối lộ trong Luật hình
4
sự Việt Nam, cũng như một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp
luật hình sự về tội đưa hối lộ
Nhóm tài liệu này tập trung phân tích quy định của pháp luật và thực tiễn áp
dụng BLHS đối với các hành vi tham nhũng nói chung, trong đó có các hành vi hối
lộ; một số tài liệu đã nghiên cứu, phân tích và so sánh với quy định của Công ước
về các hành vi hối lộ. Trong Luận văn này sẽ kế thừa sự phân tích quy định của
Cơng ước và sự so sánh giữa quy định của Công ước với BLHS Việt Nam đối với
các tội phạm về hối lộ.
- Nhóm thứ tư: các bài viết trên các tạp chí:
+ Ban Nội chính Trung ương (2014), Báo cáo tổng thuật hoàn thiện các quy
định về hối lộ trong Bộ luật hình sự Việt Nam từ góc độ so sánh luật.
+ Đào Lệ Thu (2018), Điểm mới về các tội phạm chức vụ trong BLHS 2015,
Tạp chí Tịa án nhân dân1.
+ Lưu Thanh Hùng (2019), “Tội phạm tham nhũng trong lĩnh vực tư theo
Công ước UNCAC và vấn đề hoàn thiện BLHS Việt Nam”, Tạp chí Tịa án
nhân dân2
+ Hồng Thị Tuệ Phương, Trần Ngọc Lan Trang (2020), “Các tội phạm hối
lộ theo Luật hình sự Liên bang Australia và một vài suy nghĩ cho Việt Nam”, Tạp
chí khoa học pháp lý Việt Nam, Tạp chí số 01 (131)/2020.
+ Trần Thị Ngọc Kim (2021), “Tội đưa hối lộ theo công ước chống tham
nhũng và quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam”, Khoa học Kiểm sát, Số 02 (46),
tr. 61 – 68.
+ Vũ Việt Tường (2021), “Chính sách pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay
đối với các tội phạm về hối lộ”, Khoa học Kiểm sát, Số chuyên đề 01 (47), tr. 18-24.
+ Nguyễn Hà Thành (2021), “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với tội
hối lộ cơng chức nước ngồi trong pháp luật Vương quốc Anh”, Nội chính, Số 91,
tr. 59-62.
Đào Lệ Thu (2018), Điểm mới về các tội phạm chức vụ trong BLHS 2015, Tạp chí Tịa án nhân dân điện tử,
nguồn: (truy cập ngày:10/8/2022)
2
Lưu Thanh Hùng (2019), Tội phạm tham nhũng trong lĩnh vực tư theo Công ước UNCAC và vấn đề hồn
thiện BLHS Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, nguồn: (truy cập ngày: 15/9/2022) .
1
5
Nhóm tài liệu này chủ yếu thể hiện những điểm mới quy định các tội phạm
về hối lộ trong BLHS 2015 trong sự so sánh với BLHS của một số quốc gia và một
số đề xuất hoàn thiện. Trong Luận văn này sẽ kế thừa phân tích những điểm mới
của BLHS năm 2015 về các tội phạm hôi lộ. Trên cơ sở những đề xuất được nêu,
chúng tôi tiếp thu để làm cơ sở cho những kiến nghị, đề xuất của mình.
Tóm lại: các cơng trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề về các tội
hối lộ trong luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, về phương diện nghiên cứu lý luận
chuyên sâu và có hệ thống vấn về nội luật hóa quy định của Cơng ước Liên hợp
quốc về chống tham nhũng đối với các hành vi hối lộ trong Bộ luật hình sự Việt
Nam vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức để có thể chỉ ra các điểm chưa
tương thích của luật hình Việt Nam với Công ước.
Do vậy, trong luận văn này học viên muốn tiếp tục phát triển và kế thừa
những cơng trình khoa học của các tác giả đi trước, mục đích của đề tài học viên sẽ
làm sáng tỏ thêm vấn đề lý luận, quy định về nội luật hóa quy định của Cơng ước
Liên hợp quốc về chống tham nhũng đối với các hành vi hối lộ trong Bộ luật hình
sự Việt Nam... từ đó rút ra các kinh nghiệm lập pháp cho Việt Nam. Trên cơ sở đó,
tác giả sẽ đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về các
hành vi hối lộ trong luật hình sự Việt Nam góp phần thực hiện mục tiêu truy cứu
trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội, tránh bỏ lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu nghiên cứu: Trên cơ sở đối chiếu, so sánh quy định của Công ước
với quy định của BLHS năm 2015 về các hành vi hối lộ nhằm kiến nghị hồn thiện
quy định pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm hối lộ, đáp ứng u cầu nội
luật hóa quy định của Cơng ước.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích đã nêu thì luận văn sẽ có những nhiệm vụ sau đây:
+ Phân tích, làm rõ các hành vi hối lộ theo quy định của Công ước Liên hợp
quốc về chống tham nhũng.
+ Phân tích các u cầu nội luật hóa quy định của Công ước Liên hợp quốc
về chống tham nhũng đối với các quốc gia thành viên.
6
+ Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của các hành vi hối lộ trong
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
+ Đánh giá sự tương đồng và khác biệt giữa quy định của Công ước và BLHS
Việt Nam đối với các hành vi hối lộ.
+ Kiến nghị hồn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm hối lộ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quy định về các hành
vi hối lộ trong Bộ luật Hình sự Việt Nam và Công ước Liên hợp quốc về chống
tham nhũng.
