Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

CÁCH DẠY NGÔN NGỮ ỨNG XỬ CHO TRẺ TỰ KỶ VÀ CHẬM PHÁT TRIỂN TÂM THẦN doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.29 KB, 32 trang )

GHI CHÉP TÓM TẮT CHƯƠNG TRÌNH BÉ YÊU - BÉ GIỎI
TỪ CHƯƠNG TRÌNH PHỤC HỒI TRẺ BẠI NÃO
(Dr. Glenn Doman)
VÀ TỪ CHƯƠNG TRÌNH CÁCH DẠY NGÔN NGỮ ỨNG XỬ CHO TRẺ
TỰ KỶ VÀ CHẬM PHÁT TRIỂN TÂM THẦN
(Dr. Vincent carbone)
Bài 1
NÃO CỦA CHÚNG TA
I. CẤU TẠO.
- Bộ não của một người bình thường đã trưởng thành nặng khoảng 1,5kg;
đây là một mô mền phức tạp nhất và dễ bị tổn thương nhất của cơ thể.
- Nào làm nhiệm vụ của một trung ương thần kinh: Phân tích thông tin và
chỉ đạo tất cả các chức năng (từ cơ bản đến cao cấp) cùng các hoạt động của cơ
thể.
- Não gồm hai phần chính:
• Phần chất trắng: Điều khiển các chức năng cơ bản như vận động
nghe, nhìn, ăn, uống, biết đau v.v… và tư duy sơ cấp.
• Phần chất xám: Điều khiển tư duy và các hoạt động cao cấp như
suy nghĩ, đọc, viết…
1
- Mỗi chức năng riêng biệt có thể được điều khiển bởi một phần của não
nhưng tất cả các chức năng của chúng ta cùng đoàn kết trong công việc một
cách rất hài hoà vì não là một khối thống nhất.
- Dẫu các chức năng hoạt động tương đối độc lập nhưng khi một chức
năng bị tổn thương thì hoạt động của các chức năng khác ít nhiều cũng bị ảnh
hưởng.
II. CÁC ĐẶC TÍNH CỦA NÃO.
1. Không tái sinh tế bào:
Não chỉ sinh ra tế bào mới khi bé còn ở trong bụng mẹ. Giây phút bé được
sinh ra đời là giây phút quy trình sinh sản tế bào não chấm dứt. Nếu tế bào chết
đi, sẽ không có tế bào mới thay thế. Đây là một đặc tính cực kì bất lợi duy nhất


của não mà các bộ phận khác của cơ thể hầu như không gặp phải.
2. Học để thay thế chức năng:
Đây là một khả năng mà các bộ phận khác của cơ thể không có. Khi một
phần não nào đó bị tổn thương sẽ dẫn đến việc mất chức năng cơ thể (mất một
phần hoặc toàn phần) thì phần não láng giềng – hoặc tương ứng – có thể học
cách tiếp nhận thông tin và chỉ đạo cơ thể để phục hồi lại chức năng đã mất nếu
phần não láng giềng ấy được kích thích và huấn luyện đúng cách.
3. Không có khả năng dự trữ oxy và dưỡng chất:
Não là một mô “quí tộc” của cơ thể. Nó sử dụng rất gấp và rất nhiều O
2
cùng dưỡng chất nhưng lại không thể dự trữ chúng. Chỉ cần cắt nguồn cung cấp
2
O
2
trong 30 giây là não bị đặt vào tình trạng báo động và nếu là hai phút thì não
bắt đầu bị tổn thương (bắt đầu có tế bào chết).
4. Não là một dụng cụ chứa đặc biệt:
Khi bạn bỏ vào càng nhiều thì sức chứa của nó càng tăng lên (xã hội
thường có thành kiến rằng trẻ sẽ gặp rắc rối khi học nhiều thứ ngôn ngữ cùng
một lúc: Sai! Vấn đề nằm ở chỗ phương pháp dạy chứ không phải khả năng tiếp
nhận thông tin của não).
III. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ VẬN ĐỘNG.
1. Phát triển.
Khi bé lọt lòng mẹ toàn bộ não đã được cấu tạo hoàn chỉnh nhưng phần
lớn hầu như vẫn ở trạng thái nghỉ (trừ trường hợp bé quá sinh non); những hoạt
động của các chức năng cơ bản chỉ mới bắt đầu, lúc này bé có thể thực hiện
được những việc như: thở, chớp mắt, biết đau, bú, nuốt, uống, giật mình… Do
lúc này não hoạt động chưa nhiều nên nhu cầu về O
2
não cũng chưa cấp bách

