Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Xây dựng hệ thống bài tập chữa lỗi câu cho sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế kĩ thuật Hải Dương theo quan điểm giao tiếp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 130 trang )

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC


NGUYỄN THỊ THUÝ HẠNH
XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP CHỮA LỖI CÂU
CHO SINH VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ KĨ THUẬT
HẢI DƢƠNG THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN






HÀ NỘI - 2010
2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ THUÝ HẠNH
XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP CHỮA LỖI CÂU
CHO SINH VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ KĨ THUẬT
HẢI DƢƠNG THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP


LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

Chuyên ngành: Lí luận và phƣơng pháp dạy học (bộ môn Ngữ văn)
Mã số: 60 14 10

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS NGUYỄN THỊ BAN

HÀ NỘI - 2010
3

LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Thị Ban, ngƣời đã
tận tình giúp đỡ em trong suốt thời gian hoàn thành luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo của Khoa Sƣ phạm, Phòng
lí Đào tạo và CTSV Trƣờng Đại học Giáo dục đã tạo điều kiện cho em trong
quá trình học tập, nghiên cứu tại trƣờng.
Tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo và các em
sinh viên Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Kĩ thuật Hải Dƣơng, Khoa Khoa học cơ
bản Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Kĩ thuật Hải Dƣơng đã tạo điều kiện thuận lợi
để tôi nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Để hoàn thành luận văn, em còn đƣợc ngƣời thân, bạn bè và các đồng
nghiệp quan tâm giúp đỡ, động viên. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhƣng trong quá trình nghiên cứu, thực
hiện đề tài chắc chắn không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận
đƣợc những ý kiến đóng quý báu của quý Thầy cô và đồng nghiệp để luận văn
của em đƣợc hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 5 tháng 12 năm 2010
Tác giả


Nguyễn Thị Thúy Hạnh
4

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 7
1. Lý do chọn đề tài 7
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 10
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 18
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 19
5. Giả thuyết khoa học 19
6. Phƣơng pháp nghiên cứu 20
7. Bố cục của luận văn 21
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC XÂY DỰNG HỆ THỐNG
BÀI TẬP CHỮA LỖI CÂU CHO SINH VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG
KINH TẾ KĨ THUẬT HẢI DƢƠNG THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP 22
1.1. Cơ sở ngôn ngữ học 22
1.1.1 Câu trong hệ thống ngôn ngữ 22
1.1.2. Câu trong hoạt động giao tiếp 34
1.2. Cơ sở lí luận dạy học 54
1.2.1. Mối quan hệ giữa các yếu tố của quá trình dạy học 54
5

1.2.2. Vai trò của hệ thống bài tập tiếng Việt trong việc rèn luyện kĩ năng thực
hành 56
1.3. Cơ sở thực tiễn 61
1.3.1. Nội dung dạy học phần câu trong chƣơng trình môn Tiếng Việt thực
hành ở Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Kĩ thuật Hải Dƣơng 62
1.3.2. Các loại lỗi câu cơ bản của sinh viên và thực trạng dạy học chữa lỗi câu
ở Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Kĩ thuật Hải Dƣơng 65

CHƢƠNG 2. HỆ THỐNG BÀI TẬP RÈN LUYỆN CHỮA LỖI CÂU CHO
SINH VIÊN TRƢỜNG CĐ KINH TẾ KĨ THUẬT HẢI DƢƠNG
THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP 75
2.1. Quan niệm về lỗi câu 75
2.2. Yêu cầu cơ bản của việc xây dựng hệ thống bài tập chữa lỗi câu cho sinh
viên Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Kĩ thuật Hải Dƣơng 76
2.2.1. Hệ thống bài tập phải đảm bảo mục tiêu dạy học 76
2.2.2. Hệ thống bài tập phải phong phú, đa dạng, tích cực hóa hoạt động của
ngƣời học và rèn luyện năng lực tự học cho sinh viên 77
2.2.3. Hệ thống bài tập phải hƣớng vào các lỗi của sinh viên Trƣờng Cao đẳng
Kinh tế Kĩ thuật Hải Dƣơng thƣờng mắc phải 78
2.3. Miêu tả hệ thống bài tập rèn luyện Chữa lỗi câu theo quan điểm giao tiếp
78
2.3.1. Mục đích của bài tập 78
6

2.3.2. Hệ thống bài tập 79
2.3.3. Cách thức tổ chức chữa lỗi câu cho sinh viên Trƣờng Cao đẳng Kinh tế
Kĩ thuật Hải Dƣơng theo quan điểm giao tiếp 93
2.3.4. Quy trình chữa lỗi câu 94
CHƢƠNG 3 : THỂ NGHIỆM SƢ PHẠM 100
3.1. Mục đích thể nghiệm 100
3.2. Đối tƣợng và địa bàn thể nghiệm 101
3.3. Nội dung thể nghiệm 103
3.4. Kết quả thực nghiệm và những nhận xét đánh giá 103
3.4.1. Kết quả thể nghiệm 103
3.4.2. Một vài nhận xét rút ra từ thể nghiệm 106
KẾT LUẬN 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO 111
7