- Về thời gian: từ khi BLHS năm 2015 có hiệu lực thi hành cho đến thời điểm
hiện nay.
- Về không gian: trên phạm vi cả nước.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
- Phương pháp luận: Luận văn này được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm đấu
tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng xuyên
suốt trong luận văn, dùng để phân tích, phân loại, hệ thống hóa các thông tin khoa
học thu thập từ văn bản pháp luật, tài liệu, có liên quan đến nội dung trong luận văn,
từ đó rút ra kết luận của vấn đề nghiên cứu.
+ Phương pháp nghiên cứu lịch sử: phương pháp này sử dụng trong Chương
2 của đề tài nhằm đánh giá quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự Việt Nam về
các tội phạm hối lộ
+ Phương pháp đánh giá: phương pháp này được sử dụng chủ yếu để đánh
giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự hiện hành về các tội phạm hối lộ, từ đó rút
ra những kết quả đạt được và những hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn áp dụng pháp
luật hình sự về tội phạm này.
7
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung
của luận văn được chia thành ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về nội luật hóa quy định của
Cơng ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng đối với các hành vi hối lộ.
Chương 2. Sự tương thích giữa quy định của Công ước Liên hợp quốc về
chống tham nhũng với Bộ luật hình sự Việt Nam đối với các hành vi hối lộ.
Chương 3. Các yêu cầu về nội luật hóa và một số kiến nghị đề xuất nội luật
hóa quy định của Cơng ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng đối với các hành
vi hối lộ trong Bộ luật hình sự Việt Nam.
8
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ NỘI LUẬT HĨA
QUY ĐỊNH CỦA CƠNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC
VỀ CHỐNG THAM NHŨNG ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI HỐI LỘ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hành vi hối lộ
1.1.1. Khái niệm hành vi hối lộ
Hối lộ là thuật ngữ khá quen thuộc trong đời sống xã hội, nó hàm chứa sự
tiêu cực trong quan hệ xã hội giữa người với người. Trong thời kỳ phong kiến của
Việt Nam, thuật ngữ “ăn hối lộ” đã xuất hiện trong các văn bản pháp luật thành văn,
có thể kể đến một trong những văn bản pháp lý điển hình thời kỳ phong kiến đó là
Bộ luật Hồng Đức, tại điều 52, Chương “vi chế” ghi rõ: “làm trái pháp luật, ăn hối
lộ từ 1 đến 9 quan, xử tội “biếm” hoặc bãi chức; từ 10 đến 19 quan xử tội “đồ”“lưu”; từ 20 quan trở lên là xử lưu; từ 50 quan trở lên xử “tử”…”3. Điều này chứng
tỏ hành vi hối lộ khơng chỉ phê phán về khía cạnh đạo đức, chính trị mà cần phải
trừng trị bằng pháp luật. Bản chất của hành vi hối lộ được hiểu theo nhiều góc độ
tiếp cận khác nhau. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, hối lộ là “Lén lút đưa tiền của để
nhờ kẻ có quyền làm điều trái với pháp luật nhưng có lợi cho mình”4. Từ góc độ xã
hội, hối lộ được xem là hiện tượng tiêu cực, trái với các chuẩn mực xã hội và có thể
xem là một hình thức lệch lạc, biến tướng trong quan điểm đền ơn, tặng quà…vốn
là truyền thống tốt đẹp trong xã hội phương đơng giữa những con người có quan hệ
ơn nghĩa, tình cảm với nhau. Tuy nhiên, khi các lợi ích cá nhân vượt qua các giá trị
về tình cảm dẫn đến hiện tượng một bên là những người có chức vụ, quyền hạn đã
lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để thu vén lợi ích khơng chính đáng cho bản thân;
cịn một bên muốn đạt được mục đích của mình dù rằng mục đích đó của mình có
trái luật hay đúng luật nhưng họ đã dùng những lợi ích tác động vào ý chí và hành
vi của những người có chức vụ, quyền hạn để diễn ra theo ý của họ. Chính vì vậy,
trên thực tiễn hành vi hối lộ rất khó bị phát hiện bởi tính chất “đơi bên cùng có lợi”
đã hình thành nên sự che chắn, bảo vệ cho nhau. Duới góc độ chính trị, “Hối lộ là
một trong những dạng bổng lộc của quyền lực và là một hình thức trao đổi chung
VOV (2018), “Phịng, chống tham nhũng: Những bài học lịch sử và hành động của chúng ta hôm nay”,
nguồn: (truy cập ngày 21/5/2021).
4
Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (2010), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, tái
bản lần thứ 9 (sửa chữa và bổ sung), tr.736.
3
9
giữa quyền lực và sự giàu có”5. Theo quan điểm này, hối lộ mang bản chất chính trị
sâu sắc và là một trong những nguyên nhân khiến cho người dân mất niềm tin đối
với chế độ chính trị trên đất nước của họ. Chính vì vậy, hành vi hối lộ luôn bị xem
là hành vi tiêu cực và cần phải bị lọai trừ khỏi đời sống chính trị dù ở bất kỳ chế độ
chính trị nào.