lắm.
Sau đó, thông qua quá trình tiếp xúc v ới môi trường, bé sẽ nhận được
những kích thích cần thiết dùng đánh thức những phần não cao cấp hơn để thể
hiện ra những chức năng cao hơn. Các chức năng ấy sẽ lần lượt được thể hiện từ
thấp tới cao: nghe, nhìn theo tiếng động và ánh sáng; đập tay chân, lật, khóc khi
bị đau, bị ướt, bò… khi các chức năng thể hiện ra thì các hoạt động của nó sẽ
củng cố sự hoàn thiện của phần não phụ trách nó; đó là mối quan hệ tương hỗ.
Khi phần não đã được đánh thức hoạt động hoàn hảo, nó sẽ truyền tín hiệu thông
3
tin bằng những xung động thần kinh (truyền lên theo mạng tựa như mạng nhện)
đem những kích thích của môi trường bên ngoài đánh thức phần não cao hơn kế
tiếp. Quá trình đánh thức này diễn ra liên tục cho đến khi toàn bộ khối não hoạt
động đồng bộ, nhịp nhàng và hiệu quả (khi bé khoảng 8 tuổi).
2. Vận động.
Cũng như các bộ phận cơ thể khác, não cần được vận động – theo cách
riêng của nó - để tồn tại. Não càng được vận động nhiều thì nó càng khoẻ mạnh
và sức làm việc của nó càng tăng lên.
Vì nhiệm vụ của não là xử lý thông tin từ môi trường truyền vào thông
qua các giác quan rồi chỉ đạo cơ thể phản ứng để hồi đáp lại môi trường bên
ngoài nên cách duy nhất để vận động não là tạo thật nhiều cơ hội cho não nhận
được các kích thích, các thông tin từ môi trường thông qua 5 giác quan: thị giác,
thính giác, xúc giác, vị giác và khứu giác (trong đó thị giác, thính giác và xúc
giác đóng vai trò rất quan trọng). Đó là năm con đường vào của thông tin (hay
còn gọi là dẫn truyền kích thích) đi tới não. Khi đó não sẽ xử lý lượng thông tin
trên và chỉ đạo cơ thể cho ra câu trả lời => lúc ấy chức năng sẽ xuất hiện. Có
đầu vào thì sẽ thấy có đầu ra.
IV. BẠI NÃO LÀ GÌ?
Là khi một hay nhiều tế bào, một cụm hay nhiều cụm tế bào bị chết (do
nhiều nguyên nhân như: tai nạn, xung đột gen cha – mẹ, rối loạn nhiễm sắc thể,
dùng thuốc bất lợi khi mang thai…và còn rất nhiều nguyên nhân chưa xác định

được).
4
Khi đó bệnh nhân sẽ mất một phần hay toàn phần của một hoặc nhiều
chức năng. Ví dụ: liệt, mù, câm, điếc bẩm sinh, hội chứng down, rối loạn tư duy.
V. CÁC DẠNG BẠI NÃO (từ năng tới nhẹ).
• Trẻ hôn mê
• Trẻ sống đời thực vật
• Trẻ thiểu năng trí tuệ, hội chứng down
• Trẻ tự kỷ (tự bế), rối loạn hành vi
• Trẻ quá hiếu động (hoặc quá ngoan!) => đây là loại trẻ thường bị
ngộ nhận là phá phách, lì lợm, lười biếng hoặc ngu si.
* Các trường hợp khó phục hồi: bại não do xung đột gen cha – mẹ; nhiễm chất
độc hoá học hoặc hoá chất làm ảnh hưởng tới cấu trúc gen.
VI. KẾT THÚC PHẦN TÌM HIỂU VỀ NÃO VÀ BẠI NÃO.
Việc của chúng ta sẽ làm là huấn luyện phần não cón khoẻ mạnh làm thay
nhiệm vụ của các phần đã chết bằng cách tác động tối đa lên các cơ quan truyền
thông tin lên não là thính giác + thị giác + xúc giác cùng các cơ quan có liên
quan (Ví dụ: cơ quan phát âm) và dạy cho não phản ứng với những kích thích
đó.
Nguyên tắc huấn luyện não bất kỳ kích thích nào lên não cũng phải hội đủ 2 yếu
tố:
(1) (2)
5
Tôi làm thế này + để làm gì => chức năng
Bài 2.
CẢI THIỆN KHẢ NĂNG HÔ HẤP
I. OXY NÃO.
Tất cả bé bại não đều ở trong tình trạng thiếu O
2
não và hô hấp không

hoàn hảo cho dù có những bé trông có vẻ bình thường như bé tự bế (tự kỉ) chẳng
hạn. Rõ nét nhất ở bé bại não nặng như bé sống thực vật, thiểu năng… ở những
bé này, khả năng cung cấp O
2
não của cơ thể yếu tới rất yếu vì số lượng mạch
máu lên não không bằng trẻ thường. Điều đó khiến cho sự thiếu O
2
não – vốn đã
là một rắc rối lớn nhất ở trẻ bại não – lại càng trở nên trầm trọng vì khi những
phần não còn sống dần dần được đánh thức bắt đầu làm việc thì não cần O
2
ngày
càng nhiều hơn để đủ sức tồn tại và hoạt động.
II. HIỆN TƯỢNG THIẾU OXY NÃO.
- Nặng: Bé co giật từ ít tới nhiều, gồng cứng, có khi sùi bọt mép (gọi là
động kinh).
- Nhẹ: Có khi bé chỉ thoáng rùng mình như bị lạnh. Có rất nhiều trường
hợp không nhận thấy bằng mắt thường (gọi là động kinh dưới lâm sàng).
III. CÁCH GIẢI QUYẾT.
1. Phương pháp mặt nạ.
Nhu cầu O
2
não là một trong hai yếu tố cần thiết hàng đầu để một bộ não
tồn tại và hoạt động. Do đó cung cấp đủ O
2
cho não là công việc đặc biệt quan
trọng trong việc phục hồi chức năng trẻ bại não. Tuy nhiên cho thở O
2
không
6