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Giao tiếp có chức năng làm tiền đề khách quan cho sự phát sinh và phát
triển ngôn ngữ. Ngôn ngữ ra đời không vì mục đích tự thân mà nhằm đáp ứng
nhu cầu giao tiếp giữa con ngƣời trong cộng đồng xã hội, một nhu cầu mang
tính bẩm sinh của con ngƣời. Con ngƣời có thể giao tiếp bằng nhiều phƣơng
tiện, nhiều kênh giao tiếp khác nhau nhƣng xét ở mọi góc độ thì “ngôn ngữ là
phƣơng tiện giao tiếp quan trọng nhất của con ngƣời” (V.I Lê nin). Câu là một
trong những đơn vị của hệ thống ngôn ngữ, thực hiện chức năng thông báo
của ngôn ngữ. Ngoài việc truyền đạt và thông báo một hiện thực khách
quan,câu còn bao hàm sự đánh giá, thái độ tình cảm của ngƣời nói (viết) với
hiện thực đƣợc nói tới.Trong hoạt động giao tiếp, câu mới thực sự bộc lộ hết
những thuộc tính và các bình diện câu mới đƣợc hiện thực hoá. Câu đƣợc cấu
tạo từ những đơn vị tƣơng đối ổn định, tĩnh tại nhƣng các bình diện của câu
chỉ thực sự rõ ràng khi đi vào hoàn cảnh sử dụng. Do vậy, việc dạy học câu
không thể tách rời với hoạt động giao tiếp.
1.2. Ngày nay, hoà cùng với sự phát triển của giáo dục và đào tạo trên thế
giới, công cuộc cải cách giáo dục ở nƣớc ta đã có những thay đổi phù hợp với
xu thế chung và đạt đƣợc nhiều tiến bộ đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh
những thay đổi về mục tiêu, chƣơng trình, nội dung dạy học, những thay đổi
về phƣơng pháp vẫn còn bất cập. Phƣơng pháp dạy học đang đƣợc sử dụng
phổ biến hiện nay trong các nhà trƣờng chủ yếu vẫn là thuyết giảng. Điều đó
phần nào ảnh hƣởng đến sự phát triển một số kĩ năng cần thiết cho ngƣời học
trong đó có kĩ năng giao tiếp.Vấn đề đạt ra cho các nhà giáo dục là “dạy nhƣ
thế nào?” để ngƣời học có thể phát triển tốt nhất năng lực sẵn có của mình,
có phƣơng pháp học tập, phƣơng pháp luận khoa học để có thể tiếp tục tự học
8

suốt đời. Điều IV – Luật giáo dục nƣớc CHXHCNVN đƣợc Quốc hội thông

qua ngày 02/12/1998 đã nêu rõ: “Phƣơng pháp giáo dục phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, tƣ duy sáng tạo của ngƣời học, bồi dƣỡng năng
lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vƣơn lên”. Chính vì vậy, việc đổi mới
phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực đã trở thành một yêu cầu cấp thiết
của sự nghiệp giáo dục hiện nay.
Trong những năm gần đây, dạy học theo định hƣớng giao tiếp, theo
quan điểm giao tiếp là những quan điểm dạy học mới, đáp ứng đƣợc yêu cầu
đổi mới phƣơng pháp dạy học. Phƣơng pháp giao tiếp đã đƣợc nhiều nƣớc
trên thế giới thực hiện từ rất lâu và đã cho thấy hiệu quả rõ rệt: phát huy tính
tích cực,tự giác, năng động, sáng tạo của ngƣời học. Dạy tiếng Việt trong nhà
trƣờng phổ thông và tiếng Việt thực hành trong nhà trƣờng chuyên nghiệp có
sứ mệnh là dạy cho ngƣời học viết đúng, viết hay và sử dụng một cách hiệu
quả ngôn ngữ tiếng Việt trong đời sống và trong công việc sau này. Một trong
các khâu quan trọng của dạy học tiếng Việt là hoạt động chữa lỗi về từ, về câu
và cách thức diễn đạt để nhằm nâng cao chất lƣợng sử dụng tiếng Việt cho
ngƣời học. Tuy nhiên, việc chữa lỗi câu còn chƣa đƣợc coi trọng trong nhà
trƣờng hiện nay. Giáo viên chủ yếu mới chỉ quan tâm đến việc chữa lỗi câu
đơn lẻ, hoặc lỗi câu về cấu trúc mà chƣa thực sự chú ý đến việc chữa lỗi câu
trong hoạt động giao tiếp hoặc trong văn bản.
1.3. Mục tiêu của dạy học hiện đại là tạo ra những con ngƣời mới, phát triển
toàn diện, năng động, sáng tạo và thích ứng nhanh với mọi sự phát triển của
xã hội và phải có những kí năng cần thiết để bƣớc vào cuộc sống. Một trong
những kĩ năng quan trọng hàng đầu là kĩ năng giao tiếp. Nghị quyết Trung
ƣơng 2 khoá VIII Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ và
mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con ngƣời và thế hệ
9

gắn bó với lí tƣởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong
sáng, có ý chí kiên cƣờng xây dựng và bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nƣớc, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng

lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và của
con ngƣời Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của các
nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tƣ duy sáng tạo, có
kĩ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỉ luật, có
sức khoẻ, là những ngƣời kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa
chuyên nhƣ lời dặn của Bác Hồ”. Vì vậy, việc dạy học không chỉ đơn thuần là
truyền thụ tri thức, cung cấp kiến thức cho học sinh mà quan trọng hơn là dạy
cho ngƣời học cách tự học, tự nghiên cứu. Ngƣời học không tiếp thu kiến thức
một cách thụ động mà phải tham gia vào qúa trình học tập một cách tích cực,
chủ động. Chữa lỗi câu cho sinh viên theo quan điểm giao tiếp trong dạy học
tiếng Việt là nhằm thực hiện mục tiêu đó.
1.4. Nằm trong hệ thống giáo dục quốc gia, các trƣờng Cao đẳng có nhiệm vụ
đào tạo ra nguồn nhân lực có chất lƣợng cao phục vụ thời kì công nghiệp hoá,
hiện đại hoá của địa phƣơng cũng nhƣ của đất nƣớc. Nhiệm vụ đó đòi hỏi cả
thầy và trò trƣờng Cao đẳng của địa phƣơng phải cố gắng để làm cho quá
trình dạy và học có chất lƣợng, phù hợp với yêu cầu phát triển. Môn Tiếng
Việt thực hành đƣợc đƣa vào học trong các trƣờng Đại học, Cao đẳng với
mong muốn trang bị cho sinh viên năng lực sử dụng ngôn ngữ trong công việc
chuyên môn một cách có hiệu quả và nâng cao khả năng giao tiếp cho các em
sau khi hoàn thành khoá học để tự tin hơn bƣớc vào cuộc sống.
Môn Tiếng Việt thực hành ở Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Kĩ thuật Hải
Dƣơng đƣợc đƣa vào học kì đầu tiên của năm thứ nhất. Mặc dù có định hƣớng
là rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong hoạt động thực tiễn
10

