Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

SKKN rèn kĩ năng kể chuyện theo quan điểm giao tiếp cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.8 KB, 44 trang )

`
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................4
1. Lí do chọn đề tài................................................................................................4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.................................................................................5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.....................................................................6
4. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................6
5. Đóng góp của đề tài...........................................................................................7
6. Cấu trúc của đề tài.............................................................................................7
B. PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.............................................8
1.1. Cơ sở lý luận...................................................................................................8
1.1.1. Giao tiếp......................................................................................................8
1.1.1.1. Khái niệm giao tiếp..................................................................................8
1.1.1.2. Chức năng giao tiếp..................................................................................9
1.1.1.3. Các nhân tố giao tiếp..............................................................................10
1.1.2. Kể chuyện..................................................................................................11
1.1.2.1. Khái niệm kể chuyện..............................................................................11
1.1.2.2. Đặc điểm của kể chuyện.........................................................................12
1.1.2.3. Vai trò của phân môn kể chuyện............................................................13
1.1.3. Đặc điểm giao tiếp trong môn kể chuyện..................................................14
1.1.3.1. Đặc điểm giao tiếp của kể chuyện xác định từ phía người kể................14
1.1.3.2. Đặc điểm giao tiếp của kể chuyện xác định từ phía người nghe............15
1.1.3.3. Mối quan hệ giao tiếp giữa các nhân vật trong câu chuyện...................16
1.1.3.4. Xây dựng các tình huống giao tiếp trong câu chuyện...........................17
1.2. Cơ sở thực tiễn.............................................................................................17
1.2.1. Chương trình kể chuyện lớp 5...................................................................17
1.2.2. Thực trạng dạy học kể chuyện lớp 5.........................................................18
1.2.2.1. Thuận lợi................................................................................................18
1.2.2.2. Khó khăn................................................................................................19



CHƯƠNG 2: RÈN KỸ NĂNG KỂ CHUYỆN THEO QUAN ĐIỂM GIAO
TIẾP CHO HỌC SINH LỚP 5............................................................................21
2.1. Nguyên tắc đề xuất các biện pháp dạy kể chuyện theo quan điểm giao tiếp
cho học sinh lớp 5................................................................................................21
2.1.1. Đảm bảo mục tiêu môn học.......................................................................21
2.1.2. Đảm bảo phù hợp với trình độ của học sinh..............................................21
2.1.3. Đảm bảo tính hấp dẫn................................................................................22
2.2. Các biện pháp rèn kỹ năng kể chuyện theo quan điểm giao tiếp cho học sinh
lớp 5.....................................................................................................................22
2.2.1. Kỹ năng giao tiếp với người nghe.............................................................22
2.2.1.1. Cách giới thiệu câu chuyện....................................................................23
2.2.1.2. Cách kết thúc câu chuyện.......................................................................23
2.2.1.3. Một số bài tập minh họa.........................................................................24
2.2.2. Kỹ năng nhận xét, đánh giá.......................................................................27
2.2.3. Kỹ năng đóng vai......................................................................................28
2.2.3.1. Khái niệm đóng vai................................................................................28
2.2.3.2. Tình huống được sử dụng trong đóng vai..............................................28
2.2.3.3. Lợi ích của kỹ năng đóng vai trong phân mơn kể chuyện......................29
2.2.3.4. Vận dụng kỹ năng đóng vai trong kể chuyện theo quan điểm giao tiếp 30
2.2.4. Kỹ năng kể chuyện kết hợp với diễn xuất và đồ dùng trực quan..............32
2.2.4.1 . Kỹ năng kể chuyện kết hợp với diễn xuất.............................................32
2.2.4.2. Kỹ năng kể chuyện kết hợp với đồ dùng trực quan................................32
2.2.4.2. Một số bài tập minh họa.........................................................................34
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM........................................................37
3.1. Mục đích thực nghiệm..................................................................................37
3.2. Thời gian thực nghiệm.................................................................................37
3.3. Phạm vi thực nghiệm....................................................................................37
3.4. Đối tượng thực nghiệm.................................................................................37
3.5. Nội dung thực nghiệm..................................................................................37

3.6. Phương pháp thực nghiệm............................................................................40
3.7. Tổ chức thực nghiệm....................................................................................40


3.7.1. Chuẩn bị thực nghiệm...............................................................................40
3.7.2. Tiến hành thực nghiệm..............................................................................40
3.8. Đánh giá kết quả thực nghiệm......................................................................41
3.8.1. Tiêu chí đánh giá.......................................................................................41
3.8.2. Kết quả thực nghiệm.................................................................................41
3.8.3. Phân tích kết quả thực nghiệm..................................................................42
3.8.3.1. Phân tích định tính..................................................................................42
3.8.3.2. Phân tích định lượng..............................................................................42
KẾT LUẬN.........................................................................................................43
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................44


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tiểu học là nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ
thống giáo dục quốc dân. Đây là cấp học nền tảng trong nhà trường phổ thông,
đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành, phát triển tồn diện nhân cách con người.
Giáo dục Tiểu học hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu về sự phát triển
đúng đắn và lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất và các kỹ năng cơ bản để học
tiếp trung học hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Bậc Tiểu học hình thành cho học sinh những kỹ năng cơ bản tối thiểu, đó
là kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ. Những kỹ năng được hình thành trên
cơ sở phát triển tư duy và ngược lại nhờ có kỹ năng cơ bản đó mà học sinh tiếp
tục học tập tốt hơn. Nhà trường tiểu học là cái nôi cung cấp cho học sinh những
tri thức khoa học, kỹ năng, kĩ xảo cần thiết, giúp các em hình thành và phát triển
nhân cách.