phải biện pháp khả thi về lâu dài vì nếu tăng nồng độ O
2
trong máu (quá 21%) sẽ
gây ra dự co mạch và thay đổi cơ cấu hoạt động của phổi theo hướng bất lợi.
Để giải quyết việc cung cấp O
2
não, ta sử dụng phương pháp “MẶT NẠ”
và thở bằng đai. Phương pháp mặt nạ sử dụng phản ứng hoá học tự nhiên của cơ
thể dựa trên đặc tính làm giãn mạch của khí CO
2
; khi ta làm tăng nồng độ CO
2
trong máu (tới một mức cơ thể vẫn còn chấp nhận được, tuỳ theo cơ thể) sẽ gây
ra hai hiện tượng:
Thứ nhất, Phổi sẽ phải thở mạnh hơn và sâu hơn.
Khối lượng khí ta hít vào nhiều CO
2
bình thường và không đủ
lượng O
2
cần thiết, trung khu hô hấp (là phần não điều khiển hô
hấp) sẽ ra lệnh cho phổi thở mạnh hơn và sâu hơn nhằm tìm đủ
lượng O
2
cần thiết -> phổi liên tục được kích thích như vậy sẽ tăng
dần sức làm việc.
Thứ hai, Các mạch máu phần đầu – cổ sẽ nở ra đôi chút:
Ngoài việc chỉ đạo cho phổi thở mạnh hơn, khi lượng CO
2
trong

máu tăng cao thì trung khu hô hấp còn tác động làm cho các mạch
máu giãn ra để nhận thêm máu lên đầu nhiều hơn nhằm tìm thêm
CO
2
=> khi bé đeo mặt nạ vào, lượng CO
2
mà bé vừa thải ra không
thoát đi được, bé hít lượng CO
2
đó trở lại phổi nghĩa là nồng độ
CO
2
trong máu sẽ tăng lên (chú ý theo dõi liều lượng đúng theo chỉ
định; nếu không nồng độ CO
2
trong máu cao quá mức cho phép sẽ
làm ngộ độc thân khí, dễ tử vong). Lượng CO
2
này sẽ kích thích lên
7
trung khu hô hấp. Qua thời gian dài luyện tập; phổi sẽ có thói quen
thở sâu, thở mạnh; các mạch máu sẽ rộng hơn nghĩa là khả năng tự
cung cấp đủ O
2
của não sẽ dần dần hồi phục và não sẽ có đu lượng
O
2
mà nó yêu cầu.
* Lưu ý: Đây là quy trình nhằm làm tăng CO
2

trong máu chứ không phải ngưng
cung cấp O
2
=> nghĩa là trong suốt quá trình tập phải bảo đảm rằng nguồn O
2
không bị cắt đứt hoàn toàn.
Không sử dụng “mặt nạ” trong các trường hợp sau:
• Bé dị tật tim, phổi, các cơ quan hô hấp (ví dụ: mũi, khí quản, phế
quản…).
• Bị bệnh về hô hấp (hen suyễn…)
• Hội chứng down
• Bé nhỏ hơn 12 tháng
• Bé đang bị ốm: cảm, sốt, ho, sổ mũi, viêm phế quản, viêm xoang, viêm
họng…
2. Phương pháp tập thở bằng đai.
Bé thở sâu hơn bình thường -> tăng khả năng làm việc của phổi (15 – 20
lần/phút)
IV. LỢ ÍCH CỦA CHƯƠNG TRÌNH CẢI THIỆN KHẢ NĂNG HÔ HẤP.
- Trẻ yếu sức, thở khó, di chuyển khó sẽ tăng khả năng hô hấp rõ rệt.
8
- Phổi tiết ra nhiều chất nhờn hơn: sẽ ít bị viêm nhiễm (viêm hô hấp trên)
hơn.
- Dần dần não sẽ nhận được nhiều O
2
hơn: việc vận động não sẽ dễ dàng
hơn -> bé sẽ học nhanh hơn.
- Hiện tượng động kinh hay co cứng sẽ giảm.
- Về lâu dài: Sức khoẻ được tăng cường -> bé càng nặng thì sự tiến triển
càng dễ nhận ra.
* Các mức độ tập mặt nạ:

• Sơ cấp (1,0’): mặt nạ có ống. (loại túi
1
/
2
kg)
• Trung cấp (1,5’): mặt nạ kín. (loại túi 1.5 – 2kg)
• Cao cấp (2,5’): mặt nạ có một lỗ to bằng miệng ly được đan lại bằng lớp
lưới dày.
9
Bài 3
TỰ BẾ (TỰ KỶ - AUTISM)
I. TRIỆU CHỨNG.
1- Không biết chỉ khi đã được một tuổi.
2- Về ngôn ngữ thoại:
• Không biết nói tiếng gió khi đã một tuổi.
• Không nói được từ đơn khi đã 16 tháng.
• Không nói được từ đôi khi đã 2 tuổi.
• Nói khó khăn hoặc rất ghét nói.
• Đã nói được nhưng có thể mất ngôn ngữ bất kì lúc nào.
• Có khi bé nói suôn sẻ nhưng nội dung không liên quan gì đến môi
trường – hoàn cảnh xung quanh (ngôn ngữ không có chức năng).
• Thích độc thoại mà không đối thoại.
3- Không chấp nhận giao tiếp, không kết bạn.
4- Sự tập trung chú ý cực kỳ ngắn hoặc không có.
5- Không hồi đáp khi được gọi tên.
10
6- Có những hành vi kỳ quái, không giống ai, không lý giải được (rối loạn hành
vi) như tự hành hạ mình (tự đập đầu, cào, cấu, tự đánh, nói nhảm…) và hành
hạ người thân; có những bé không có khái niệm người thân. hầu hết các hoạt
động của bé đều có xu hướng bất biến. Ở dạng bé ngoan, có khi cha mẹ còn

cảm thấy tự hào vì con mình ngoan quá, không đòi hỏi gì, không cần đồ chơi
mới, chỉ muốn ở một mình.
7- Rất ít hoặc không giao lưu bằng mắt.
8- Thường lặp đi lặp lại một số hành vi hoặc cử động cơ thể nhất định nào đó.
9- Bị “hút” chặt vào một vài đồ vật quen thuộc (vật bất ly thân).
10- Thường xuyên ăn vạ.
11- Sợ chỗ lạ, người lạ, vật lạ.
12- Từ chối quyết liệt một cách bất thường khi phải thay đổi thói quen sinh hoạt
hoặc những điều quen thuộc hàng ngày.
13- Quá nhạy cảm với một số âm thanh, cảm giác hoặc một số mùi nào đó.
14- Không có khả năng tổng hợp – khái quát hoá thông tin nhận được.
15- Rối loạn ăn uống, tiêu hoá:
Có khi vị giác bé quá nhạy cảm khiến bé khó chịu hoặc từ chối hầu hết các
loại thức ăn. Có khi ngược lại, vị giác bé thiếu nhạy cảm nên bé thích ăn
các món kì khôi như: hành, tỏi sống, trái cây thật chua, muối ớt…Cơ thể bé
không hấp thụ được một số chất nào đó khiến bé mất cân đối trong dinh
dưỡng -> sinh ra những chứng như rối loạn tiêu hoá: tiêu chảy, táo bón…
11
II. KẾT LUẬN:
Khi ở bé xuất hiện khoảng 35% trở lên các triệu chứng nêu trên là bé đã
trở thành một bệnh nhân tự kỷ (tự bế) ở mức độ không thể tự phục hồi và khi đó
bé cần sự giúp đỡ.
Bài 4
CHƯƠNG TRÌNH TẬP LUYỆN
Gồm 4 phần chính đồng hành
I. KHỞI ĐỘNG.
- Lên danh sách tất cả những gì bé thích: ăn, uống, chơi, hoạt động chân tay (đá
bóng, chạy nhảy, nghịch nước…) kể cả những ý thích kì cục nhất (giặt khăn,
búng tay, xé giấy,…), hoạt động trí óc (xếp hình, xếp chữ) và cần cập nhật danh
sách này thường xuyên.

- Lên danh sách những trò chơi – hoạt động mà bé đã làm được (một cách vô
thức hoặc có ý thức).
II. QUY TRÌNH XÂY MÓNG:
Trẻ tự kỷ có nhu cầu giao tiếp rất thấp (có bé không có); do đó đay sẽ là những
kỹ thuật đầu tiên nhằm kích thích bé bằng những thứ bé thích và có nhu cầu để
làm cho bé dần dần cảm thấy muốn và cần giao tiếp; đồng thời đây là bước xây
dựng một môi trường dạy – học thân thiện, vui vẻ.
1- Hồi đáp khi nghe gọi tên.
2- Nghe lệnh ngồi xuống ghế (1 – 20 giây).
12
3- “Nhìn cô” (1 – 20 giây).
4- Kết hợp các lệnh đơn giản.
=> Thiết lập cho bé BẢN NĂNG NGHE LỜI. Nếu không luyện cho bé bản
năng này thì sẽ không vào bài tập được và trong tương lai sẽ không thể kiểm
soát được bé nữa.
5- Cắt trạng thái “thăng” của bé không để cho bé rảnh rỗi, cố gắng giữ cho bé
bận rộn để bé không có cơ hội rơi vào thế giới riêng của mình (tình trạng tự bế).
6- Xoá độc thoại: gieo mần đối thoại -> tập cho bé có nhu cầu đối thoại (phản xạ
có điều kiện). Mỗi khi bé độc thoại, giáo viên phải chặn trước và đối đáp với bé
như thể hai người đang đối thoại. Hình thức thấp nhất của đối thoại là điền chỗ
trống của câu nói, bài hát, bài thơ. Như vậy, dần dần bé sẽ có thói quen cần có
đối tượng để quăng bắt: đây chính là nhu cầu đối thoại – ngôn ngữ thoại trong
ứng xử – mức đơn giản nhất bao giờ cũng là một vòng tròn khép kín -> do đó
phải luôn cùng bé khép kín trong vòng tròn. Trong cuộc sống giao tiếp bằng
ngôn ngữ thoại thường là vòng tròn xoắn ốc (cho ví dụ)
7- Dạy cho bé biết yêu cầu (đòi hỏi những thứ bé muốn với thái độ đúng mực):
đây là một trong những phần chủ chốt trong quá trình phục hồi trẻ tự bế vì nó
kích thích năng cao nhu cầu giao tiếp. Nguyên tắc để dạy bé yêu cầu là không
cung cấp cho bé những gì bé thích một cách vô điều kiện nữa mà bắt bé phải nêu
ra yêu cầu rồi mới đáp ứng (bé có thể yêu cầu bằng lời nói, ngôn ngữ tín hiệu,