Trong khi đó, từ góc độ hành chính – nhà nước, các học giả và các quốc gia
đều thống nhất chung “hối lộ” là một dạng của hành vi tham nhũng. Trước đây,
Hiện tượng này được cho rằng chỉ xảy ra nhiều ở những nơi thiếu minh bạch và
thiếu sự tôn trọng các quy tắc đạo đức, đồng thời tác động trở lại làm cho bộ máy
nhà nước trì trệ, thối nát. Hối lộ gây ra nhiều tác hại to lớn trong hoạt động của bộ
máy nhà nước, nhất là hủy hoại đạo đức và trách nhiệm của những người thực thi
chức trách, làm mất lịng tin của nhân dân vào hoạt động cơng vụ6. Theo cách tiếp
cận này, hối lộ là hành vi chỉ diễn ra trong khu vực nhà nước (khu vực công) và
được thực hiện bởi nhân viên nhà nước, không đề cập đến hành vi hối lộ diễn ra ở
khu vực ngoài nhà nước (khu vực tư). Hiện nay, các hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh
vực tư dần thể hiện vai trò thiết thực trong xã hội, nhiều hoạt động trước đây chỉ
thuộc độc quyền do nhà nước thực hiện, nay cho phép chuyển một số dịch vụ công
sang khu vực tư nhân (ví dụ: dịch vụ hàng khơng dân dụng, xây dựng hạ tầng giao
thông, công chứng, giáo dục, cung ứng dịch vụ mua bán tài sản cơng…). Vì vậy, để
tránh sự cạnh tranh không lành mạnh, tạo sự công bằng, minh bạch trong nền kinh
tế thì các chuyên gia pháp lý, nhà lập pháp các nước đã tiếp cận hành vi hối lộ
không chỉ trong khu vực nhà nước mà cịn cả trong khu vực ngồi nhà nước. Liên
hệ với Việt Nam về vấn đề này, chúng tôi thấy rằng Luật Phòng, chống tham nhũng
năm 2018 đã quy định các hành vi hối lộ bao gồm: nhận hối lộ; đưa hối lộ, môi giới
hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương, doanh
nghiệp vì vụ lợi mà chủ thể thực hiện hành vi là những người có chức vụ, quyền
hạn cả trong khu vực công và khu vực tư, điều này phù hợp với quan điểm chỉ đạo
tại Kết luận số 10-KL/TW ngày 26/12/2016 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện
Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng
tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí.
Trịnh Tiến Việt (2011), “Nghiên cứu so sánh các quy định về tội đưa hối lộ, làm mơi giới hối lộ trong Luật
hình sự Việt Nam và Cơng ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng”, Tịa án nhân dân, Số 17, tr.1-6
6
Đào Lệ Thu (2011), Các tội phạm về hối lộ theo Luật hình sự Việt Nam trong sự so sánh với Luật hình sự
Thụy Điển và Australia, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.18,19.
5
10
Từ các khía cạnh tiếp cận kể trên, chúng tơi nhận thấy một điểm chung đó là
hối lộ ln thể hiện bản chất tiêu cực, là sự trao đổi lợi ích bất hợp pháp giữa một
bên có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thu vén lợi ích cá
nhân bằng cách làm theo yêu cầu của bên đưa hối lộ, còn bên đưa hối lộ sử dụng lợi
ích khơng chính đáng để đổi lấy việc người nhận hối lộ làm theo u cầu của mình.
Tính tiêu cực của hành vi hối lộ là sự luận giải cho việc cần thiết phải quy định
thành tội phạm và có chế tài hình sự mang tính nghiêm khắc nhằm phịng ngừa có
hiệu quả đối với loại tội phạm này.
Quan điểm chung của pháp luật quốc tế đều coi tất cả các dạng hành vi hối lộ
đều là tham nhũng cần được hình sự hóa và quan điểm này được thể hiện ở việc
Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng quy định cả nhận hối lộ và đưa hối
lộ đều là hành vi tham nhũng. Cụ thể, Công ước xây dựng những định nghĩa mô tả
từng tội phạm cụ thể thay vì đưa ra định nghĩa chung về hối lộ. Ví dụ: Điều 15 của
Cơng ước đưa ra định nghĩa hành vi đưa hối lộ, nhận hối lộ của công chức quốc gia
như sau: hành vi đưa hối lộ là hành vi “Hứa hẹn, chào mời hay cho trực tiếp hay
gián tiếp công chức bất kỳ một lợi ích khơng chính đáng cho chính bản thân cơng
chức ấy hay cho một người hoặc một tổ chức khác, để công chức làm hoặc không
làm một việc trong quá trình thi hành cơng vụ”; hành vi nhận hối lộ là hành vi
“Trực tiếp hay gián tiếp đòi hoặc nhận một lợi ích khơng chính đáng cho chính bản
thân cơng chức hay người hoặc tổ chức khác, để công chức làm hoặc khơng làm
một việc trong q trình thi hành công vụ”. Điều đáng chú ý, khái niệm trên được
nêu tương đồng với khái niệm về các tội phạm hối lộ trong Công ước của Liên hợp
quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Như vậy, nhận thức của cộng
đồng quốc tế về các dạng của tội phạm hối lộ là khá thống nhất; việc các công ước
nêu song hành giữa hành vi đưa hối lộ với hành vi nhận hối lộ vừa khẳng định mối
quan hệ hữu cơ giữa 2 loại hành vi này vừa cho thấy dấu hiệu pháp lý có tính chất
tác động qua lại giữa chúng.