Trong cuộc sống hàng ngày, khi con người mới sinh ra thì đã có nhu cầu
giao tiếp, nhu cầu đó ngày càng địi hỏi cao hơn, nhiều hơn. Kể chuyện chính là
một phần khơng thể thiếu được của nhu cầu ấy. Ngay từ khi còn nhỏ tuổi thơ
của các em đã được tiếp xúc với phân môn kể chuyện. Qua các câu chuyện kể
của bố mẹ, ông bà đã đưa các em đến với vườn cổ tích thần bí ở lứa tuổi mẩu
giáo, các em đã được làm quen và tham gia, hịa mình vào các câu chuyện dưới
sự hướng dẫn của các cô giáo mầm non.
Việc rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh là việc làm rất cần thiết vì trong
trường tiểu học, kể chuyện là một phân môn nhằm phát triển lời nói, khả năng
giao tiếp cho học sinh, cung cấp những kiến thức về vốn sống và văn học, nêu
những tấm gương có tác dụng giáo dục.
Kể chuyện là một kiểu bài học nhằm phát triển lời nói, khả năng giao tiếp
cho học sinh, bồi dưỡng cho các em những cảm xúc thẩm mĩ lành mạnh, cung
cấp những kiến thức về vốn sống và văn học, nêu những tấm gương có tác dụng


giáo dục. Do vậy, việc rèn kỹ năng kể chuyện theo quan điểm giao tiếp cho học
sinh là một việc làm cần thiết của mỗi giáo viên.
Phân môn kể chuyện giáo dục cho các em tấm lòng yêu quê hương đất
nước, u mn lồi và u thế giới xung quanh. Giáo dục lòng yêu cái tốt, cái
đẹp, biết căm nghét cái xấu, cái ác, ghét chiến tranh nhưng có tấm lịng đầy vị
tha, góp phần hình thành nhân cách của con người của các em. Kể chuyện ở lớp
5 còn giúp cho các em có tinh thần, ý chí, nghị lực và óc sáng tạo thơng qua các
nhân vật trong các câu chuyện để từ đó giúp các em nâng cao những hiểu biết
giúp các em góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
Tuy nhiên trên thực tế, giáo viên và học sinh gặp rất nhiều khó khăn, lúng
túng khi dạy học kể chuyện theo quan điểm này. Phần lớn giáo viên chỉ đang
dừng lại ở việc dạy kể chuyện theo lời nói của nhân vật hay theo nội dung câu
chuyện, chưa quan tâm đến việc ứng dụng của việc kể chuyện là học sinh biết sử
dụng các phần mình đã kể.

Nghiên cứu về việc rèn kỹ năng kể chuyện ở tiểu học nói chung và việc
rèn kỹ năng kể chuyện lớp 5 nói riêng là một việc làm thiết thực trong dạy học
tiếng Việt của giáo viên và học sinh lớp 5 hiện nay, góp phần đổi mới nội dung
giảng dạy, phương pháp dạy học ở Tiểu học.
Xuất phát từ lí do trên, tơi lựa chọn đề tài: “Rèn kỹ năng kể chuyện theo
quan điểm giao tiếp cho học sinh lớp 5”
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Là một trong những phân môn quan trọng ở Tiểu học, phân môn kể
chuyện được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Trong đó có thể kể đến:
- Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học của bộ giáo dục
và đào tạo đã trình bày một cách chi tiết cụ thể về cấu trúc nội dung và phương
pháp dạy học cho từng phân môn trong môn Tiếng Việt.
- Cuốn Một số vấn đề về dạy học Tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp ở
Tiểu học của tác giả Nguyễn Trí đã chú ý đến các vấn đề như: Quan điểm giao
tiếp quy định nội dung, phương pháp dạy học, hình thức dạy học Tiếng Việt ở
Tiểu học và đặc biệt là quan điểm giao tiếp thể hiện ở phân môn Tiếng Việt.


- Cuốn Dạy kể chuyện ở trường Tiểu học của Chu Huy đã xác định được
vị trí, nhiệm vụ rất quan trọng của phân mơn Kể chuyện. Ngồi ra, ơng còn đề ra
phương pháp và kĩ thuật lên lớp với những bài soạn mẫu rất cụ thể. Cuốn sách
đem tới các biện pháp hướng dẫn kể chuyện rất phong phú, là cẩm nang cho
nhiều giáo viên. Song các biện pháp trình bày trong sách chỉ phù hợp với tiết kể
chuyện được dạy theo phương pháp cũ (thầy kể trò nghe, ghi nhớ và kể lại),
không phù hợp với phương pháp dạy hiện nay.
- Phương pháp dạy học Tiếng Việt của hai tác giả Lê Phương Nga và
Nguyễn Trí nêu rất rõ nội dung chương trình, yêu cầu kỹ năng kể chuyện, của
từng lớp cũng như quy trình, phương pháp dạy học kể chuyện. Đồng thời hai tác
giả cũng đánh giá cao ý nghĩa, mục đích của kể chuyện và quan niệm kể chuyện
là một kỹ năng, một hoạt động sáng tạo, một hoạt động lời nói.