(trong đời sống, trong công việc sau này của các em) nhƣng nói chung giáo
trình đƣợc biên soạn để giảng dạy cũng chƣa đi sâu vào phần thực hành mà
còn nặng về phần lí thuyết mà điều này các em đã đƣợc học ở chƣơng trình
tiếng Việt phổ thông. Cụ thể ở phần Chữa câu sai trong giáo trình mới chỉ chủ
yếu đƣa ra các lỗi câu về mặt cấu tạo ngữ pháp, ngữ nghĩa mà chƣa chú ý tới

lỗi câu về mặt ngữ cảnh. Nói cách khác, lỗi câu mới chỉ đƣợc quan tâm ở lỗi
cấu trúc mà chƣa đƣợc làm rõ ở hoạt động hành chức của câu. Và điều đó sẽ
ảnh hƣởng lớn tới hiệu quả, chất lƣợng của việc giảng dạy môn học này trong
nhà trƣờng đặc biệt là với nhà trƣờng chuyên nghiệp vì ngƣời học là cần trang
bị những kĩ năng thực hành.
Xuất phát từ những lí do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài: “Xây dựng hệ
thống bài tập chữa lỗi câu cho sinh viên Trường Cao đẳng Kinh tế Kĩ thuật
Hải Dương theo quan điểm giao tiếp” với mong muốn góp một tiếng nói vào
quá trình đổi mới phƣơng pháp dạy học tiếng Việt, hƣớng đến mục tiêu nâng
cao chất lƣợng dạy và học Tiếng Việt thực hành ở nhà trƣờng chuyên nghiệp
nói chung và ở Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Kĩ thuật Hải Dƣơng nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Những nghiên cứu về lí thuyết giao tiếp và dạy học Tiếng Việt theo
quan điểm giao tiếp
Giao tiếp đƣợc xem xét từ nhiều phƣơng diện: phƣơng diện xã hội học
(giao tiếp đƣợc xem xét nhƣ một qúa trình tƣơng tác xã hội), phƣơng diện
ngôn ngữ (giao tiếp đƣợc xem xét trong quan hệ với các chức năng của ngôn
ngữ), theo hƣớng của khoa học thông tin (giao tiếp đƣợc phân biệt với thông
tin).
11

Ở Việt Nam, các nhà ngôn ngữ học đã đƣa ra cách hiểu của về giao
tiếp. Theo tác giả Đỗ Hữu Châu [7]:“Nói một cách tổng quát, giao tiếp là một
hoạt động liên các nhân, có chức năng truyền đạt những thông tin về sự vật,
hiện tượng của thực tế (thông tin miêu tả hay thông tin sự vật) nhằm tạo ra
những biến đổi trong tình cảm, trạng thái tâm lí và hoạt động giữa những
người tham gia giao tiếp (thông tin liên các nhân hay thông tin tác động). Nó
cũng là nơi con người bộc lộ chinh mình. Mỗi chức năng trên của giao tiếp
đòi hỏi phải có một loại tín hiệu thích hợp với nó. Tác giả Bùi Minh Toán
trong“Từ trong hoạt động giao tiếp Tiếng Việt” quan niệm: “Giao tiếp chính

à sự tiếp xúc, giao lƣu giữa ngƣời và ngƣời trong xã hội, qua đó con ngƣời
bộc lộ, truyền đạt cho nhau những nhận thức, tƣ tƣởng và cả thái độ tình cảm
đối với nhau và đối với điều đƣợc diễn đạt…” [6].
Trong những năm gần đây, xu hƣớng dạy học tiếng theo quan điểm
giao tiếp đang là một hƣớng đi mới, mang lại hiệu quả cao cho quá trình dạy
học cả trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam. Vận dụng quan điểm dạy học này
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phát huy hiệu
quả sử dụng Tiếng Việt trong việc thực hiện chức năng quan trọng của ngôn
ngữ - chức năng giao tiếp.
Ở Việt Nam, việc dạy học tiếng Việt theo hƣớng giao tiếp cũng đƣợc
các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu.
Tác giả Lê A trong “Dạy tiếng Việt là dạy một hoạt động và bằng hoạt
động” (Tạp chí ngữ số 4/2001) đã đề cập thực trạng dạy học tiếng Việt hiện
nay còn nhiều điểm chƣa tiến bộ, đồng thời tác giả đƣa ra một nguyên tắc
trong dạy tiếng đó là: “…Dạy tiếng Việt là dạy cho các em một hoạt động
giao tiếp bằng ngôn ngữ, một loại hoạt động cơ sở của mọi hoạt động của con
12

ngƣời… Trong đó, hoạt động học phải hƣớng tới hoạt động giao tiếp và đƣợc
tiến hành bằng chính hoạt động giao tiếp”.
Tác giả Nguyễn Quang Ninh trong “Một số vấn đề lí luận của việc dạy
tiếng” (Thông báo khoa học, ĐHSPHN, số 2/1992) cũng đã khẳng định mục
đích của việc dạy tiếng là phát triển năng lực giao tiếp.Tác giả cho rằng
“chính việc coi trọng giao tiếp ngôn ngữ trong việc dạy tiếng đã kéo theo sự
biến đổi trong việc biên soạn tài liệu dạy tiếng, cách chọn ngữ liệu, phân bố
ngữ liệu, phƣơng pháp dạy và vị trí của ngƣời giáo viên và học viên trong quá
trình giảng dạy. Việc xem hoạt động ngôn ngữ trong giao tiếp là mục đích của
việc dạy tiếng đã làm cho cách tổ chức giảng dạy phải xây dựng đƣợc những
tình huống giao tiếp thực.
Cuốn giáo trình “Phƣơng pháp dạy học tiếng Việt” của nhóm tác giả Lê

A, Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán – cuốn giáo trình mang tính định
hƣớng cho chƣơng trình giảng dạy tiếng Việt cũng đã nêu rõ: “Ngôn ngữ là
hệ thống hoạt động chức năng, tách khỏi hoạt động chức năng thì nó không
còn sức sống, trở thành một hệ thống khô cứng. Nói cách khác, ngôn ngữ phải
đƣợc thể hiện trong các dạng lời nói khác nhau, mọi quy luật cấu trúc và hoạt
động của hệ thống ngôn ngữ chỉ đƣợc rút ra trên cơ sở nghiên cứu lời nói sinh
động. Mặt khác, muốn hình thành các kĩ năng và kĩ xảo ngôn ngữ, học sinh
phải trực tiếp tham gia vào hoạt động giao tiếp” [tr 57]. Các tác giả cũng đã
xác định giao tiếp là một trong bốn phƣơng pháp cơ bản, đặc thù của việc dạy
tiếng Việt trong nhà trƣờng, là phƣơng pháp quan trọng trong việc tổ chức
dạy học tiếng Việt: “Phƣơng pháp giao tiếp là phƣơng pháp hƣớng dẫn học
sinh vận dụng lí thuyết đƣợc học vào thực hiện các nhiệm vụ của quá trình
giao tiếp, có chú ý đến đặc điểm và các nhân tố tham gia vào hoạt động giao
tiếp… Phƣơng pháp giap tiếp trở thành phƣơng pháp chủ yếu để phát triển lời
13

nói cho học sinh. Phƣơng pháp này có thể áp dụng khi dạy học từ ngữ, câu,
phong cách và đặc biệt là trong các bài thuộc phân môn làm văn” [tr 69, 70].
Tác giả Bùi Minh Toán trong bài “Quan điểm giao tiếp trong dạy học
Tiếng Việt” (TCNCGD số 11/1992) đã đƣa ra yêu cầu của việc dạy học tiếng
Việt theo quan điểm giao tiếp cho học sinh: nhằm cung cấp cho học sinh tri
thức tiếng Việt, các quy tắc hoạt động sử dụng ngôn ngữ, các kĩ năng trong
việc rèn luyện năng lực sử dụng ngôn ngữ (lĩnh hội, sản sinh lời nói).
Việc vận dụng quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt cũng đã
đƣợc trình bày khá cụ thể, rõ ràng trong rất nhiều đề tài nghiên cứu nhƣ: “Xây
dựng tình huống giao tiếp trong dạy học bài “Nghĩa của câu” ở trƣờng trung
học phổ thông” của Lê Thị Bích Hồng (luận văn thạc sĩ, ĐHSPHN, 2007);
“Chữa lỗi câu cho học sinh trung học phổ thông theo quan điểm giao tiếp” của
Phạm Hà Thƣơng (luận văn thạc sĩ, ĐHSPHN, 2008)…
Trên thế giới, hoạt động giao tiếp của con ngƣời đƣợc các nhà ngôn

ngữ học bắt đầu quan tâm nghiên cứu từ khoảng thế kỉ XX. Một số tác giả
nhƣ C.E.Shanno (1994) và W.Weaver (1962), Wilburn Schramn (1955) khi
nghiên cứu quá trình truyền thông đã đƣa ra sơ đồ quá trình giao tiếp.Tuy
nhiên, các sơ đồ trên mới chỉ ra quá trình giao tiếp trên mạng điện báo và quá
trình truyền thông. Một cách hiểu rộng nhất về giao tiếp: Giao tiếp là việc
dùng mật mã (ngôn ngữ, phi ngôn ngữ) để chuyển đi một thông điệp (bức
thƣ, mệnh lệnh…) từ điểm này đến điểm khác. Có thể tìm thấy ý này trong
định nghĩa của G.A.Miller (1956): “Giao tiếp là việc một tin nào đó đƣợc
truyền đi từ điểm này đến điểm khác”.
Một bƣớc phát triển mới trong cách nhìn nhận về “giao tiếp” là sự ra
đời của ngữ dụng học. Ngôn ngữ tiền dụng học chƣa phát hiện ra bản chất
14

hoạt động của giao tiếp. Khi ngữ dụng học ra đời đã khắc phục đƣợc những
hạn chế đó, giao tiếp đƣợc quan tâm nghiên cứu nhƣ là địa hạt thực thi hành
vi ngôn ngữ của nhân vật giao tiếp. Ngƣời xây dựng nền móng tiên phong cho
lí thuyết hành vi ngôn ngữ là nhà triết học ngƣời Anh John L.Austin với công
trình: “How to do thing with words”. Qua đó, J.L.Austin đã điều chỉnh lại một
cách sâu sắc mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói theo quan niệm và sự phân
biệt rạch ròi của F.de Saussure. Ngƣời phát triển quan điểm của Austin là
J.Searle.
Đối với các nƣớc trên thế giới, xu hƣớng dạy học tiếng theo hƣớng giao
tiếp không phải là quá mới. Dạy học ngôn bản nói và ngôn bản viết trong giao
tiếp và để giao tiếp đƣợc xem là kim chỉ nam cho quá trình xây dựng chƣơng
trình dạy học của các nƣớc.
Trong chƣơng trình tiếng Pháp của bang Quebec (Canada) quy định :
“Việc giảng dạy tiếng Pháp phải dựa trên việc thực hành ngôn ngữ và trong
lớp học tiếng Pháp học sinh luôn luôn đƣợc đặt vào nhƣng tình huống giao
tiếp”. Chƣơng trình còn nhấn mạnh : Cơ bản là phải đặt học sinh trong một
tình huống giao tiếp làm sản sinh lời nói hoặc sự thông hiểu.