chữ viết, chỉ…). Sau đó ta năng cao số lượng những yêu cầu của bé bằng cách
13
“đặt chướng ngại vật” => đây là cách làm tăng ý muốn giao tiếp và nuôi dưỡng
ý muốn đó thông qua những thứ bé thích.
Ví dụ: Bé thích ăn kem thì “chướng ngai vật” sẽ gồm: Vào bếp -> mở tủ lạnh ->
lấy kem -> lấy thìa -> mức kem ra chén -> mẹ đút. Hoặc bé muôn chơi cầu
trượt: Mở cửa phòng -> lên lầu -> mở cửa sân thượng -> leo lên -> trượt.
*Số lượng chướng ngại vật nhiều hay ít tuỳ theo mức độ ham muốn của bé đôi
với sự vật – sự việc nhiều hay ít.
*Làm cho việc yêu cầu thành một việc dễ dàng đối với bé; bé cảm thấy lời nói
hoặc cử chỉ của mình có uy lực hơn là tiếng khóc hoặc một cách ứng xử xấu; tạo
cho bé niềm vui khi bày tỏ nhu cầu.
* Không làm cho bài tập này trở thành cực hình.
*Tránh việc đặt chướng ngại vật theo một thứ tự bất biến.
III. PHỤC HỒI CHỨC NĂNG.
- Mục đích của phần phục hồi chức năng là giúp cho bé phục hồi trở lại
các chức năng cơ bản từ thấp đến cao để bé có đủ phương tiện học được các kỹ
năng trong cuộc sống.
- Các chức năng của con người dẫu hoạt động độc lập nhưng sự phát triển
của một chức năng lại tuỳ thuộc vào sự phát triển của các chức năng khác (ví dụ:
bé điếc thì sẽ câm -> thính giác ảnh hưởng đến khả năng ngôn ngữ). Do đó song
song với việc phục hồi các chức năng bị mất hoặc không hoàn chỉnh, ta vẫn phải
14
củng cố những chức năng còn lại dù những chức năng còn lại đó có vẻ như
không bị tổn thương.
- Có 3 giác quan chính cần được kích thích đúng mức:
1. Thính giác: Không phải chỉ có bé điếc mới không nghe được mà những bé
có thính giác bị rối loạn (loạn thính) tuy nghe được âm thanh nhưng nghe không
hoàn chỉnh, không chính xác dẫn đến việc phản ứng của bé đối với âm thanh đó
cũng không hoàn chỉnh, không chính xác.

- Bài tập: Còi hơi, 2 khối gỗ nặng, khối lượng bài tập tuỳ theo mức độ
nặng nhẹ.
- Khi nói với bé, giọng của bạn cần:
• Đủ rõ : để bé nắm được các phát âm.
• Đủ nhanh : để níu giữ sự tập trung của bé.
- Tránh nói ngọng với bé – thời gian đầu tập luyện không nên lên bổng
xuống trầm quá nhiều vì sẽ dễ bị vướng vào những tần số âm thanh làm bé khó
chịu và làm bé khó phân biệt về từ ngữ, âm sắc.
2. Thị giác.
Hầu hết trẻ bại não từ nặng tới nhẹ đều có thị giác không hoàn chỉnh cho
dù cặp mắt bé trông vẫn có vẻ bình thường (theo khảo sát của Viện Nghiên cứu
tiềm năng con người - Philadenphia).
- Bài tập: Đèn công suất cao (500W-1000W tùy thuộc mức độ nặng nhẹ)
trong phòng tối. Nhìn vào bảng trắng-đen; bò; bơi lội; chuyền cành. Nhìn vào
15
hình đơn giản cỡ lớn. Sau đó tăng thêm chi tiết trong hình và thu nhỏ kích cỡ
của hình.
3. Xúc giác.
- Dùng kim châm-tay xoa, bấm mặt da bằng móng tay, bàn chải cứng, vải
mềm.
- Chườm nước nóng-lạnh.
- Lăn trên thảm nhám (ví dụ: vải thô)
- Phối hợp chéo.
Các kích thích trên được thực hiện trên nguyên tắc trái ngược để tránh sự
thích nghi của các giác quan.
Tất cả các tác động lên các giác quan phải:
- Đủ mạnh: Để đủ sức truyền tín hiệu kích thích lên tới vùng não cần thiết.
- Đủ dày: Để thông tin nạp vào đủ sức lưu lại trong não.
- Đủ lâu: Con đường lên tới vùng trí nhớ của trẻ bại não khó khăn trắc trở
hơn nhiều so với trẻ thường. Do đó, khi dạy bé điều gì, giáo viên phải kiên nhẫn