Theo quy định của luật hình sự Việt Nam, các tội phạm về hối lộ gồm 03 tội
phạm cụ thể, đó là: tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ, tội môi giới hối lộ. Căn cứ quy
định tại Điều 354, 364 và 365 BLHS năm 2015, chúng tôi xây dựng ra khái niệm
chung về tội phạm hối lộ như sau:
Tội phạm hối lộ là những hành vi trực tiếp hoặc qua trung gian (i) nhận hoặc
sẽ nhận một lợi ích (vật chất hoặc phi vật chất) cho bản thân của người có chức vụ,
11
quyền hạn hoặc cho bên thứ ba (cá nhân, tổ chức); (ii) đã đưa hoặc sẽ đưa một lợi
ích (vật chất hoặc phi vật chất) của bất kì người nào cho người có chức vụ, quyền
hạn hoặc cho bên thứ ba (cá nhân, tổ chức); (iii) làm trung gian cho hành vi đưa và
nhận hối lộ, nhằm gây ảnh hưởng đến việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của
người có chức vụ một cách cố ý vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
1.1.2. Đặc điểm của các tội phạm hối lộ
Hối lộ sẽ có những đặc điểm khác nhau tùy thuộc vào góc độ và mục đích
nghiên cứu. Trong luận văn này, chúng tơi đưa ra những đặc điểm cơ bản của tội
phạm hối lộ dưới góc độ luật hình sự Việt Nam nhằm làm cơ sở cho sự so sánh với
các quy định của Công ước về loại tội phạm này.
Thứ nhất, trong quan hệ hối lộ luôn tồn tại song song hai chủ thể có quan hệ
hữu cơ với nhau, đó là người nhận hối lộ và người đưa hối lộ. Một bên chủ thể có
nhu cầu giải quyết cơng việc (có thể hợp pháp hoặc không hợp pháp); một bên chủ
thể khác có quyền lực trong việc giải quyết nhu cầu cơng việc cho bên kia. Sự tồn
tại của hai chủ thể này là điều kiện tiên quyết cho sự xuất hiện của hành vi hối lộ,
nếu thiếu một trong hai chủ thể này thì khơng thể tồn tại hành vi hối lộ và rằng các
hành vi khách quan của hai chủ thể này cần phải được đưa vào khái niệm các tội
phạm hối lộ, điều này thể hiện trong quy định của Công ước và BLHS Việt Nam về
các tội phạm hối lộ. Về công việc mà chủ thể đưa hối lộ có nhu cầu mong muốn đạt
được có thể đó là cơng việc hợp pháp, chính đáng nhưng vì họ gặp khó khăn về thủ
tục hành chính hoặc bị sách nhiễu bởi người có chức vụ, quyền hạn nên họ phải tìm
cách “bơi trơn” để cho cơng việc hợp pháp ấy được tiến hành thuận lợi hơn. Cũng
có khi người đưa hối lộ muốn được giải quyết việc bất hợp pháp cho họ nên phải
đưa hối lộ cho người có chức vụ, quyền hạn để được bỏ qua các quy tắc pháp lý,
hành chính. Ví dụ: đưa hối lộ để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, mặc
dù người đưa hối lộ đảm bảo đủ các điều kiện về pháp lý nhưng vì họ muốn có
được giấy chứng nhận nhanh và ít tốn cơng sức đi lại hoặc trường hợp đưa hối lộ
cho cảnh sát giao thông để được bỏ qua các lỗi vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ. Rõ ràng, đây là hai ví dụ thể hiện cơng việc hợp
pháp và công việc bất hợp pháp mà người đưa hối lộ mong muốn đạt được thơng
qua hành vi của người có chức vụ, quyền hạn. Như vậy, khi đánh giá tính chất của
hành vi đưa, nhận hối lộ cần căn cứ vào tính chất cơng việc của bên đưa hối lộ
muốn đạt được là hợp pháp hay bất hợp pháp; cũng như việc làm hoặc không làm
12
một việc của người nhận hối lộ có hợp pháp hay khơng, từ đó có đường lối xử lý
hình sự phù hợp. Hành vi môi giới hối lộ xuất hiện khi bên đưa và bên nhận không
gặp được nhau, khi đó hành vi mơi giới sẽ giúp cho “cung –cầu” gặp nhau và là chất
xúc tác nhằm tạo ra điều kiện thuận lợi hơn, an toàn hơn cho hành vi đưa, nhận hối
lộ được thực hiện. Người môi giới hối lộ xuất phát từ nhiều mục đích khác nhau, có
thể là sự giúp đỡ vì tình cảm để người đưa hối lộ và người nhận hối lộ gặp nhau
trong khi hai bên đều có nhu cầu “mua - bán”, cũng có khi thực hiện hành vi mơi
giới hối lộ để sinh lợi. Xuất phát từ hành vi trái pháp luật của hành vi đưa hối lộ và
nhận hối lộ, do đó hành vi mơi giới hối lộ dù xuất phát từ mục đích gì đi nữa thì
cũng bị xem là hành vi bất hợp pháp.
Thứ hai, tính vụ lợi trong việc thực hiện hành vi đưa, nhận hối lộ. Trên
phương diện pháp lý và thực tiễn áp dụng pháp luật sẽ khơng tồn tại hành vi hối lộ
nếu khơng có sự tồn tại của “của hối lộ” với tư cách là phương tiện dùng để tác
động theo ý chí của người đưa hối lộ lên việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của
người có chức vụ, quyền hạn. Ví dụ: một viên cảnh sát giao thông ra lệnh dừng một
xe ôtô có hành vi vượt đèn đỏ; sau đó, phát hiện người điều khiển xe ơtơ là bạn thân
của mình nên viên cảnh sát này không xử phạt vi phạm mà cho phương tiện tiếp tục
di chuyển. Trong trường hợp này, viên cảnh sát và người bạn đó khơng có hành vi
hối lộ bởi không tồn tại “của hối lộ” trong việc giải quyết công việc này. Mặt khác,
“của hối lộ” khơng chỉ được thụ hưởng bởi chính người có chức vụ, quyền hạn mà
cịn có thể được thụ hưởng bởi bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức khác, miễn sao việc thụ
hưởng lợi ích đó đã tác động đến việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của người có
chức vụ, quyền hạn theo hướng có lợi cho người đưa hối lộ.