Ngay từ những năm 80, chƣơng trình giáo dục của CHDC Đức (cũ) đã
xác định : Nguyên tắc chỉ đạo việc quy hoạch và dạy tiếng mẹ đẻ ở nhà
trƣờng là phục vụ cho kĩ năng giao tiếp của ngƣời học.
Có thể nói, những quan điểm trên đều khẳng định rằng : Dạy tiếng
trong giao tiếp, bằng giao tiếp và để giao tiếp là quan điểm tiến bộ và hiện
đại của việc giảng dạy tiếng mẹ đẻ mà rất nhiều nƣớc có nền giáo dục phát
triển trên thế giới đang áp dụng. Theo phƣơng hƣớng đó, việc dạy học ngôn
15

ngữ nói và ngôn ngữ viết phải lấy giao tiếp làm môi trƣờng, lấy việc phục vụ
giao tiếp làm nhiệm vụ và mục đích cho việc dạy học tiếng hiện nay.
2.2. Những nghiên cứu về chữa lỗi câu
Chữa lỗi câu là một lĩnh vực của khoa học giáo dục. Vì thế, nó không
chỉ đƣợc các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học quan tâm mà còn đƣợc các nhà sƣ
phạm, đƣợc những ai quan tâm, mong muốn “giữ gìn sự trong sáng của Tiếng
Việt” coi trọng.
Từ giữa những năm 80 trở về trƣớc, vấn đề lỗi câu và chữa lỗi câu đƣợc
quan tâm nhiều ở mặt cấu trúc ngữ pháp. Tiêu biểu có tác giả Nguyễn Minh
Thuyết với “Mấy gợi ý về việc phân tích và sửa lỗi ngữ pháp cho học sinh”
(1974) ; tác giả Nguyễn Xuân Khoa với “Sai – đúng – hay trong việc dùng từ,
đặt câu, chấm câu” (1968) ; tác giả Nguyễn Đức Dân với “Chập cấu trúc –
một quá trình tâm lí trong những lỗi sai của học sinh” (1982).
Khuynh hƣớng này chú ý xem xét những câu đơn lẻ tách ra khỏi văn
bản, việc phân loại lỗi câu và đề xuất cách chữa chỉ dựa trên cơ sở xem xét
cấu trúc câu. Dựa vào cấu trúc câu, các tác giả đã phân loại đƣợc những loại
lỗi cơ bản về câu nhƣ : Lỗi về cấu tạo câu, lỗi về dùng quan hệ từ, dùng dấu
chấm câu… Từ đó, rút ra những nhận xét bổ ích trong việc chữa câu. Tuy
nhiên, việc chỉ dùng cấu trúc câu để giải quyết lỗi câu là mặt hạn chế của
ngôn ngữ học truyền thống.
Cuối những năm 80 trở lại đây, khi những cơ sở lí luận của lí thuyết

ngôn ngữ học văn bản, thuyết hoạt động giao tiếp đƣợc phổ biến rộng rãi ở
Việt Nam thì khuynh hƣớng nhìn nhận câu trong cấu trúc của những đơn vị
lớn hơn câu đã thu hút sự chú ý của những ngƣời nghiên cứu và dạy học
Tiếng Việt. Tiêu biểu cho khuynh hƣớng này có các tác giả Đình Cao – Lê A
16

trong “Làm văn” tập I (1989), tác giả Bùi Minh Toán – Lê A – Đỗ Việt Hùng
với “Tiếng Việt thực hành” (1998), tác giả Đào Ngọc – Nguyễn Quang Ninh
với “Rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng Việt” (1997), tác giả Nguyễn Quang
Ninh với “Giáo trình Tiếng Việt thực hành” ( 2000)…
Khuynh hƣớng này chú trọng đến chức năng của câu trong văn bản.
Các tác giả cho rằng câu là đơn vị nhỏ nhất của văn bản. Vì thế, xem xét lỗi
về câu với tƣ cách là một đơn vị cấu thành văn bản.
Các tác giả cũng quan tâm tới mối liên hệ của câu với các nhân tố giao tiếp để
xác định và phân loại lỗi về câu. Vì vậy, bên cạnh những lỗi câu nhƣ khuynh
hƣớng trên đã đề cập, khuynh hƣớng này đã chỉ ra câu sai còn do vi phạm quy
tắc về ngữ nghĩa, về phong cách…
Có thể nói, với khuynh hƣớng này có nhiều ƣu điểm, lỗi câu đã đƣợc
nhìn nhận toàn diện.
Tạp chí ngôn ngữ cũng đã đăng nhiều bài nghiên cứu của các nhà khoa
học, nhà giáo dục về vấn đề chữa lỗi câu cho học sinh. Có thể kể đến các bài
nhƣ “Có thể tìm con đƣờng ngắn nhất để dạy viết đúng câu” của tác giả Trần
Phô (số 1/1969) ; “Lỗi ngữ pháp của học sinh – nguyên nhân và cách chữa”
của tác giả Nguyễn Xuân Khoa (số 1/ 1970) ; “Mối quan hệ giữa ý và lỗi
trong quá trình hình thành một số kiểu câu sai của học sinh” của tác giả
Nguyễn Mai Hồng (số 4/1975) ; “Tìm cách giúp thêm cho học sinh viết đúng
câu Tiếng Việt” của tác giả Diệp Quang Ban (số 4/1976).
Tạp chí Nghiên cứu giáo dục cũng có nhiều bài viết rất đáng chú ý về vấn đề
chữa lỗi câu cho học sinh : “Chập cấu trúc – một quá trình tâm lí trong những
câu sai của học sinh” (số 7/1982) của tác giả Nguyễn Đức Dân ; hay “Về các