tập cho bé đến khi bé có thể thực sự hiểu và ghi nhớ điều ấy; luôn phải ôn đi ôn
lại tới khi nào bé có thể sử dụng được kiến thức đã học.
4. Vận động não.
Là quá trình lâu dài và cơ bản cho đến khi bé phục hồi hẳn.
4.1. Chương trình học toán.
16
Phương pháp học bằng thẻ chấm trước để dạy bé về giá trị thật, sau đó
chuyển qua học số viết theo quy ước của xã hội.
QUY TRÌNH DẠY SỐ VÀ KHÁI NIỆM TOÁN VỀ TOÁN DẠY SỐ

Trước hết bé phải được nghe-nhìn giáo viên đọc thẻ chấm và thẻ số theo
kiểu đọc thẻ chữ: luôn xáo trộn và thật nhanh. Sau đó bé phải:
1- Xếp được từ số 1-10 trong khung.
2- Xếp được từ số 1-10 không khung.
3- Lấy được 1 số bất kỳ từ 1-10 theo lệnh giáo viên.
4- Xếp được từng đoạn số bất kỳ theo đúng thứ tự.
Ví dụ: “Xếp cho cô từ 2-6”
“Xếp cho cô từ 5-9”
(Giáo viên để trên bàn từ 2-6, bé xếp đúng thứ tự”.
5- Tự chọn ra (trong 10 số) một đoạn số bất kỳ theo lệnh và xếp đúng thứ
tự. Ví dụ: Cô để trên bàn số từ 1-10 và ra lệnh “xếp cho cô từ 3-8” > bé sẽ
chọn ra từ 3-8 và xếp đúng thứ tự.
6- Xếp theo thứ tự từ lớn tới nhỏ hoặc từ nhỏ tới lớn theo lệnh.
17
Ví dụ: Đưa bé số từ 1-10 và ra lệnh “Xếp cho cô từ lớn tới nhỏ” hoặc “Xếp cho
cô từ nhỏ tới lớn”.
7- Xếp theo thứ tự từ lớn tới nhỏ hoặc từ nhỏ tới lớn một đoạn số bất kỳ
theo lệnh.
Ví dụ: Cô đưa bé số từ 3-9 và ra lệnh “Xếp từ nhỏ đến lớn” hoặc “Xếp từ
lớn đến nhỏ”.

8. Lặp lại quy trình trên từ 1-20.
DẠY TOÁN: CỰC KỲ ĐƠN GIẢN!

- Chuẩn bị 100 thẻ chấm + 100 thẻ số + thẻ dấu +;-;×;:
- Bắt đầu bằng thẻ 1-10: dạy giống thẻ đọc chữ
- Mỗi ngày 3 lần, đọc trong 10 ngày.
- Bắt đầu từ ngày thứ 11: mỗi ngày thay 2 thẻ mới, cất đi 2 thẻ cũ.
- Cứ như vậy đi lên đến thẻ chấm 100.
- Từ ngày đầu đọc thẻ chấm, phải luôn trộn thẻ sau mỗi lần đọc để bé
không thuộc lòng.
- Khi lên được đến khoảng 20-30 thì bắt đầu dạy cộng, trừ, nhân, chia.
- Bắt đầu bằng phương trình 2 bước: 1+1=2 rồi tiến lên phương trình 3-4
bước: 1+2+3+4=10…
18
- Sau khi dạy đến toán chia thì quay lại dạy bé bằng thẻ số những gì đã
dạy bằng thẻ chấm.
- Bé học thẻ số rất nhanh nên ta đi cũng nhanh.
- Mỗi bước dạy nên tạo ra sự thoải mái cho trẻ.
4.2. Chương trình học đọc.
Phương pháp chụp hình mặt chữ không đánh vần > tùy phụ huynh.
a. Đối với trẻ có thể nắm bắt được các chi tiết trong một tổng thể và hiểu
được khoảng 10-25 từ trở nên và nhóm 2 từ.
+ Bắt đầu với 25 từ đơn mỗi ngày, gồm khoảng 5 chủng loại, mỗi chủng
loại khoảng 5 từ (5 nhóm).
+ Sau 5 ngày, bắt đầu loại bớt 5 từ cũ-mỗi nhóm 1 từ và thay bằng 5 từ
mới mỗi ngày.
> Như vậy, sau 1 tháng, bạn đã có thể giới thiệu cho bé được khoảng
150 từ.
+ Sau 2 tháng, tăng lên khoảng 10 chủng loại (10 nhóm) và 5 từ mỗi
nhóm từ là 50 từ/ngày.