- Giáo trình Rèn kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (1996) của hai tác giả Đào
Ngọc và Nguyễn Quang Ninh đã chỉ ra rằng việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp
ngôn ngữ gắn liền với các kỹ năng nghiệp vụ ở Tiểu học như: kỹ năng đọc thầm,
kỹ năng đọc diễn cảm, kỹ năng viết chữ, kỹ năng viết các loại văn hay ở Tiểu
học, kỹ năng nghe, kỹ năng nói, kỹ năng kể chuyện.
Phân môn kể chuyện hiện nay được giảng dạy theo phương pháp mới.
Học sinh được chủ động kể chuyện dưới sự hướng dẫn của giáo viên chứ không
thụ động nghe, ghi nhớ và kể lại như trước nữa. Với phương pháp này, giáo viên
trở về đúng vị trí chủ đạo của mình và học sinh thực sự là tự giác, tích cực và tự
lực trong học tập. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ được thực hiện đại trà trong
vài năm gần đây, nó cịn khá mới mẻ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: “Rèn luyện kỹ năng kể chuyện theo
quan điểm giao tiếp cho học sinh lớp 5".
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài này là: Phân môn kể chuyện lớp 5.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng ba phương pháp nghiên cứu chủ
yếu sau:


- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp nghiên cứu này được
vận dụng để phân tích tư liệu, thống kê và tổng hợp kết quả phân tích.
- Phương pháp thống kê và phân loại: Sử dụng phương pháp nghiên cứu
này để thống kê các câu có trong phân mơn chính tả ở sách giáo khoa Tiếng Việt
Tiểu học và phân loại chúng theo tiêu chí đã định.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc tài liệu tham khảo, sau đó tập hợp
xử lí số liệu để viết đề tài.
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài đề xuất các biện pháp rèn kỹ năng kể chuyện theo quan điểm giao
tiếp cho học sinh lớp 5. Qua thống kê, khảo sát để đưa ra những giải pháp nhằm

nâng cao chất lượng cho việc giảng dạy kể chuyện theo quan điểm giao tiếp cho
học sinh lớp 5.
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, cấu trúc
đề tài gồm có 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Biện pháp rèn kỹ năng kể chuyện theo quan điểm giao tiếp cho
học sinh lớp 5.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Giao tiếp
1.1.1.1. Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp có thể được hiểu là các biểu hiện mang tính hướng ngoại và bề
mặt khi con người thể hiện các tiếp xúc tương tác với các cá nhân khác trong
cộng đồng. Cái gốc của các biểu hiện bề mặt đó là cách tiếp cận của cá nhân ứng
với từng vấn đề như vụ việc, con người, công việc hay cuộc đời nói chung.
Ngồi ra, khi sử dụng tập hợp từ giao tiếp ứng xử, chúng ta nhấn mạnh tính tình
thế của các hành vi giao tiếp trong đó các bên tham gia giao tiếp cần tính tới các
đặc thù của bối cảnh như thời điểm, không gian hay các yếu tố liên quan đến
bên cùng tham gia giao tiếp để có nhận thức và hành vi phù hợp.
Tác giả Đỗ Hữu Châu từng nói: “Giao tiếp là một hoạt động xảy ra khi có
một chủ thể phát tin, sử dụng một tín hiệu để truyền đến cho chủ thể nhận tin
một nội dung nào đó. Giao tiếp là một hoạt động có đích. Nội dung cần truyền
đạt nhằm cung cấp những thông tin (hiểu biết) cho người nghe hoặc bày tỏ tình
cảm của người nói cho người nghe chia sẻ hoặc tạo lập, duy trì quan hệ của
người nói người nghe”.

Tác giả Lê A, Đỗ Xuân Thảo cũng cho rằng: “Khi có ít nhất hai người gặp
nhau và bày tỏ với nhau điều gì đấy như nỗi buồn, vui, ý muốn, hành động hay
nhận xét nào đấy về sự vật xung quanh thì giữa họ diễn ra một hoạt động giao
tiếp.
Theo Từ điển Thuật ngữ ngôn ngữ học, giao tiếp là “sự thông báo hay
truyền đạt, thông báo nhờ một hệ thống mã nào đó”. Theo đó, có thể hiểu giao
tiếp là hoạt động giữa hai người hay hơn hai người nhằm bày tỏ với nhau một
thông tin trí tuệ hoặc cảm xúc, một ý muốn hành động hay một nhận xét về sự
vật, hiện tượng nào đó. Hoạt động giao tiếp có thể được thực hiện bằng nhiều