17

phƣơng pháp chữa câu sai của học sinh” (số 6/1985) của tác giả Nguyễn
Thanh Bình.
Qua các bài viết trên, chúng ta thấy vấn đề lỗi câu và việc chữa lỗi câu
cho học sinh đã trở thành một vấn đề quan trọng và cấp thiết trong việc dạy
học tiếng Việt hiện nay. Các bài viết đã đi sâu vào phân tích lỗi, chỉ ra nguyên
nhân và đề xuất cách chữa. Đây là những đóng góp quan trọng trong việc
chữa lỗi câu cho học sinh. Vấn đề chữa lỗi câu cho học sinh còn rất nhiều nội
dung cần đƣợc nghiên cứu kĩ và sâu hơn để đi đến thống nhất.
Gần đây, có nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề trên
Đó là bài viết “Nhận diện các dạng lỗi về câu từ góc độ văn bản” của tác giả
Nguyễn Thị Ban (Tạp chí Nghiên cứu giáo dục chuyên đề quý I năm 1999) ;
cuốn “Lỗi ngữ pháp và cách khắc phục” của các tác giả Cao Xuân Hạo – Lí
Tùng Hiếu – Nguyễn Kiên Trƣờng – Trần Thị Tuyết Mai (NXB Giáo dục
2000).
Rõ ràng, vấn đề lỗi câu và chữa lỗi câu cho học sinh đã thu hút đƣợc
sự quan tâm của nhiều nhà giáo, nhà nghiên cứu. Điều này vừa phản ánh việc
mắc lỗi câu của học sinh là khá phổ biến vừa khẳng định việc tổ chức hƣớng
dẫn chữa lỗi câu cho học sinh là việc làm cần thiết của ngƣời giáo viên trong
quá trình dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng.
Tóm lại, qua việc khảo sát tình hình nghiên cứu lỗi câu và vấn đề chữa
lỗi câu của các tác giả, chúng tôi nhận thấy, các công trình nghiên cứu chủ
yếu tập trung xem xét lỗi về câu ở cấp vĩ mô, nặng về những lỗi ngữ pháp
hoặc lỗi câu trong văn bản mà chƣa đề cập đến việc chữa lỗi câu theo quan
điểm giao tiếp. Hơn nữa, các công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở
18

học sinh phổ thông mà nghiên cứu việc sửa lỗi câu cho sinh viên ở các
trƣờng chuyên nghiệp.

Có thể nói, những công trình nghiên cứu về giao tiếp và chữa lỗi câu
nêu ở trên là những tài liệu quý báu, những kiến thức cơ bản, nền tảng để
chúng tôi tham khảo, học hỏi và định hƣớng cho chúng tôi nghiên cứu khi
thực hiện đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu về lí thuyết giao tiếp, về việc dạy học tiếng Việt
theo quan điểm giao tiếp, nghiên cứu về việc dạy học chƣơng Luyện viết đoạn
văn, chƣơng Tạo câu trong văn bản ở giáo trình Tiếng Việt thực hành đang
đƣợc giảng dạy tại Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Kĩ thuật Hải Dƣơng, chúng tôi
đề xuất hệ thống bài tập chữa lỗi theo quan điểm giao tiếp nhằm góp phần
nâng cao chất lƣợng dạy học phần câu nói riêng và dạy học Tiếng Việt thực
hành nói chung ; đồng thời góp phần nâng cao năng lực và kĩ năng giao tiếp
cho sinh viên trong nhà trƣờng để các em tự tin bƣớc vào cuộc sống.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích đề ra, luận văn cần phải giải quyết một số nhiệm
vụ cụ thể sau :
- Nghiên cứu lí thuyết giao tiếp; nghiên cứu câu trong hệ thống ngôn
ngữ và câu trong hoạt động giao tiếp; nghiên cứu đặc điểm tâm lí và tƣ duy
của sinh viên trƣờng Cao đẳng để có những cơ sở lí luận cho việc việc đề xuất
hệ thống bài tập chữa lỗi câu.
19

- Tìm hiểu thực tế việc dạy học phần câu, việc chữa lỗi câu cho sinh
viên Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Kĩ thuật Hải Dƣơng để có những cơ sở thực
tiễn cho việc đề xuất biện pháp dạy học mang tính khả thi.
- Đề xuất hệ thống bài tập chữa lỗi câu theo quan điểm giao tiếp.
- Tiến hành thể nghiệm để kiểm chứng tính khả thi của các đề xuất về
biện pháp dạy học.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Xuất phát từ đề tài, chúng tôi chọn việc xây dựng hệ thống bài tập
chữa lỗi câu cho sinh viên Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Kĩ thuật Hải Dƣơng theo
quan điểm giao tiếp làm đối tƣợng nghiên cứu.
Trong khuôn khổ luận văn này chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên
cứu của đề tài ở việc tổ chức dạy học nội dung chữa lỗi câu cho sinh viên theo
giáo trình “Kĩ năng thuyết trình và xử lí văn bản” của tác giả Nguyễn Quang
Ninh, Bùi Minh Toán, Lê Quang Huy, Đỗ Hồng Cổn – Trƣờng Đại học Quản
lí Kinh doanh Hà Nội đƣợc sử dụng là giáo trình chính dạy học phần Tiếng
Việt thực hành tại trƣờng chúng tôi.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất đƣợc một hệ thống bài tập chữa lỗi câu thích hợp thì sẽ
giúp sinh viên Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Kĩ thuật Hải Dƣơng sử dụng đúng và
hiệu quả câu trong giao tiếp, kết quả học tập môn Tiếng Việt thực hành nói
riêng, kết quả học tập nói chung của các em sẽ đƣợc nâng cao hơn.
20