Thứ ba, các tội phạm về hối lộ luôn được thực hiện với lỗi cố ý, kể cả trong
trường hợp đưa hối lộ do bị người có chức vụ, quyền hạn đòi hỏi, sách nhiễu hoặc
nhận hối lộ do bị ép buộc, mua chuộc. Bởi vì đây là quyết định của chính bản thân
các chủ thể, trong khi chủ thể có đủ lý trí và ý chí để lựa chọn cách xử sự phù hợp
với quy định của pháp luật.
Thứ tư, hối lộ là những hành vi nguy hiểm cho xã hội và phải được quy định
trong luật hình sự. Hành vi hối lộ được điều chỉnh ở nhiều văn bản quy phạm pháp
luật khác nhau, tuy nhiên xuất phát từ ngun tắc của luật hình sự “Khơng có tội
phạm nêu khơng có luật”, do đó để xử lý hình sự đối với hành vi hối lộ thì bắt buộc
hành vi hối lộ phải được quy định thành tội phạm trong BLHS Việt Nam.
13
1.2. Khái niệm nội luật hóa quy định của Cơng ước Liên hợp quốc về
chống tham nhũng đối với các hành vi hối lộ
1.2.1. Khái niệm nội luật hóa điều ước quốc tế
Mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế tuy là vấn đề mang
tính lý luận truyền thống của luật quốc tế nhưng vẫn đồng thời mang tính thời sự
sâu sắc đối với mỗi quốc gia trong q trình xây dựng, hồn thiện pháp luật. Tuy
nhiên, mối quan hệ này đang có sự tranh luận trong giới nghiên cứu pháp luật Việt
Nam, cụ thể đó là vấn đề: (1) pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế nằm trong
cùng một hệ thống pháp luật hay đó là hai hệ thống pháp luật độc lập, (2) Vị trí của
các ĐƯQT trong hệ thống pháp luật Việt Nam, (3) Vấn đề nội luật hóa và thực thi
ĐƯQT của Việt Nam. Để xác định mối quan hệ này, các học giả thường viện dẫn
hai học thuyết cơ bản, đó là “nhất nguyên luận” (monism) và “nhị nguyên luận”
(dualism) là những học thuyết mang tính truyền thống được thừa nhận bởi các quốc
gia7. Trong học thuyết nhất nguyên luận có xuất phát điểm từ nguyên lý của trường
phái “Pháp luật tự nhiên” cho rằng: pháp luật là một hệ thống thống nhất. Như vậy,
pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế là các phần trong cùng một hệ thống pháp
luật. Trong học thuyết này được chia thành hai trường phái trái ngược nhau: Trường
phái xem pháp luật quốc tế là một bộ phận của pháp luật quốc gia; theo đó, luật
quốc tế được xem là một bộ phận mang tính đối ngoại của quốc gia. Ngược lại,
trường phái xem pháp luật quốc gia là một bộ phận của luật pháp quốc tế (khẳng
định tính ưu việt của pháp luật quốc tế), nếu pháp luật quốc gia trái với pháp luật
quốc tế thì pháp luật quốc gia bị coi là vơ hiệu.
Trong khi đó, ở hệ nhị nguyên luận, pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia
là hai hệ thống hoàn toàn riêng biệt, bởi chúng có chủ thể áp dụng khác nhau, trong
đó chỉ có pháp luật quốc gia mới có tính ràng buộc đối với cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong quốc gia đó. Như vậy, chúng ta không thể viện dẫn một ĐƯQT trước
Tịa án quốc gia, trừ khi điều ước đó được chuyển hóa vào nội luật bằng những quy
định pháp luật quốc gia. Các nước theo hệ nhị nguyên luận có thể chia thành hai
loại: thứ nhất, là những quốc gia nơi “sự phê chuẩn chính thức của quốc hội, thường
được thực hiện dưới hình thức phê chuẩn ĐƯQT là đủ để nội luật hóa một ĐƯQT
Nguyễn Thị Phương Hoa (2015), Nội luật hóa các quy định của Cơng ước chống tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia trong Bộ luật hình sự Việt Nam, đề tài khoa học và cơng nghệ cấp bộ, Trường Đại học Luật
TP.HCM, tr.18.
7
14
vào pháp luật quốc gia, q trình nội luật hóa diễn ra về mặt hình thức và kết quả là
ĐƯQT được áp dụng trực tiếp trong hệ thống pháp luật quốc gia”. Thứ hai, là
những quốc gia nơi “sự phê chuẩn của quốc hội khơng phải là chính thức mà đóng
vai trị là một bước trong tiến trình thực thi lập pháp về mặt nội dung của ĐƯQT.
Điều ước sẽ (…) không thể được áp dụng trực tiếp nữa”8.