+ Sau 5 ngày, bắt đầu thay bằng 10 từ mới mỗi ngày và thay vào 10
nhóm.
> Như vậy trong tháng, bạn sẽ giới thiệu được khoảng 300 từ.
b. Khi trẻ đã tiếp nhận được khoảng 200 từ đơn, ta bắt đầu dạy từ đôi:
19
+ Bên cạnh việc dạy từ đơn, bắt đầu dạy từ đôi với 3 chủng loại gồm
khoảng 3 từ mỗi loại.
+ Sau 3 ngày, loại bỏ 3 từ cũ, mỗi loại một từ và thay bằng ba từ đôi mới.
+ Sau 1 tháng dạy từ đôi, tăng lên 5 chủng loại mỗi loại gồm 5 từ đôi hoặc
câu ngắn (cho ví dụ).
+ Sau 5 ngày, thay 5 từ đôi hay câu ngắn bằng 5 từ - câu mới mỗi ngày
> ta sẽ giới thiệu được 25 từ đôi, câu ngắn mỗi ngày.
> Tổng cộng trong tháng, ta sẽ hướng dẫn cho bé khoảng 150 từ đôi
hoặc câu ngắn.
c. Trẻ có thể nhìn chi tiết nhưng khó khăn, bị lé hoặc không nhìn được sắc
nét; đồng thời khả năng hiểu ngôn ngữ thoại bị hạn chế trong một số ít từ: giới
thiệu vật, hành động hoặc tranh ảnh để minh họa cho từng từ. Những bé này có
thể xem 3 từ + 3 hình minh họa mỗi ngày. Mỗi từ + hình minh họa nên được
giới thiệu khoảng 5-10 lần/ngày. Trong vòng một tuần mỗi ngày 1 nhóm mới
gồm 3 từ + 3 hình minh họa nên được thêm vào > ta sẽ có 21 từ và 21 hình
minh họa trong tuần.
Lặp lại 21 từ + 21 hình mỗi ngày trong 1 tháng.
Tùy theo khả năng của bé, có thể lặp lại nhóm 21 từ + 21 hình thêm 1
tháng nữa hoặc giới thiệu bộ mới gồm 21 từ + 21 hình mới.
5. Lưu ý khi dạy bé tự bế.
20
Đối với bé tự bế, ta sử dụng phương pháp có tên là “Học không lỗi” (của
bác sĩ Vincent Carbone - Florida) nghĩa là khi dạy ta tránh không để bé bị sai, bị
thất bại. Khi áp dụng kỹ thuật này, có một số điều cần lưu ý sau:
5.1. Người giáo viên và bé không có khoảng trống (về phản ứng): nếu bé

phản ứng tốt thì giáo viên tạo cơ hội cho bé tiến lên. Nếu bé ngập ngừng bối rối
thì giáo viên phải lập tức giúp bé tiến lên.
5.2. Không nói to hoặc ra lệnh thừa.
Ví dụ: Nói to lên! Sao lại thế? Bé của cô giỏi quá…
5.3. Cắt và triệt tiêu hiện tượng “liệt kê” hoặc trả lời không đúng câu hỏi:
cho bé câu trả lời đúng.
5.4. Xóa hiện tượng lặp lại câu hỏi bằng tốc độ hỏi và trả lời, kỹ thuật
điền chỗ trống.
5.5. Có ý thức triệt tiêu hiện tượng bất biến như tránh đi hoài một con
đường, dời chuyển đồ đạc trong nhà, thay đổi đồ chơi mới, khu vui chơi mới,
quần áo mời, thói quen sinh hoạt…
5.6. Khi gặp bài tập phức tạp: cắt nhỏ động tác ra nhiều phần, nhiều bước
và dạy bé từng chút một.
5.7. Không đặt quá nhiều mục tiêu vào cùng một bài tập. Ví dụ bé nói to
mà không rõ hoặc rõ mà không to > chỉ đặt ra một mục tiêu cho bài tập đó
(hoặc to hoặc rõ) > nếu bé làm được một trong hai yêu cầu thì thưởng ngay để
khuyến khích, phần yếu sẽ củng cố vào lần sau.
21
5.8. Tránh việc chỉnh phát âm khi đang dạy một chức năng khác vì sẽ làm
bé mặc cảm và sợ từ mà bé khó nói.
5.9. Trong trường hợp bé chạy trốn giáo viên: không nhượng bộ nhưng
phải tìm cách làm cho giáo viên trở nên hấp dẫn hơn để kêu gọi bé tự quay lại
với bàn học.
6. Chỉnh ứng xử.
Không chấp nhận bé la hét trong mọi trường hợp.
*. Hầu hết các ứng xử kỳ quái rơi vào 3 trường hợp:
- Bé ứng xử xấu để loại bỏ cái bé không muốn.
- Ứng xử xấu để đòi cái mình muốn
- Bé ứng xử xấu hoặc có hành vi kỳ quái vì khi làm như vậy bé cảm thấy
dễ chịu hơn (gọi là tự kích thích-stimulus)

