Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

luận văn Pháp luật về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước- Thực tiễn thực hiện tại công ty cổ phần Giao thông Công chính Thạch Thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.92 KB, 43 trang )

TÓM LƯỢC
Nước ta đang trong quá trình quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa với chủ trương của
Đảng và Nhà nước là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng một nền
kinh tế tự chủ nhưng không tách rời xu thế toàn cầu hoá. Một trong những công việc
quan trọng trong giai đoạn này là cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
Vấn đề đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước luôn là mối quan
tâm của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khoá IX nhận định: "Kinh tế Nhà nước có vai trò quyết định trong
việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ấn định và phát triển kinh tế chính trị xã
hội của đất nước là chủ lực trong hội nhập kinh tế thế giới". Đẩy mạnh cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn - xem đó là khâu quan
trọng để chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Thêm vào đó là việc Việt Nam gia nhập WTO đã đẩy chủ trương cổ phần hoá
các doanh nghiệp nhà nước nhanh cả về tiến độ và chất lượng để đảm bảo năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước.
Nhận thức được chủ trương cũng như phương hướng của Đảng và Nhà nước ta
cùng với xu thế phát triển xã hội nói chung, công ty cổ phần giao thông Công chính
Thạch Thành đã tiến hành cổ phần hoá theo chủ trương của Nhà nước. Trong phạm vi
khoá luận này, em sẽ tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật cũng như thực
tiễn áp dụng tại công ty cổ phần giao thông Công chính Thạch Thành. Vì thế em lựa
chọn đề tài: “Pháp luật về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước- Thực tiễn thực hiện
tại công ty cổ phần Giao thông Công chính Thạch Thành” là đề tài khoá luận của
mình. Nội dung khoá luận được chia thành 3 chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh về cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước và thực tiễn thực hiện tại công ty cổ phần Giao thông Công chính Thạch Thành.
Chương 3: Một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật về cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước.
LỜI CẢM ƠN
1


Trong thời gian thực tập tại công ty em đã đi sâu vào nghiên cứu quá trình tiến
hành cổ phần hoá của công ty. Với những kiến thức đã được học tại trường cùng với
sự nghiên cứu tình hình thực tế, với sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú, anh chị cán
bộ trong công ty cùng với hướng dẫn chỉ bảo sát sao nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn.
Em đã rút ra được những kết quả đạt được và những khó khăn hạn chế của công ty
trong quá trình tiến hành cổ phần hoá. Tuy nhiên do thời gian có hạn, với vốn kiến
thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em
rất mong nhận được sự chỉ đạo, đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và những người
quan tâm đến vấn đề này nhằm hoàn thiện hơn nữa.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của cô giáo Th.s Hoàng Thanh
Giang, người đã trực tiếp hướng dẫn em thực hiện tốt đề tài này và cùng toàn thể cán
bộ nhân viên trong công ty đã tận tình tạo điều kiện và giúp đỡ em trong suốt quá trình
thực tập tại công ty để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Em xin cảm ơn !
Hà nội, ngày 24 tháng 3 năm 2015
Sinh viên thực hiện
Đinh Thị Hà Ly
2
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
NĐ: Nghị định
NĐ- CP: Nghị định chính phủ
TT- BTC: Thông tư của bộ tài chính
3
4
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Cổ phần hóa DNNN là một trong những nội dung quan trọng của quá trình cải
cách DNNN- bộ phận không thể thiếu trong thành phần kinh tế Nhà nước. Trong đổi
mới nền kinh tế, một vấn đề lớn được đặt ra là phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản

xuất và từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ lực lượng sản
xuất. Để giải phóng lực lượng sản xuất tất yếu phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu ban cấp, chuyển sang cơ
chế thị trường và xây dựng thể chế kinh tế thị trường, đa dạng hóa các hình thức sở
hữu trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Muốn vậy phải đổi mới mạnh mẽ
DNNN. Theo hướng đó, sau nhiều năm tìm tòi và thức nghiệm trong thực tế, Đảng và
NN ta đã lựa chọn cổ phần hóa như một phương hướng có hiệu quả để đổi mới các
DNNN.
Theo NĐ 109/2007 về chuyển DNNN thành công ty cổ phần nhằm: Chuyển đổi
những doanh nghiệp mà nhà nước không cần giữ 100% vốn sang lại hình doanh
nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của các nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài để nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý
nhằm loại bỏ những tồn tại và yếu kém trong khối doanh nghiệp Nhà nước đồng thời
nâng cao chất lượng hoạt động của khối doanh nghiệp này qua đó nâng cao hiệu quả
và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đảm bảo hài hoài lợi ích của Nhà nước, doanh
nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp
Thời điểm tất cả các DNNN phải chuyển đổi sang hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp (1/7/2010) đã qua được hơn 4 năm tuy nhiên tốc độ cổ phần hoá cả về chất
lượng và tốc độ thì không đạt được theo chủ trương mà Đảng và Nhà nước đề ra. Áp
lực rõ ràng là rất lớn, bởi dù chưa tính toán tới khía cạnh chất lượng, chỉ tính về số
lượng, để thực hiện đúng lộ trình này, cũng đã bị chậm trễ. Thậm chí, cũng đã có ý
kiến bày tỏ sự băn khoăn về tính bất khả thi của nhiệm vụ quan trọng này.
Gia nhập WTO thì cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản
phẩm, doanh nghiệp với doanh nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa Nhà nước và Nhà
nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy
nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát huy được lợi thế
so sánh hay không, có thể hiện được khả năng phản ánh vượt trước trong một thế giới
biến đổi nhanh chóng hay không. Do đó chúng ta phải gấp rút hoàn thành để DNNN
5
cũng như cơ quan quản lý nhà nước làm quen với cách thức và phương pháp điều hành

để tiến hành hội nhập.
Hơn thế, vốn của DNNN là tài sản của toàn dân, việc DNNN chậm cổ phần hóa
sẽ gây thất thoát lớn tài sản của Nhà nước cũng như của nhân dân. Do đó phải nhanh
chóng cổ phần hóa để minh bạch tài sản cũng như tạo ra ngày càng nhiều lợi nhuận để
đảm bảo cho an sinh xã hội ngày càng được đảm bảo.
Đẩy mạnh cổ phần hoá và thực hiện thành công việc cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng hiện nay. Một trong những công cụ
nhằm đẩy nhanh cả về chất lượng và tiến độ đó là các văn bản quy phạm pháp luật. Nó
giữ vai trò chủ đạo đối với sự thành công của việc cổ phần hoá, định hướng cho quá
trình cổ phần hoá. Là công cụ quan trọng để Nhà nước tăng cường vai trò quan lý của
mình.
Do đó những vấn đề liên quan đến cổ phần hoá trở thành vấn đề mang tính thời sự, cấp
thiết.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Những năm qua có rất nhiều cuộc hội thảo, đề tài khoa học, tác giả đã nghiên
cứu và đề cập đến vấn đề này trong quá trình nghiên cứu. Tiêu biểu là một số tác phẩm
sau:
Tác giả Lê Hồng Hạnh: Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước- Những vấn đề lý
luận và thực tiễn. Trong nghiên cứu của mình tác giả đã đưa ra cái nhìn chung nhất về
quá trình cổ phần hóa DNNN trong cả lý thuyết và thực tiễn thực hiện. Đưa ra nhận
xét về pháp luật điều chỉnh vấn đề này và đánh giá thực tiễn thực hiện.
Tác giả Lê Xuân Bá: Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - Thuận lợi, khó
khăn và giải pháp / Quản lý nhà nước. Học viện Hành chính, Số 7/2000, tr. 27 – 31.
Trong tác phẩm này tác giả đã nghiên cứu và nhìn nhận cổ phần hóa ở nhiều góc độ từ
đó đưa ra những ưu điểm và khó khăn của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước và trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp để khắc phục những khó khăn.
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam(2007) - Cơ sở pháp lý và thực
tiễn áp dụng . Nguyễn Thị Vân Anh; Hà Nội. - 106 tr; 28 cm. trong tác phẩm nghiên
cứu này tác giả đã đưa ra những văn bản pháp luật điều chỉnh cổ phần hóa, phân tích
những văn bản này và sự thích hợp trong quá trình thực thi các văn bản quy phạm