Ngày nay, trước yêu cầu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực xây dựng pháp luật,
đồng thời phải giữ vững chủ quyền quốc gia khi tham gia vào các quan hệ quốc tế,
đa số các quốc gia khơng tuyệt đối hóa bất kỳ một học thuyết nào trong hai học
thuyết trên mà có sự vận dụng linh hoạt do xuất phát từ những lý do sau: thứ nhất,
nếu chỉ vận dụng học thuyết nhị ngun luận sẽ khơng hịa nhập trong mơi trường
quốc tế vốn dĩ là “sân chơi” chung của các quốc gia khi tồn tại song song hai hệ
thống pháp luật, như vậy sẽ mâu thuẫn đời sống quốc tế được xây dựng trên cơ sở
cởi mở, hòa nhập và tôn trọng nhau. Thứ hai, nếu chỉ vận dụng học thuyết nhất
ngun luận thì sẽ có hai trường hợp xảy ra: một là, nếu khẳng định tính ưu việt của
pháp luật quốc gia, tức là trật tự pháp luật của thế giới đặt dưới trật tự pháp luật của
từng quốc gia riêng lẻ điều này thật sự phi lý và hệ quả của nó là tạo sự cục bộ trong
quan hệ quốc tế. Hai là, nếu khẳng định tính ưu việt của pháp luật quốc tế thì sẽ ảnh
hưởng đến chủ quyền cũng như quyền tự quyết của các quốc gia. Chính vì vậy, đa
số các nhà nghiên cứu pháp lý cho rằng việc vận dụng linh hoạt cả hai học thuyết
trên sẽ giúp cho các quốc gia thành viên vừa có điều kiện thuận lợi trong quan hệ
quốc tế vừa đảm bảo độc lập và chủ quyền quốc gia.
Đối với từng quốc quốc gia, để hiểu rõ quan điểm về áp dụng pháp luật quốc
tế, thông thường chúng ta tìm hiểu quy định trong Hiến pháp của quốc gia đó. Riêng
Việt Nam, liên quan đến vấn đề này Hiến pháp quy định như sau: khoản 14 Điều 70
về nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội: “phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm
dứt hiệu lực của ĐƯQT liên quan đến chiến tranh, hịa bình, chủ quyền quốc
gia…”. Khoản 6 Điều 88 về nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước: “…quyết
định đàm phán, ký ĐƯQT nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn, quyết
định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực ĐƯQT quy định tại khoản 14 điều 70; quyết
định phê chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực ĐƯQT khác nhân danh Nhà
nước”. Khoản 7 Điều 96 về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ “Tổ chức đàm
phán, ký ĐƯQT nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định
8
Nguyễn Thị Phương Hoa (2015), tlđd (7), tr.19.
15
việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực ĐƯQT nhân danh Chính phủ,
trừ ĐƯQT trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70…”.
Qua các quy định của Hiến pháp năm 2013, Việt Nam không ghi nhận
nguyên tắc nào trong việc xác định mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp
luật quốc tế. Như vậy, vấn đề về nội luật hóa ĐƯQT trong pháp luật Việt Nam sẽ
được chúng tôi nghiên cứu thông qua các quan điểm pháp lý của các học giả cũng
như các quy định trong Luật ĐƯQT năm 2016.
Xét về thuật ngữ, nội luật hóa là q trình chuyển hóa nội dung, yêu cầu
trong các quy định của ĐƯQT vào pháp luật quốc gia nhằm hướng tới việc thực thi
ĐƯQT. Theo Từ điển Luật học, nội luật hóa là việc “chuyển hóa quy định trong
ĐƯQT thành quy phạm pháp luật có giá trị bắt buộc thực hiện đối với tổ chức, cá
nhân ở một quốc gia”. Mục đích của nội luật hóa để các quốc gia thực thi nghiêm
túc ĐƯQT mà quốc gia đó là thành viên. Việc nội luật hóa được tiến hành sau khi
cơ quan có thẩm quyền của quốc gia chính thức xác nhận quy định trong ĐƯQT
ràng buộc đối với quốc gia đó (phê chuẩn hoặc phê duyệt)”9. Nghiên cứu của nhóm
tác giả Hồng Phước Hiệp có hai cách tiếp cận về nội luật hóa. Cách tiếp cận thứ
nhất cho rằng nội luật hóa là quá trình pháp lý do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
tiến hành nhằm chấp nhận hiệu lực ràng buộc của ĐƯQT. Cách tiếp cận này đã
đánh đồng quan điểm nội luật hóa với việc chấp nhận hiệu lực của ĐƯQT. So sánh
với học thuyết nhất nguyên luận và nhị nguyện luận ta thấy rằng cách tiếp cận này
là sự áp dụng học thuyết nhất nguyên luận và rõ ràng không phán ánh đúng thực
tiễn của quá trình thi hành ĐƯQT tại Việt Nam. Cách tiếp cận thứ hai, cho rằng:
“Nội luật hóa là q trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành các
hoạt động cần thiết để chuyển hóa các quy phạm của ĐƯQT thành quy phạm pháp
luật quốc gia bằng cách ban hành, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật
trong nước …”
Cách tiếp cận này chính là nội dung của thuyết nhị nguyên luận, trong đó các
quốc gia khơng được áp dụng trực tiếp ĐƯQT mà cần phải “nội luật hóa” của quy
định của ĐƯQT vào pháp luật quốc gia. Từ cách tiếp cận này, chúng ta có thể hiểu
một cách ngắn gọn “nội luật hóa” là việc chuyển hóa các quy định trong ĐƯQT trở
thành các quy định trong pháp luật quốc gia”. Điều này khác với việc phê chuẩn
Nguyễn Quyết Thắng (2016), Nội luật hóa quy định của Điều ước quốc tế chống khủng bố về tội phạm hóa
trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.10.
9
16
hoặc phê duyệt là nhằm mục đích thừa nhận các quy định trong ĐƯQT. Nội luật
hóa khơng nhằm mục đích thừa nhận mà nhằm đặt ra yêu cầu đối với các quốc gia
ký kết phải đảm bảo cho ĐƯQT có giá trị bắt buộc đối với tổ chức, cá nhân của
quốc gia mình.