cách thức, bằng những phương tiện khác nhau, như hội họa, âm nhạc, điêu khắc,
điện ảnh, cử chỉ,... Nhưng ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan
trọng nhất của xã hội loài người.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của con người. Cùng với hoạt động, giao tiếp
là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển của mỗi cá nhân. Nhờ tham gia
vào hoạt động giao tiếp mà các đặc trưng xã hội của con người được hình thành,
cá nhân lĩnh hội được những kinh nghiệm xã hội lịch sử, chuyển hoá thành
những kinh nghiệm riêng của cá nhân, thành phẩm chất và năng lực của chính
mình để tham gia vào đời sơng xã hội.
Giao tiếp là mặt đặc trưng nhất trong hành vi của con người, nó khơng
những là điều kiện quan trọng bậc nhất của sự hình thành và phát triển tâm lí, ý
thức, nhân cách mà còn đảm bảo cho con người đạt được năng suất, chất lượng
và hiệu quá trong mọi lĩnh vực hoạt động. Để lĩnh hội những tri thức đời thường,
không thể thiếu được sự giao tiếp giữa con người với con người và để lĩnh hội
những tri thức khoa học thì càng cần có giao tiếp giữa nhân cách này với nhân
cách khác, đặc biệt là giao tiếp trong quá trình giáo dục.
Như vậy, giao tiếp là hoạt động tiếp xúc giữa các thành viên trong xã hội
với nhau, dùng ngơn ngữ để bày tỏ tư tưởng, tình cảm hay trao đổi ý kiến về xã
hội, con người, thiên nhiên... Mỗi cuộc giao tiếp ít nhất phải có hai người và đều

phải dùng cùng một ngôn ngữ nhất định. Giao tiếp tồn tại ở hai dạng: Giao tiếp
bằng lời nói và giao tiếp bằng chữ viết.
1.1.1.2. Chức năng giao tiếp
Giao tiếp có những chức năng chính sau:
- Chức năng tạo lập quan hệ: Không chỉ dừng lại ở chức năng trao đổi
thơng tin, trong q trình giao tiếp con người ln hướng đến việc xây dựng và
duy trì các mối quan hệ tốt đẹp giữa những cá nhân tham gia giao tiếp. Đơi khi,
mục đích này lại là mục đích chính của cuộc giao tiếp. Tuy nhiên, chức năng
này bao gồm cả chức năng phá vỡ quan hệ.
- Chức năng thông tin: Qua các cuộc giao tiếp người ta trao đổi các thông
tin như các thông tin thời sự, chính trị, các tri thức khoa học, văn hóa nghệ


thuật... dưới dạng nhận thức, tức là họ đã thực hiện chức năng thông báo của
giao tiếp nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức của con người. Đây chính là chức
năng mà chúng ta thường gặp trong giao tiếp.
- Chức năng tự biểu hiện: Qua giao tiếp con người có thể tự bộc lộ mình
về tình cảm, sở thích trạng thái sức khỏe, hay nguyện vọng năng khiếu. Đối các
sự vật, hiện tượng hoặc vấn đề nào đó mà họ quan tâm, tất cả các điều đó đều
được thể hiện qua lời nói của mỗi cá nhân khi tham gia vào hoạt động giao tiếp.
Tuy nhiên trong quá trình giao tiếp, con người có thể tự biểu hiện mình về
nhiều mặt một cách có ý thức và khơng có ý thức.
- Chức năng giải trí: Trong cuộc sống có lúc con người phải làm việc hoặc
học tập vất vả, những lúc như thế con người cần được nghỉ ngơi thư giãn. Hoạt
động giao tiếp với những câu chuyện cười, lời nói đùa dí dỏm... sẽ là liều thuốc
xua đi mệt mỏi ưu phiền, làm cho con người thấy cuộc sống ý nghĩa hơn và
hứng thú hơn với công việc hằng ngày của mình. Đặc biệt trong thời đại ngày
nay chức này quan trọng hơn bao giờ hết.
Từ việc tìm hiểu các chức năng giao tiếp ở trên, chúng ta có những cơ sở
nhất định để thực hiện thành công những cuộc giao tiếp trong cuộc sống hằng

ngày. Mặt khác, nó cịn có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc dạy học. Nắm
được những chức năng này sẽ giúp cho giáo viên có cơ sở để đánh giá kết quả
của những ngơn bản nói và viết mà học sinh tạo ra trong quá trình học tập, giao
tiếp một cách đầy đủ chính xác hơn và tồn diện hơn.
1.1.1.3. Các nhân tố giao tiếp
Nhân tố giao tiếp là các yếu tố cùng có mặt và tham gia đồng thời vào
một hoạt động giao tiếp nào đấy, chúng có ảnh hưởng trực tiếp hay để lại những
dấu ấn trong hoạt động giao tiếp đó. Những nhân tố tham gia vào hoạt động giao
tiếp bao gồm:
- Nhân vật giao tiếp: Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào cuộc
giao tiếp. Nhân vật giao tiếp có thể được chia làm hai nhân vật đó là người nói
và người nghe. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hai loại nhân vật này và ảnh


hưởng trực tiếp đến kết quả giao tiếp như: trình độ và nghệ thuật nói năng của
người nói, mức độ quan hệ giữa người nói và người nghe.
- Nội dung giao tiếp: Là những sự vật, những hiện tượng hay những sự
kiện diễn ra trong tự nhiên và trong đời sống xã hội xung quanh con người. Hiện
thực được nói tới đã cấu thành nội dung của các cuộc giao tiếp và tạo nên đề tài
hay là chủ đề của các cuộc nói chuyện.
- Hồn cảnh giao tiếp: Cuộc giao tiếp nào cũng diễn ra trong một bối cảnh
cụ thể. Hoàn cảnh giao tiếp được chia làm hai loại:
+ Hoàn cảnh giao tiếp rộng là tổng thể những đặc điểm và điều kiện tự
nhiên, xã hội, lịch sử.
+ Hoàn cảnh giao tiếp hẹp cịn gọi là tình huống giao tiếp, bao gồm các
yếu tố thời gian, địa điểm, hình thức giao tiếp, tình trạng sức khỏe.
- Phương tiện và cách thức giao tiếp: Là tất cả yếu tố được dùng để thể
hiện thái độ, tình cảm, tư tưởng, mối quan hệ và những tâm lý khác trong một
cuộc giao tiếp. Phương tiện giao tiếp gồm hai nhóm: ngơn ngữ và phi ngôn ngữ.
Trong văn bản hay trong văn chương, nhà văn giao tiếp với bạn đọc, ngồi bằng