6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích và thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đã nêu
ở trên, luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phƣơng pháp nghiên cứu lí thuyết:
Phƣơng pháp này đƣợc dùng để phân tích, tổng hợp các vấn đề lí
luận thu nhận đƣợc, từ đó rút ra những kết luận cần thiết cho việc đề xuất các
biện pháp chữa lỗi câu cho sinh viên Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Kĩ thuật Hải
Dƣơng.
- Phƣơng pháp khảo sát, nghiên cứu thực tiễn:
Đây là phƣơng pháp dùng để điều tra, thu thập thông tin và tìm hiểu
đánh giá thực tế việc dạy học phần câu và chữa lỗi câu trong môn Tiếng Việt
thực hành cho sinh viên ở Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Kĩ thuật Hải Dƣơng bằng
cách phát phiếu điều tra với nhiều nội dung và hình thức khác nhau cho nhiều
đối tƣợng ở các lớp, các ngành đào tạo có học môn này. Kết quả sẽ đƣợc xử

lí, đánh giá nhằm rút ra những nhận xét cần thiết để phục vụ cho đề tài.
- Phƣơng pháp thống kê, so sánh:
Chúng tôi vận dụng phƣơng pháp này để kiểm định giả thuyết,
nghiên cứu, so sánh đối chiếu các số liệu và kết quả thực nghiệm,đối chứng
trong kết quả học tập của sinh viên nhóm thực nghiệm và đối chứng nhằm
khẳng định các biện pháp đề xuất là khả thi.
- Phƣơng pháp thể nghiệm sƣ phạm:
21

Chúng tôi sử dụng phƣơng pháp này để kiểm chứng và đánh giá
tính khả thi của biện pháp dạy học mà chúng tôi đã đề xuất trong luận văn.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Tài liệu tham khảo và phần Phụ lục, luận văn gồm 3
phần: Phần mở đầu, Phần nội dung, Phần kết luận.
Phần nội dung gồm 3 chƣơng. Cụ thể:
Chƣơng 1: Cơ sở khoa học của việc xây dựng hệ thống bài tập chữa
lỗi câu cho sinh viên Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Kĩ thuật Hải Dƣơng
Chƣơng 2: Hệ thống bài tập chữa lỗi câu theo quan điểm giao tiếp
cho sinh viên Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Kĩ thuật Hải Dƣơng
Chƣơng 3: Thể nghiệm sƣ phạm.








22


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC XÂY DỰNG HỆ THỐNG
BÀI TẬP CHỮA LỖI CÂU CHO SINH VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG
KINH TẾ KĨ THUẬT HẢI DƢƠNG THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
1.1. Cơ sở ngôn ngữ học
1.1.1 Câu trong hệ thống ngôn ngữ
1.1.1.1. Phân biệt câu với phát ngôn
Cho đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về câu. Có những định nghĩa
nhằm bao quát các đặc trƣng cơ bản của câu, có những định nghĩa chủ yếu
nhằm chỉ ra những đặc trƣng quan trọng nhất, giúp ta phân biệt câu với những
đơn vị ngôn từ ở cấp độ trên câu và dƣới câu. Hiện tƣợng này cũng dễ hiểu
bởi trong đơn vị câu vốn chứa khá nhiều vấn đề khác nhau. Dƣới đây, chúng
tôi xin dẫn một vài định nghĩa về câu:
Ngay từ thế kỉ III- II TCN, học phái ngữ pháp Alêchxăngđria đã nêu
định nghĩa: “Câu là sự tổng hợp các từ biểu thị một tƣ tƣởng trọn vẹn” [8].
Các tác giả Nguyễn Thiện Giáp – Đoàn Thiện Thuật – Nguyễn Minh
Thuyết trong “Dẫn luận ngôn ngữ học” định nghĩa: “Câu là đơn vị ngôn ngữ
nhỏ nhất có khả năng thông báo một sự việc, một ý kiến, một tình cảm hoặc
một cảm xúc”.
Trong cuốn “Câu đơn Tiếng Việt” (NXBGD, Hà Nội 1987) tác giả
Diệp Quang Ban quan niệm: “Câu là cái tƣơng đối ổn định, nằm trong các
phát ngôn cụ thể qua việc nghiên cứu chúng. Chính cái tính ổn định tƣơng đối
23

giúp ta “giữ” phát ngôn lại ở cái “thế đứng yên” để mà nghiên cứu, để mà
phân tích và phát hiện ra cái gọi là câu”.
Gần đây nhất, trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” tác giả Diệp Quang
Ban đã đƣa ra cách định nghĩa về câu nhƣ sau: “Câu là đơn vị nghiên cứu của
ngôn ngữ có cấu tạo ngữ pháp (bên trong và bên ngoài) tự lập và ngữ điệu kết
thúc mang một ý nghĩa tƣơng đối trọn vẹn hay thái độ, sự đánh giá của ngƣời

nói, giúp hình thành và biểu hiện, truyền đạt tƣ tƣởng, tình cảm. Câu đồng
thời là đơn vị thông báo nhỏ nhất bằng ngôn ngữ”.
Tác giả Nguyễn Thị Thìn trong cuốn “Câu Tiếng Việt và nội dung dạy
học câu ở trƣờng phổ thông” đã đƣa ra cách hiểu về câu nhƣ sau: “Câu là đơn
vị ngôn từ nhỏ nhất có chức năng thông báo nhỏ nhất đƣợc dùng vào việc
giao tiếp hàng ngày”.
Nhìn chung, các định nghĩa trên đều thể hiện đƣợc một điểm chung:
Câu là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất, có chức năng thông báo và là đối tƣợng của
ngữ pháp học.
Ngữ pháp ngôn ngữ học truyền thống khi nghiên cứu câu chủ yếu tìm
hiểu những quy tắc cấu tạo câu của một ngôn ngữ. Quy tắc cấu tạo câu phụ
thuộc vào bản thân các từ, quan hệ giữa các từ và vai trò của chúng khi phối
hợp để tạo câu cũng nhƣ phƣơng thức tổ chức các từ thành nhóm từ để thành
câu, đến các kiểu câu xét theo thành phần cấu tạo cũng nhƣ xét theo mục đích
phát ngôn.
Ngữ pháp văn bản ra đời đƣa ra câu trả lời cho vấn đề: Liệu trên cấp độ
câu còn cấp độ ngôn ngữ nào nữa không? Đã có một thời gian dài trong ngôn
ngữ học tồn tại một quan niệm cho rằng: Câu là đơn vị cao nhất của ngôn
ngữ. Ngữ pháp văn bản ngày càng phát triển đã khẳng định trên câu còn có
24