Đề hiểu rõ hơn quan điểm của Việt Nam trong việc thực hiện ĐƯQT mà Việt
Nam là thành viên, chúng tôi nghiên cứu Luật ĐƯQT năm 2016 (Luật số
108/2016/QH13) và thấy rằng, tại khoản 1 Điều 6 quy định “Trường hợp văn bản
quy phạm pháp luật và ĐƯQT mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của
ĐƯQT đó, trừ Hiến pháp”. Như vậy có thể thấy rằng trong mối quan hệ với pháp
luật quốc gia thì những quy định của ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên dường như
có tính ưu việt hơn, song cần khẳng định rằng những quy định của ĐƯQT không
trái với Hiến pháp cũng như đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc, đường lối đối ngoại
của nhà nước, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Tuy nhiên, để được áp dụng trực tiếp ĐƯQT hay khơng cịn phải xem xét các
điều khoản trong ĐƯQT đã quy định đủ rõ, đủ chi tiết để có thể áp dụng trong thực
tiễn được hay khơng. Theo khoản 2 Điều 6 Luật ĐƯQT năm 2016 quy định “Căn
cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của ĐƯQT, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ
khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của ĐƯQT đồng thời quyết định áp dụng
trực tiếp toàn bộ hoặc một phần ĐƯQT đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
trường hợp quy định của ĐƯQT đã đủ rõ, đủ chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc
kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để
thực hiện ĐƯQT đó”.
Như vậy, quan điểm lập pháp của Việt Nam không tuân theo duy nhất một
học thuyết nào trong giải quyết mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia mà là
sự linh hoạt trong việc kết hợp cả hai học thuyết nhất nguyên luận và nhị nguyên
luận để giải quyết mối quan hệ đó. Điều đó có nghĩa là khi Việt Nam tham gia vào
một ĐƯQT nào đó vừa có thể áp dụng trực tiếp ĐƯQT theo học thuyết nhất nguyên
luận (trừ trường hợp ĐƯQT trái với Hiến pháp); đồng thời vừa có thể sửa đổi, bổ
sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện ĐƯQT theo
học thuyết nhị nguyên luận.
Như vậy, căn cứ vào Điều 6 của Luật ĐƯQT năm 2016, Việt Nam có thể
tiến hành nội luật hóa quy định của ĐƯQT thơng qua các hình thức sau đây:
17
Thứ nhất: Sau khi tham gia ĐƯQT, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam
ban hành văn bản thừa nhận hiệu lực của ĐƯQT đó trên lãnh thổ quốc gia (trừ
những quy định trái với Hiến pháp). Trong trường hợp này, mọi tổ chức, cá nhân
thực hiện theo quy định của ĐƯQT giống như là thực hiện pháp luật quốc gia.
Thứ hai: Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới hoặc sửa đổi, bổ
sung các quy định trong các văn bản pháp luật đã có nhằm cụ thể hóa các quy định
trong ĐƯQT. Hình thức này sẽ tạo ra các văn bản quy phạm pháp luật mới trong hệ
thống pháp luật quốc gia hoặc làm thay đổi một số nội dung, một số quy định trong
các văn bản hiện hành nhằm phù hợp theo yêu cầu của ĐƯQT.
Thứ ba: Thực hiện bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật hoặc một số quy
định trong các văn bản pháp luật quốc gia phù hợp với yêu cầu của ĐƯQT. Hình
thức này khắc phục sự mâu thuẫn trong nội dung điều chỉnh của pháp luật quốc gia
so với yêu cầu của ĐƯQT.
Việc tiến hành nội luật hóa thơng qua hình thức nào thì hầu như ĐƯQT đều
khơng quy định bắt buộc miễn sao các quốc gia thành viên đảm bảo việc thực thi
hiệu quả các cam kết trong các ĐƯQT. Đối với Việt Nam, việc tiến hành nội luật
hóa bằng các hình thức nêu trên sẽ được xác định bởi cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tương ứng với từng trường hợp cụ thể. Ví dụ, theo Điều 5 Nghị quyết của
Quốc hội ngày 23/6/1994 về việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật
biển 1982 nêu rõ “Quốc hội giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ nghiên
cứu có những sửa đổi, bổ sung cần thiết đối với các quy định của pháp luật quốc gia
cho phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, bảo đảm lợi
ích của Việt Nam”.
1.2.2. Khái niệm nội luật hóa quy định của Công ước Liên hợp quốc về chống
tham nhũng đối với các hành vi hối lộ trong Bộ luật hình sự
Như đã phân tích ở phần trên về khái niệm nội luật hóa ĐƯQT, theo Luật
ĐƯQT năm 2016 thì Cơng ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng là một
ĐƯQT cụ thể mà Việt Nam là thành viên. Chúng tôi đưa ra khái niệm như sau: Nội
luật hóa quy định của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng đối với các
hành vi hối lộ trong BLHS là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm nhằm
chuyển hóa quy định về hành vi hối lộ của Công ước vào BLHS Việt Nam bằng
cách sửa đổi, bổ sung các tội phạm hối lộ trong BLHS hiện hành.