phương tiện ngơn ngữ cịn giao tiếp bằng hình tượng nhân vật, bằng hình ảnh
hay bằng các biện pháp tu từ...
- Ngơn bản: Là chuỗi kết hợp các yếu tố ngôn ngữ tạo nên lời nói của
nhân vật giao tiếp. Nói cách khác ngơn bản là sản phẩm của lời nói được tạo ra
trong q trình giao tiếp nhằm đạt mục đích giao tiếp. Có thể hiểu ngơn bản là
sản phẩm dạng nói lẫn dạng viết của việc giao tiếp bằng ngôn ngữ. Ngơn bản
nói là chuỗi các yếu tố ngơn ngữ thể hiện ra bằng âm thanh, bằng lời nói miệng
khi giao tiếp. Ngôn bản viết là chuỗi các yếu tố ngôn ngữ thể hiện bằng con chữ
trong sản phẩm viết.
1.1.2. Kể chuyện
1.1.2.1. Khái niệm kể chuyện
Kể chuyện là một phương thức sinh hoạt đời sống mà từ lâu nó đã trở
thành một phương thức của hoạt động nghệ thuật, đặc biệt là văn học. Khi ở vị
trí một thuật ngữ, kể chuyện bao gồm bốn phạm trù ngữ nghĩa sau:


- Chỉ loại hình tự sự trong văn học: Văn kể chuyện là văn trong truyện
hoặc trong tiểu thuyết. Do đó, đặc điểm của văn kể chuyện cũng là đặc điểm của
truyện. Đặc trưng cơ bản của kể chuyện là có sự việc đang sảy ra, đang diễn
biến, có nhân vật với ngơn ngữ, tâm trạng, tính cách riêng.
- Chỉ tên một phương pháp nói trong diễn giảng: Kể chuyện là một
phương pháp trực quan sinh động bằng lời nói. Khi cần thay đổi hình thức diễn
giảng nhằm thu hút sự chú ý của người nghe, người ta cũng xen kẽ phương pháp
kể chuyện. Với các môn khoa học tự nhiên, kể chuyện thường dùng trong phần
kể về tiểu sử tác giả, miêu tả quá trình phát minh, sáng chế, q trình phản ứng
khoa học.
- Chỉ tên một phân mơn được học ở các lớp trong trường Tiểu học: Kể
chuyện là một môn học của các lớp Tiểu học trường phổ thơng. Có người hiểu
đơn giản kể chuyện chỉ là kể chuyện dân gian, kể chuyện cổ tích. Thực ra không
hẳn như vậy, kể chuyện ở đây bao gồm việc kể nhiều loại truyện khác nhau, kể

cả chuyện cổ tích và truyện hiện đại, nhằm mục đích giáo dục, giáo dưỡng, rèn
kỹ năng nhiều mặt của một con người.
- Chỉ tên một loại hình trong mơn Tập làm văn: Văn kể chuyện là một loại
văn mà học sinh phải luyện tập diễn đạt bằng miệng hoặc bằng viết thành bài
theo những quy tắc nhất định. Vì tính chất phổ biến và ứng dụng rộng rãi của
loại văn này nếu nó trở thành loại hình cần được rèn kỹ năng, kĩ xảo bên cạnh
các loại hình văn miêu tả, văn nghị luận.
Sở dĩ có thể xác định “kể chuyện” là một thuật ngữ vì nó có một kết cấu
âm tiết ổn định, một phạm trù ngữ nghĩa nhất định. Lâu nay thuật ngữ “kể
chuyện” vẫn dùng với ý nghĩa kể một câu chuyện bằng lời, kể cả câu chuyện có
hình thức hoàn chỉnh, được in trên sách báo.
1.1.2.2. Đặc điểm của kể chuyện
Kể chuyện địi hỏi phải có chuyện cốt truyện. Cốt truyện là một sự việc có
mở đầu có diễn biến có kết cục và nó mang một ý nghĩa nào đó với đời sống. Về
mặt ý nghĩa xã hội, những việc trong cốt truyện là những sự việc bao giờ cũng
liên quan đến một người, một giai đoạn hay một mối quan hệ nào đó nhưng nó


lại có ý nghĩa cho mọi người, cho xã hội. Cốt truyện thường được phân ra từng
đoạn. Kể chuyện hay, hấp dẫn phải có các chi tiết, từ các chi tiết ấy cho ta biết
điều gì diễn ra trong cuộc sống và từ đó rút ra ý nghĩa, bài học nhân sinh.
Yếu tố thứ hai phải kể đến là nhân vật. Nhân vật là linh hồn của truyện
nên khi đặt tên truyện có thể lấy nhân vật như truyện Thạch Sanh, truyện Tấm
Cám, truyện Thánh Gióng. Nhân vật của chuyện có thể là người, là con vật, là
lồi vật, đồ vật nhưng cũng như con người, là người mang lốt lồi vật. Nhân vật
có thể có tên hoặc khơng có tên. Nhân vật trong truyện thường được phân theo
các tuyến nhân vật. Nhân vật trong truyện còn được phân loại thành nhân vật
chức năng, nhân vật tư tưởng. Nhân vật trong truyện cổ tích thường là nhân vật
chức năng.
Đã là truyện thì phải có lời kể. Lời kể là hình thức để con người truyền