*. Bất kỳ ứng xử xấu nào cũng phải hội đủ 2 yếu tố.
- Bé muốn một điều gì đó mà bé chưa có được.
- Có sự hiện diện của đối tượng (sự hiện diện thể hiện qua giọng nói chứ
không phải khuôn mặt…)
> Vậy khi ta muốn dập tắt một ứng xử xấu, nên tìm cách bớt đi một
trong hai yếu tố đó. Thông thường có 5 trường hợp xảy ra.
22
- Bé yêu cầu bằng ứng xử xấu và câu trả lời là “có”: giáo viên quay đi >
đếm > bé bình tĩnh lại > giúp bé yêu cầu (bằng lời hoặc tín hiệu) > đáp ứng
yêu cầu của bé.
- Bé yêu cầu bằng ứng xử xấu và câu trả lời là “KHÔNG”: nói “Không!”
> Quay đi + Im lặng (hoặc bỏ đi) nhưng phải đảm bảo rằng bé không lấy được
thứ bé đòi và không tự gây nguy hiểm > bé dịu bớt > bé hướng sang một thứ
khác mà bé có thể chấp nhận được.
> Đối với bé đang có ứng xử xấu trong trường hợp này, nếu ta phản ứng
ở dạng la mắng hay có vẻ mặt giận dữ, có nhiều khi đó lại là những hồi đáp làm
bé cảm thấy được kích thích khiến cho bé tiếp tục lặp lại ứng xử xấu để mong lại
nhận được sự phản ứng từ bạn. Cách ứng xử này của bạn đối với bé gọi là kích
thích tiêu cực, nghĩa là những kích thích làm nảy sinh hoặc làm tăng sự tiêu cực
của bé.
- Bé yêu cầu bằng ứng xử xấu mà giáo viên không hiểu là gì?: quay đi >
đếm > cố gắng tìm hiểu và gợi ý cho bé để biết bé muốn gì, sau đó có thể đáp
ứng nhu cầu của bé (với điều kiện bé phải chấm dứt ứng xử xấu) hoặc hướng bé
sang một mục tiêu khác.
- Cô ra lệnh cho bé nói nhưng bé không nói: Lặp lại lệnh 1-3 lần.
+ Nếu bé nói: thưởng ngay lập tức.
+ Bé vẫn không nói: chuyển sang lệnh về động tác nếu bé không làm >
giúp toàn phần > thưởng > tự phân tích vì sao bé không nói, không làm (Ví
dụ: bạn dạy sai kỹ thuật, đây là lý do thường gặp).
23

- Cô ra lệnh làm một động tác mà bé không làm: lặp lại lệnh từ 1-3 lần > bé
vẫn không làm > giúp toàn phần > thưởng ít.
7. Những điều cần ghi nhớ khi áp dụng chương trình luyện tập.
7.1. Nguyên tắc dạy.
- Nhanh: để nâng cao tối đa sự tập trung chú ý của bé (thường được sử
dụng trong kỹ thuật quảng cáo).
- Dừng lại trước khi trẻ muốn dừng: để nuôi dưỡng ý muốn học tập của
bé.
- Bài học luôn là một thú vui: không quá dễ, không quá khó, không đơn
điệu.
- Không thách đố, không kiểm tra: vì sẽ làm bé có cảm giác bị dồn ép,
truy bức, đối phó.
- Luôn bắt đầu từ những thứ bé thích và làm được: kích thích ý muốn
được bày tỏ của trẻ.
- Không đem bé ra biểu diễn.
7.2. Nhiệm vụ của kỹ thuật viên.
- Yêu và hiểu trẻ, làm trẻ mến.
- Có ý thức rèn luyện ý chí tập luyện cho trẻ.
- Linh động và sáng tạo trong bài tập.
- Luôn tìm cách giới thiệu cho bé điều mới.
24
- Nghiêm khắc và dũng cảm xử lý khi trẻ quấy phá.
7.3. Những điều nên làm.
- Phòng học: không bố trí những thứ làm bé lo ra, mất tập trung. Phòng
học phải đủ sáng và đủ lạnh.
- Giáo cụ-đồ chơi:
+ Rõ ràng, đơn giản về màu sắc kiểu dáng.
+ Đa dạng về chủng loại.
- Chơi với bé: cố gắng đưa bé vào những tư thế dốc đầu xuống thấp.
- Khi bé bệnh (ốm): xếp cho bé một giáo án thật nhẹ để bé vẫn học được.

- Khoan chú ý đến những điều thuộc về lễ nghĩa: chào, tạm biệt, ăn phải
dùng thìa, đũa…
- Ghi nhận các phản ứng của bé để điều chỉnh giáo án cho thích hợp.
- Chuẩn bị giáo cụ và phần thưởng chu đáo trước khi bắt đầu.
- Giáo viên chủ động tạo ra tình huống để dập tắt ứng xử xấu.
7.4. Những điều nên tránh.
- Mặc cả: “Con làm đi rồi mẹ cho bánh” (sau đó mới lấy bánh ra).
- Khuyến khích tiêu cực: khi bé ngoan thì để bé chơi một mình, khi bé
khóc thì chạy lại bế-dỗ!
- Ép bé học những kỹ năng bé chưa học nổi: phải quan sát ngôn ngữ cơ
thể để đo lường xem bài có quá khó không.
25

×