18
Từ định nghĩa trên, chúng tôi rút ra một số đặc điểm của nội luật hóa quy
định của Cơng ước với các hành vi hối lộ trong BLHS như sau:
Thứ nhất, nội luật hóa quy định của Cơng ước đối với các hành vi hối lộ
trong BLHS Việt Nam được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau
khi phê chuẩn Công ước Việt Nam tuyên bố “không áp dụng trực tiếp các quy
định của Công ước, việc thực hiện các quy định của Công ước sẽ theo nguyên tắc
Hiếp pháp và pháp luật thực định của Việt Nam..”10. Theo Hiến pháp năm 2013,
Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp… Như vậy, việc nội luật
hóa quy định của Cơng ước vào BLHS chỉ được thực hiện bởi Quốc hội, ngồi
Quốc hội khơng có chủ thể nào khác có thẩm quyền chuyển hóa quy định của
Công ước thành các quy định trong BLHS Việt Nam nói chung và đối với các
hành vi hối lộ nói riêng. Có thể nói, nổi bật ở đặc điểm này đó là hoạt động của
Quốc hội với vai trị là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hịa xã hơi chủ
nghĩa Việt Nam là cơ quan duy nhất có thẩm quyền chuyển hóa quy định của
Cơng ước thành các quy định trong BLHS về các hành vi hối lộ nhằm thực thi
trách nhiệm của Việt Nam trong việc hình sự hóa các hành vi hối lộ theo tinh thần
của Cơng ước.
Thứ hai, nội luật hóa quy định của Công ước đối với các hành vi hối lộ được
thực hiện bằng hình thức sửa đổi, bổ sung quy định về các tội phạm hối lộ trong
BLHS Việt Nam. Theo Quyết định phê chuẩn năm 2009, Việt Nam chính thức trở
thành thành viên của Cơng ước và có nghĩa vụ thực thi các cam kết thể hiện trong
các điều khoản của Công ước, trừ những điều khoản tuyên bố bảo lưu. Vấn đề hình
sự hóa các hành vi tham nhũng nói chung trong đó có hành vi hối lộ là yêu cầu bắt
buộc của Công ước đối với các quốc gia thành viên. Đối với các hành vi hối lộ đã
được Việt Nam quy định thành tội phạm trong BLHS, vì vậy việc nội luật hóa quy
định của Cơng ước vào BLHS Việt Nam không phải ban hành quy phạm pháp luật
mới hoặc cũng không cần bãi bỏ quy phạm pháp luật hiện hành mà chỉ cần sửa đổi
hoặc/và bổ sung các quy định về các tội phạm hối lộ trong BLHS Việt Nam hiện
hành theo yêu cầu của Công ước đặt ra cho các quốc gia thành viên.
Thứ ba, nội luật hóa phải tạo ra sự tương thích giữa quy định BLHS Việt
Nam với quy định của Công ước về các tội phạm hối lộ. Đây được xem là yếu tố cốt
Quyết định số 950/2009/QĐ-CTN của Chủ tịch nước ngày 30 tháng 6 năm 2009 về việc phê chuẩn Công
ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng.
10
19
lõi để đánh giá hiệu quả của hoạt động nội luật hóa đáp ứng u của Cơng ước. Q
trình nội luật hóa là một q trình nghiên cứu, so sánh, tổng hợp, đánh giá quy định
của cả hai văn bản pháp lý về tội phạm hối lộ để thấy được sự tương đồng và khác
biệt trong quy định. Trên cơ sở đó, căn cứ vào những u cầu của Cơng ước để
hồn thiện pháp luật hình sự về tội phạm hối lộ.
1.3. Các yêu cầu của Công ước về nội luật hóa đối với các hành vi hối lộ
Khi Việt Nam tham gia Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng
thì việc nội luật hóa quy định của Công ước là yêu cầu khách quan, tất yếu của quá
trình phát triển và hội nhập, nhằm thực hiện tốt các cam kết quốc tế, đồng thời đẩy
mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta. Trong Luận văn này,
chúng tôi nêu ra một số yêu cầu của Cơng ước về nội luật hóa các hành vi hối lộ
trong BLHS Việt Nam.
Thứ nhất, khi tham gia Công ước các quốc gia thành viên phải thực hiện tận
tâm, thiện chí việc nội luật hóa các hành vi hối lộ
“Tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế” chính là một trong bảy
nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế hiện đại được ghi nhận trong Hiến chương Liên
hợp quốc năm 1945 cũng như trong Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm
1970 về những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và
hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc. Theo đó,
nguyên tắc này yêu cầu mỗi quốc gia phải có nghĩa vụ thực hiện một cách tận tâm,
đầy đủ, thiện chí và trung thực các nghĩa vụ của mình đã cam kết phù hợp với Hiến
chương Liên hợp quốc. Điều đó có nghĩa là khi các quốc gia đã ký kết hoặc gia
nhập một ĐƯQT thì quốc gia đó có nghĩa vụ phải nội luật hóa và thực hiện đầy đủ,
có trách nhiệm theo đúng quy định và yêu cầu của điều ước đó. Nghĩa vụ tận tâm,
thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế không cho phép các quốc gia được viện dẫn
pháp luật nước mình để khơng thực hiện ĐƯQT11. Đây cũng chính là một trong
những cơ sở của việc hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quy định trong pháp luật
hoặc áp dụng trên thực tiễn nguyên tắc ưu tiên áp dụng quy định của ĐƯQT trong
trường hợp văn bản quy phạm pháp luật quốc gia và ĐƯQT mà quốc gia thành viên
quy định khác nhau về cùng một vấn đề và trong trường hợp này, Công ước của
Liên hợp quốc về chống tham nhũng cũng không ngoại lệ.
11
Điều 27, Công ước Vienna năm 1969.