cho nhau những kinh nghiệm, những thơng tin bằng vốn sống của mình, cùng
xúc động hịa hợp với nhau trong tình cảm chung trong một câu chuyện. Lời kể
trong truyện rất quan trọng. Nó là một phương tiện để phản ánh, mặt khác cũng
là phương tiện để biểu lộ thái độ, tình cảm, sự đánh giá của tác giả với cuộc
sống. Gắn liền với người kể thường có hai vị trí: kể theo ngơi thứ ba hoặc theo
ngơi thứ nhất.
1.1.2.3. Vai trị của phân mơn kể chuyện
Khi nghe thầy cô kể chuyện, học sinh đã tiếp nhận tác phẩm văn học ở
dạng lời nói có âm thanh. Khi các em kể chuyện là các em đang tái sinh hoặc
sản sinh một tác phẩm nghệ thuật ở dạng lời nói. Vì truyện là một tác phẩm văn
học nên kể chuyện có được sức mạnh của cả văn học.
Truyện có khả năng bồi dưỡng tâm hồn trẻ thơ. Sự hiểu biết về cuộc sống,
về con người, tâm hồn, tình cảm của các em sẽ nghèo đi biết bao nhiêu nếu
khơng cịn mơn kể chuyện trong trường học.
Kể chuyện có vị trí quan trọng trong dạy học tiếng mẹ đẻ, trước hết hành
động kể là một hành động “nói”, đặc biệt trong hoạt động giao tiếp. Kể chuyện
vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết về đời sống và tạo điều kiện để học
sinh rèn luyện một cách tổng hợp các kỹ năng tiếng việt như nghe, nói, đọc, viết.


Phân mơn kể chuyện có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu được nghe kể chuyện
của các em, phát triển ngôn ngữ, đặc biệt là kỹ năng nghe - nói, đồng thời phát
triển tư duy và bồi dưỡng tâm hồn, làm giàu vốn sống và vốn văn học cho học
sinh.
Phân môn kể chuyện phát triển kỹ năng cho học sinh. Giờ kể chuyện rèn
cho học sinh kỹ năng nói trước đám đông dưới dạng độc thoại thành đoạn bài
theo phong cách nghệ thuật. Đồng thời với kỹ năng nói, các kỹ năng nghe đọc,
kỹ năng ghi chép cũng được phát triển trong quá trình kể lại truyện đã nghe, kể
lại chuyện đã đọc.
1.1.3. Đặc điểm giao tiếp trong môn kể chuyện

Kể chuyện là một cuộc giao tiếp đặc biệt giữa người viết và người đọc .
Kể chuyện theo quan điểm giao tiếp có những đặc điểm riêng về các nhân tố
giao tiếp so với các hình thức giao tiếp khác .
1.1.3.1. Đặc điểm giao tiếp của kể chuyện xác định từ phía người kể
Kể chuyện là thực hiện sự giao tiếp giữa người kể với người nghe, người
đọc, người xem. Trong đó, người kể, người nghe, người đọc, người xem đóng
vai trò là những nhân vật tham gia giao tiếp. Người kể có mục đích, dụng ý khi
kể câu chuyện, cũng như xác định đối tượng mà mình hướng đến. Người kể phải
biết xây dựng nội dung phù hợp với mục tiêu. Sử dụng ngôn ngữ làm sao đạt
được hiệu quả nhất. Thơng qua câu chuyện, dù ít hay nhiều người kể lẫn người
đọc, người xem cũng bày tỏ thái độ của mình với câu chuyện. Qua đó mà đích
tác động của cuộc nói chuyện sẽ được xác định hiệu quả hay không.
Trong cuộc giao tiếp giữa người kể và người nghe, người xem thì người
kể giữ vai trị chủ động về nhiều mặt. Cụ thể:
- Chủ động xác định lớp độc giả cho mình: tức là chủ động xác định đối
tượng mà mình giao tiếp. Sự chủ động này tạo cho người kể quyền lựa chọn nội
dung, xây dựng nhân vật cho phù hợp với đối tượng của mình. Người kể cũng
cần xác định độc giả là người thưởng thức câu chuyện bằng lời hay văn tự.
Ngoài ra, kể chuyện là một hình thức giao tiếp đặc biệt nên người kể cũng
không nên chủ quan cho rằng, chỉ đối tượng mà mình hướng đến mới đọc, xem


truyện của mình. Trong thực tế, đối tượng thường thưởng thức truyện khơng thể
nói chính xác, một câu chuyện hay, hấp dẫn viết cho thiếu nhi đôi khi người lớn
cũng say mê đọc.
- Chủ động xác định mục đích giao tiếp: Người kể xác định câu chuyện
của mình nhằm mục đích tác động đến tình cảm, thái độ, hành vi của người đọc,
người xem. Đích tác động này có thể tác dụng ngay tức thì nhưng cũng có thể
một thời gian sau mới có các tác dụng. Hệ thống các biện pháp người kể dùng
để tác động đến người đọc, người nghe, người xem.