pháp luật này.
6
ThS Trần, Thị Bạch Dương( 2002): Xu hướng hoàn thiện pháp luật về cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nước. Nghiên cứu của tác giả đã đưa ra những xu hướng đẩy
nhanh tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước cả về tốc độ và chất lượng.
Tuy nhiên, các công trình này phần lớn đều chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật
về cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước một cách lý thuyết, chung chung mà chưa
đi sâu vào tìm hiểu thực trạng áp dụng tại một doanh nghiệp cụ thể. Do vậy em xin
chọn đề tài: “Pháp luật về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước- Thực tiễn thực hiện
tại công ty cổ phần Giao thông Công chính Thạch Thành” là đề tài khoá luận của
mình.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Khi các văn bản pháp luật được ban hành thì buộc các chủ thể thuộc phạm vi
điều chỉnh phải tuân thủ theo. Cổ phần hoá là chủ trương của Đảng và nhà nước đã
được thể chế hoá thành các quy phạm pháp luật được quy định trong các văn bản pháp
luật: Luật Doanh nghiệp 2005, một số NĐ như NĐ 59/2011 NĐ- CP
Thực hiện yêu cầu của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế,
tổng công ty nhà nước đã nghiêm túc, quyết liệt chỉ đạo, thực hiện các biện pháp mạnh
mẽ, nhiều đơn vị có các biện pháp sáng tạo phù hợp với quy định của pháp luật, nỗ lực
thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp trực thuộc.
Công ty cổ phần giao thông Công chính Thạch Thành có tiền thân là một doanh
nghiệp nhà nước. Thực hiện theo đúng chủ trương của Đảng, định hướng của Nhà
nước năm 2004 công ty đã tiến hành cổ phần hoá và sau 10 năm công ty đã đạt được
nhiều kết quả. Vì vậy trong đợt thực tập tốt nghiệp tổng hợp vừa qua cùng với những
kiến thức được trang bị tại trường đại học Thương Mại, và sự giúp đỡ của giáo viên
hướng dẫn, các cán bộ nhân viên trong công ty nên em xin chọn đề tài:“ Pháp luật về
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước- Thực tiễn thực hiện tại công ty cổ phần Giao
thông Công chính Thạch Thành” là đề tài khoá luận của mình.
Do kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế và thời gian hạn hẹp, bài viết này mới chỉ đề
cập được đến một số vấn đề cơ bản nhất, nên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót.

Trong phạm vi nhất định em sẽ cố hoàn thiện ở các bài nghiên cứu sau này.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về các vấn đề pháp luật hiện nay quy định về cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước và thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần Giao thông Công
chính Thạch Thành.
Dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến cổ phần hoá, dựa trên các
văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành như luật Doanh nghiệp 2005, NĐ
7
59/2011 NĐ-CP… và thực tiễn thực hiện ở công ty cổ phần giao thông Công chính
Thạch Thành.
Bài tập trung nghiên cứu về cổ phần hoá tại công ty
Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh về cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nước.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và
thực tiễn thực hiện tại công ty cổ phần Giao thông Công chính Thạch Thành.
Chương 3: Một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước.
Đề tài cung cấp những thông tin, nghiên cứu nhằm tìm hiểu về quá trình cổ
phần hoá doanh nghiệp tại công ty cổ phần giao thông Công chính Thạch Thành qua
đó tìm ra những điểm tích cực và hạn chế và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về vấn đề cổ phần hoá DNNN.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu của khoá luận là phương pháp duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm phát triển
kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước cũng là kim chỉ nam cho
phương pháp luận nghiên cứu của khoá luận.
Bên cạnh đó để hoàn thành khoá luận, em sử dụng tổng hợp các phương pháp
cụ thể sau:
Thứ nhất: Phương pháp phân tích cụ thể, tổng hợp, suy luận: từ những tình
huống, kết quả trên thực tế để đưa ra những nhận xét đánh giá về quá trình cổ phần

hoá của công ty.
Thứ hai: Phương pháp nghiên cứu tài liệu: chủ yếu là nghiên cứu các văn bản
quy phạm pháp luật quy định về cổ phần hoá DNNN.
Thứ ba: Phương pháp so sánh, đối chiếu thông tin: trong quá trình thực tập và
viết khoá luận, bên phía Công ty cổ phần giao thông Công Chính Thạch Thành có
cung cấp một số tài liệu để xác thực thông tin được cung cấp, em đã sử dụng phương
pháp so sánh, đối chiếu thông tin từ một số nguồn khác nhau để đảm bảo tính khách
quan.
6. Kết cấu khoá luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3
chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh về cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nước.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và
thực tiễn thực hiện ở công ty cổ phần giao thông Công chính Thạch Thành.
8
Chương 3: Một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ
CỔ PHẦN HOÁ CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.
1.1 Một số khái niệm cơ bản liên quan đến cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
1.1.1 Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN)
Khái niệm doanh nghiệp Nhà nước
Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ
hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối được tổ chức dưới hình thức công ty Nhà nước,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
9
Doanh nghiêp Nhà nước là doanh nghiệp một chủ trong trường hợp Nhà nước sở hữu
toàn bộ vốn điều lệ(tức sở hữu 100%). Doanh nghiệp Nhà nước nhiều chủ sở
hữu trong trường hợp có cổ phần, vốn góp chi phối có tỉ lệ trên 50% và dưới 100%.