văn bản. Văn bản mới là đơn vị có thể hoàn thành trọn vẹn nhất chức năng tƣ
duy và giao tiếp của ngôn ngữ. Câu chỉ là đơn vị thông báo nhỏ nhất của ngôn
ngữ, còn những đơn vị khác ngoài câu tự bản thân chúng không có tính thông
báo. Ngữ pháp văn bản ra đời đã nảy sinh thuật ngữ mới là phát ngôn.
Vậy giữa câu và phát ngôn có gì khác nhau? Ranh giới để phân biệt câu
và phát ngôn thật không dễ dàng. Theo các tác giả Nguyễn Thiện Giáp (chủ
biên) – Đoàn Thiện Thuật – Nguyễn Minh Thuyết trong cuốn “Dẫn luận ngôn
ngữ” cho rằng: quan hệ giữa câu và phát ngôn cũng tƣơng tự nhƣ quan hệ
giữa hình vị và hình tố, giữa từ và các dạng thức cụ thể của từ.

Khi nói câu, tức là đặt nó vào cƣơng vị của một đơn vị ngôn ngữ, vừa
mang tính cụ thể vừa mang tính khái quát. Mô hình câu tồn tại một cách tĩnh
tại và bất biến.
Còn khi nói phát ngôn, có nhiều cách hiểu khác nhau. Ngữ dụng học
cho rằng, phát ngôn gắn liền với hành động tƣơng ứng với mục đích, hay phát
ngôn là sự cụ thể hoá câu trong văn bản. Theo quan điểm của ngữ pháp chức
năng, phát ngôn đƣợc xác định là đơn vị của lời nói, có thể tƣơng đƣơng với
câu trong sự phụ thuộc trực tiếp vào ngữ cảnh. Tác giả Diệp Quang Ban trong
cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” [6] cho rằng: “Phát ngôn đƣợc hiểu là một khúc
đoạn của lời do một ngƣời nói phát ra có quãng im lặng về phía trƣớc và về
phía sau trong phần lời nói của ngƣời nói đó, tức là một mẩu trong hành vi
ngôn ngữ có một độ dài nào đó, và không xây dựng sự phân tích ngôn ngữ
học với nó, mà thƣờng dùng nó làm tài liệu cho sự phân tích đó”. Tác giả
Nguyễn Thị Lƣơng trong cuốn “Câu tiếng Việt” [26] quan niệm: “Câu xét
trong cách sử dụng, mỗi câu luôn gắn với một tình huống cụ thể, nhằm một
mục đích giao tiếp cụ thể, biểu hiện một ý nghĩa cụ thể. Câu cụ thể đó gọi là
phát ngôn. Nói rõ hơn, phát ngôn chính là câu trong hoạt động giao tiếp”. Khi
25

bàn về mối quan hệ giữa câu và phát ngôn tác giả Diệp Quang Ban đã đƣa ra
những bình diện khác nhau để phân biệt câu và phát ngôn, trong đó đáng chú
ý nhất là bình diện: xét mối quan hệ giữa phát ngôn và tình huống giao tiếp.
Tác giả khẳng định: Nếu nhƣ câu với tƣ cách là đơn vị cấu trúc lớn nhất của
hệ thống ngôn ngữ đƣợc xem xét thoát li hoàn cảnh nói năng. Tuy nhiên,
chẳng ai có khả năng xem xét từng phát ngôn cụ thể gắn với từng tình huống
cụ thể mà chỉ nêu đƣợc những tình huống hay. Nhƣ vậy, các quan niệm trên
đều thể hiện một điểm chung: phát ngôn là đơn vị thuộc về lời nói. Ở đây phát
ngôn đƣợc hiểu là tƣơng đƣơng với câu bởi trong thực tiễn giao tiếp câu
thƣờng đƣợc dùng làm một phát ngôn ngắn hay phát ngôn thƣờng có độ dài
bằng câu chứ không phải là câu cấu trúc.Vì vậy đối tƣợng xem xét ở đây là

câu – phát ngôn hoặc phát ngôn – câu và có thể gói gọn là câu, hiểu là câu
trong hiện thực giao tiếp. Nói cách khác, câu xét trong tình huống sử dụng cụ
thể, trong hoạt động giao tiếp.
Với cách hiểu khái niệm câu – phát ngôn nhƣ vậy, câu sẽ đƣợc xem xét
về mặt cấu tạo của câu ở cả hai phƣơng diện cấu trúc lẫn những yếu tố có mặt
trong câu nhƣng không thuộc cấu trúc cú pháp của câu. Đồng thời, cần đƣa cả
một số vấn đề thuộc mặt ngữ nghĩa và thuộc mặt sử dụng của câu vào xem xét
để làm rõ thêm về câu, vì trong thực tế sử dụng ba mặt: kết học, nghĩa học và
dụng học tích hợp với nhau, hỗ trợ lẫn nhau tạo cho ta một câu (phát ngôn) tự
nhiên, nằm trong cuộc sống tự nhiên của ngôn ngữ.
Quá trình tìm hiểu cho thấy những đặc trƣng cơ bản của câu – phát
ngôn nhƣ sau:
- Về phƣơng diện sử dụng (chức năng giao tiếp), câu đƣợc dùng để thực
hiện hành động nói cơ sở (hành động nói đƣợc thực hiện chỉ bằng một câu).
Câu đƣợc dùng nhƣ vậy có thể coi là một phát ngôn nhỏ nhất.

×