- Lựa chọn đề tài và chủ đề phù hợp đối tượng; xây dựng cốt truyện hợp
lí, hấp dẫn đúng đề tài, chủ đề và thể hiện được mục đích của câu chuyện; xây
dựng nhân vật có những đặc điểm tiêu biểu chuyền đạt được thông điệp mà câu
chuyện muốn gửi gắm. Tùy vào mục đích của người viết câu truyện mà cốt
truyện có thể xây dựng từ đề tài, chủ đề hay nhân vật.
- Lựa chọn các cách mở đầu, kết thúc và dẫn dắt câu chuyện. Tùy thuộc
vào phong cách và dụng ý của người kể mà câu chuyện sẽ được mở đầu, kết
thúc và phát triển như nào nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.
- Lựa chọn ngôn ngữ: Người kể thường viết câu chuyện bằng ngơn ngữ
mà mình thơng hiểu nhằm đạt được hiểu quả cao nhất. Tuy nhiên, tùy theo đối
tượng mà câu chuyện hướng đến mà người kể sử dụng ngôn ngữ sao cho phù
hợp đặc biệt là từ ngữ, cách diễn đạt,...
1.1.3.2. Đặc điểm giao tiếp của kể chuyện xác định từ phía người nghe
Vai trị chủ quan của người nghe, người xem trong cuộc giao tiếp với
người kể chuyện theo quan điểm giao tiếp. Người nghe, người đọc, người xem
đóng vai trị là đối tượng mà người kể hướng đến. Vì vậy, ngồi việc đánh giá
câu chuyện ở khía cạnh ý nghĩa, cốt truyện, tình tiết..., người đọc, người xem
cịn có thể đánh giá tác phẩm ở kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, bút pháp của người
kể.
Tác động trở lại của người nghe, người đọc, người xem với người kể
trong kể chuyện theo điểm giao tiếp:


- Khi cuộc giao tiếp diễn ra, người nhận thường có phản ứng với nội dung
quan mà người phát đề cập đến. Sự phản ứng này có tác động trực tiếp đối với
người phát và họ hoặc là thay đổi cách nói, đề tài hoặc là kết thúc để cuộc giao
tiếp có thể tiếp tục. Cuộc giao tiếp diễn tiến theo chiều hướng xấu hay tốt tùy
thuộc vào sự điều chỉnh ở người phát. Vì vậy, kể chuyện theo quan điểm giao
tiếp chủ yếu là sự tác động trực tiếp của người nghe với người kể.
- Người nghe có sự tác động trực tiếp đối với người kể: thái độ thích thú ,

hào hứng hay thờ ơ, tỏ ra chán trường khơng muốn nghe hoặc thậm chí khơng
đồng tình với câu chuyện đang được kể của người nghe có ảnh hưởng đến cử
chỉ, giọng điệu, tâm lí của người kể.
Các hình thức tác động gián tiếp của người đọc, người nghe, người xem
với người kể trong kể chuyện theo quan điểm giao tiếp:
- Từ phía dư luận đã đọc trước đó hoặc đã biết qua nội dung mà người đọc
quyết định mua hay không mua, đọc hay không đọc, xem hay không xem tác
phẩm của người kể. Như vậy, người kể cần phải biết những thơng tin này từ phía
người nghe, người xem để có sự nhận định khách quan về chính tác phẩm của
mình.
- Người đọc, người xem có thể lên tiếng phê phán hay ca ngợi sau khi đọc
câu chuyện. Dù phê phán hay ca ngợi thì đó cũng là những quan điểm cá nhân.
Người kể cần nhận ra những góp ý hợp lí và nếu có điều chỉnh thì cũng khơng
làm mất nét riêng, dấu ấn cá nhân của mình trong tác phẩm.
1.1.3.3. Mối quan hệ giao tiếp giữa các nhân vật trong câu chuyện
Kể chuyện theo quan điểm giao tiếp, xét về phương diện giao tiếp, là hệ
thống các tình huống giao tiếp giữa các nhân vật mà mình hướng tới mục đích
của câu chuyện. Chuyện là sự việc có diễn biến nhằm nói lên một điều gì đó và
sự việc bao gồm nhiều tình tiết khác nhau. Tình tiết là các sự kiện, các biến cố,
các quan hệ thúc đẩy sự phát triển của các nhân vật và cốt truyện.
Qua các tình huống giao tiếp mà tính cách, số phận của nhân vật được bộc
lộ và cốt truyện được hình thành. Thơng qua các tình huống giao tiếp mà người
kể dần dần thể hiện mục đích của câu chuyện. Ở mỗi tình huống giao tiếp rời rạc


có thể mục đích câu chuyện chưa được bộc lộ nhưng nếu liên kết các tình huống
lại thì các tình huống đều hướng đến mục đích của câu chuyện.
1.1.3.4. Xây dựng các tình huống giao tiếp trong câu chuyện
Các tình huống giao tiếp phải phù hợp với bối cảnh câu chuyện và cần
diễn ra theo trình tự logic nội tại của tác phẩm để cùng hướng đến mục đích của

câu chuyện.
Các tình huống giao tiếp phải là những tình huống ngẫu nhiên để tạo được
sự mới lạ, hấp dẫn. Trong đó, các nhân vật đối thoại với nhau tự nhiên để bộc lộ
tính cách, thân phận của mình.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Chương trình kể chuyện lớp 5
Tuần

Tên bài

1

Lý Tự Trọng

2

Kể chuyện đã nghe, đã đọc

3

Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia

4

Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai

5

Kể chuyện đã nghe, đã đọc


6

Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia

7

Cây cỏ nước Nam

8

Kể chuyện đã nghe, đã đọc

9

Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia

10

Ơn tập giữa học kì 1

11

Người đi săn và con nai

12

Kể chuyện đã nghe, đã đọc

13


Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia

14

Pa-xtơ và em bé

15

Kể chuyện đã nghe, đã đọc

16

Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia

17

Kể chuyện đã nghe, đã đọc

18

Ôn tập cuối học kì 1


19

Chiếc đồng hồ

20

Kể chuyện đã nghe, đã đọc


21

Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia

22

Ông Nguyễn Khoa Đăng

23

Kể chuyện đã nghe, đã đọc

24

Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia

25

Vì muôn dân

26

Kể chuyện đã nghe, đã đọc

27

Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia

28


Ơn tập giữa học kì 2

29

Lớp trưởng lớp tôi

30

Kể chuyện đã nghe, đã đọc

31

Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia

32

Nhà vô địch

33

Kể chuyện đã nghe, đã đọc

34

Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia

35

Ôn tập cuối học kì 2

Bảng 1: Chương trình kể chuyện lớp 5

1.2.2. Thực trạng dạy học kể chuyện lớp 5
1.2.2.1. Thuận lợi
Hiện nay, đa số giáo viên đã có nhận thức đúng đắn về sự tiếp thu, đổi
mới cách dạy các môn học nói chung và phân mơn Kể chuyện nói riêng. Phần
lớn giáo viên thích dạy phân mơn Kể chuyện theo lối tích hợp với mơn Tập đọc.
Đa số học sinh đều thích học phân mơn kể chuyện vì ở tiết kể chuyện, nhu
cầu kể chuyện cho các bạn nghe và nhu cầu được nghe các bạn kể chuyện rất
cao.


1.2.2.2. Khó khăn
Trên thực tế giảng dạy giáo viên vẫn cịn gặp nhiều khó khăn. Sách giáo
khoa đưa ra hệ thống những bài tập kể chuyện theo tranh minh họa nhưng trong
sách hướng dẫn lại không hướng dẫn cách phân tích tranh.
Khi áp dụng phương pháp vấn đáp để hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi
cho kiểu bài kể chuyện theo lời gợi ý, giáo viên lại gặp khó khăn khác như:
những câu hỏi trong sách giáo khoa nhiều khi khơng phát huy được khả năng
nói cho học sinh; trong hệ thống câu hỏi gợi ý của một số bài, một câu hỏi
thường lặp đi lặp lại gây ra sự đơn điệu nhàm chán đối với học sinh. Ở hầu hết
các bài đều sử dụng câu hỏi mang tính tái hiện và như vậy thì sẽ khơng phát huy
được khả năng nói của học sinh.
Ngồi ra giáo viên cịn gặp khó khăn trong việc chia nhóm và tổ chức
phân vai, nhập vai cho học sinh. Những phương pháp này địi hỏi giáo viên phải
có khả năng nhất định khi tổ chức cho học sinh hoạt động. Đa số giáo viên vẫn
còn lúng túng khi thực hiện. Hơn nữa, ở hình thức này tài liệu hướng dẫn khơng
đưa ra những gợi ý cụ thể để giáo viên làm công cụ giảng dạy.
Phần lớn các trường tiểu học đều đi vào dạy theo chương trình mới chứ
khơng qua giai đoạn thực nghiệm.Vì thế, giáo viên cịn gặp nhiều khó khăn và

khơng có kinh nghiệm trong việc áp dụng phương pháp dạy mới.
Học sinh cũng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc khi thực hiện những bài
tập kể chuyện: Đối với kiểu kể chuyện theo tranh, học sinh vẫn chưa biết phân
tích tranh để kể chuyện mà chỉ kể một cách máy móc câu chuyện theo như sách
giáo khoa. Đối với kiểu bài gợi ý, các câu gợi ý mang tính tái hiện nên các em
dễ nhàm chán khi trả lời. Đối với kiểu bài đã nghe, đã đọc hay kiểu chứng kiến
hoặc tham gia học sinh gặp khó khăn trong việc tìm được câu chuyện để kể. Đối
với kiểu bài phân vai dựng lại câu chuyện rất hiếm học sinh thể hiện được vai
diễn hoặc thể hiện bằng cử chỉ, điệu bộ của nhân vật.
Sách giáo khoa và sách giáo viên chưa có hướng dẫn chi tiết cho phân
mơn kể chuyện để giáo viên làm cơ sở giảng dạy. Hệ thống bài tập kể chuyện
chưa chú ý phát huy năng lực nói cho học sinh. Giáo viên chưa có những cơ sở


lí luận vững chắc và đồng bộ cho việc học theo hướng giao tiếp của chương
trình hiện nay.
Xuất phát từ những cơ sở lí luận và thực tiễn trên, tơi thấy việc dạy kể
chuyện theo quan điểm giao tiếp cho học sinh lớp 5 là rất cần thiết. Để đạt được
hiệu quả cao hơn, thì cần chú trọng đến việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho học
sinh.



×