Đặc điểm của doanh nghiệp Nhà nước
Chủ đầu tư: Là Nhà nước hoặc Nhà nước cùng với các tổ chức, cá nhân khác.
Sở hữu vốn: Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ(100%) hoặc sở hữu phần vốn góp
chi phối(trên 50% nhưng dưới 100% vốn điều lệ).
Hình thức tồn tại: Doanh nghiệp Nhà nước có nhiều hình thức tồn tại. Nếu doanh
nghiệp Nhà nước do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ thì có các loại hình doanh
nghiệp như: công ty Nhà nước, công ty cổ phần Nhà nước, công ty trách nhiệm hữu
hạn Nhà nước một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước. Nếu doanh
nghiệp do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ thì có thể tồn tại dưới các loại hình
doanh nghiệp sau: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Trách nhiệm tài sản: Doanh nghiệp Nhà nước chịu trách nhiệm trong phạm vi tài
sản của doanh nghiệp. Nhà nước chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi tài sản góp
vốn vào doanh nghiệp.
Tư cách pháp lý: Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân.
Luật áp dụng: Các công ty Nhà nước đã thực hiện chuyển đổi thành công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn sẽ tổ chức và hoạt động theo luật Doanh nghiệp
2005. Các loại doanh nghiệp Nhà nước khác tổ chức và hoạt động theo luật Doanh
nghiệp 2005.
Phân loại doanh nghiệp Nhà nước
Dựa vào hình thức tổ chức doanh nghiệp Nhà nước có năm loại, gồm:
Thứ nhất, công ty Nhà nước: Là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ
thành lập, tổ chức quản lý và tồn tại dưới hình thức công ty Nhà nước độc lập và tổng
công ty Nhà nước.
Thứ hai, công ty cổ phần Nhà nước: Là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là các
công ty Nhà nước hoặc tổ chức được Nhà nước ủy quyền góp vốn. Tổ chức và hoạt
động theo Luật Doanh nghiệp năm 2005.
Thứ ba, công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên là công ty trách nhiệm
hữu hạn do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ. Tổ chức quản lí và đăng ký
theo Luật Doanh nghiệp năm 2005.
Thứ tư, công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước có từ hai thành viên trở lên: Là công ty

trách nhiệm hữu hạn trong đó có tất cả các thành viên đều là công ty Nhà nước hoặc có
10
thành viên là công ty Nhà nước, thành viên được ủy quyền góp vốn. Được tổ chức và
hoạt động theo luật Doanh nghiệp.
Thứ năm, doanh nghiệp cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước: Là doanh nghiệp mà
cổ phần hoặc vốn góp của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ. Nhà nước giữ quyền
chi phối doanh nghiệp.
Dựa theo nguồn vốn DNNN được chia thành:
Thứ nhất, Doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước sở hữu 100% vốn, gồm: công ty Nhà
nước, công ty cổ phần Nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành
viên, công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước hai thành viên trở lên.
Thứ hai, Doanh nghiệp do Nhà nước có cổ, vốn góp chi phối, gồm: công ty cổ phần
Nhà nước mà Nhà nước chiếm trên 50% cổ phiếu, công ty trách nhiệm hữu hạn mà
Nhà nước chiếm trên 50% vốn góp.
Dựa theo mô hình tổ chức quản lý:
Thứ nhất, doanh nghiệp Nhà nước có hội đồng quản trị: hội đồng quản trị là cơ quan
đại diện trực tiếp chủ sở hữu Nhà nước, chịu trách nhiệm trước Nhà nước.
Thứ hai, doanh nghiệp Nhà nước không có hội đồng quản trị: giám đốc doanh nghiệp
được Nhà nước bổ nhiệm hoặc thuê để điều hành hoạt động của doanh nghiệp.
1.1.2. Cổ phần hoá
Là quá trình chuyển quyền sở hữu của tài sản hoặc các hoạt động kinh doanh từ Nhà
nước sang cho một thực thể do tư nhân hoặc tổ chức sở hữu.
1.1.3 Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
Khái niệm: Là quá trình chuyển một phần hoặc toàn bộ vốn của Nhà nước cho cá
nhân, tổ chức đồng thời chia nhỏ phần vốn của công ty thành nhiều phần bằng nhau
nhằm thay đổi hình thức sở hữu của công ty từ một chủ sở hữu thành nhiều chủ sở
hữu.
Bản chất của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là bán một phần hoặc toàn bộ doanh
nghiệp Nhà nước thông qua hình thức bán cổ phần của doanh nghiệp nhằm đem lại
nhiều lợi ích hơn cho cả Nhà nước và cho chính cả bản thân doanh nghiệp:

Cổ phần hóa sẽ hạn chế sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của công ty, như
vậy có thể làm giảm chi phí quản lý đồng thời tạo được khả năng quản lý tốt và có
hiệu quả cao hơn cho Nhà nước.
Bên cạnh đó cổ phần hóa DNNN giúp tạo ra được khu vực kinh tế tư nhân hoạt
động hiệu quả, linh hoạt, tăng hiệu quả của các doanh nghiệp ở cả hai khu vực Nhà
nước và tư nhân do tính cạnh tranh cao, thúc đẩy cả hai bên đều phải cải tiến năng lực.
11
Cổ phần hóa DNNN còn thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo dựng được nhiều doanh
nghiệp có vốn đầu tư trong nước, thu hút vốn đầu tư của nhân dân, tạo công ăn việc
làm cho người lao động khi doanh nghiệp được mở rộng, phát triển sản xuất. Thúc đẩy
sự phát triển của thị trường chứng khoán vì khi doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành
công ty cổ phần, chúng sẽ phát hành các loại chứng khoán để huy động vốn. Thu hút
nhanh chóng nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư vào nền kinh tế bằng việc phát
hành chứng khoán.
Các DNNN khi tiến hành cổ phần hóa sẽ nhanh chóng cấu trúc lại các doanh nghiệp
về sản xuất, tổ chức… Nâng cao năng suất, chất lượng và vị thế của doanh nghiệp ở
thị trường trong nước và quốc tế.
1.1.4 Công ty cổ phần
Khái niệm: Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: Vốn điều lệ được chia thành
nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ
đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa.
Đặc điểm:
• Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
• Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác.
• Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh.
• Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn.
Hình thức hoạt động: Công ty cổ phần có nhiều chủ sở hữu, mỗi chủ sở hữu chịu trách
nhiệm cao nhất về phần vốn góp của mình. Bằng cách phát hành cổ phiếu, công ty cổ

phần có thể thay đổi, tăng hoặc giảm số chủ sở hữu trong quá trình kinh doanh. Công
ty cổ phần được giám sát chặt chẽ, thường xuyên, có hiệu quả bởi thị trường chứng
khoán và cơ chế hoạt động bên trong của nó.
Công ty cổ phần là loại công ty có rất nhiều ưu điểm so với các loại hình công ty khác:
Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân; Công ty
được phép phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Vì vậy, công ty cổ phần dễ dàng huy động
được một lượng vốn lớn từ các nhà đầu tư khi cần đầu tư mở rộng sản xuất, hiện đại
hóa trang thiết bị, cải tiến công nghệ… Đây là ưu thế nổi bật của công ty cổ phần trong
nền kinh tế thị trường.
Bên cạnh đó cổ đông của công ty góp vốn vào công ty và hưởng lãi hoặc chịu lỗ
tương ứng với tỷ lệ vốn góp vào công ty. Cổ đông chỉ phải chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp. Như vậy,
12
các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn đối với phần vốn góp vào công ty. Các cổ
đông chia sẻ rủi ro với nhau trong trường hợp công ty làm ăn thua lỗ ( và chỉ phải chịu
trong phần vốn góp vào công ty) vì vậy đây là loại hình thu hút nhiều nhà đầu tư nên
công ty cổ phần thường có rất nhiều cổ đông. Các cổ đông có thể tự mình tham
gia quản lý công ty hoặc cử người tham gia quản lý công ty.
Về cổ phiếu, trái phiếu của công ty cổ phần được tự do chuyển nhượng ( trừ một số
trường hợp đặc biệt). Vì vậy, nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển hướng đầu tư. Điều
này thể hiện sự đa dạng trong đầu tư, phù hợp với xu hướng phát triển năng động của
nền kinh tế thị trường. Công ty cổ phần cùng với việc phát hành các loại chứng khoán
và việc chuyển nhượng, mua bán chứng khoán và chuyển nhượng, mua bán chứng
khoán. Khi thị trường chứng khoán ra đời, nó sẽ tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh
có thể tìm kiếm các nguồn tài trợ cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh để mở
rộng sản xuất nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp sau cổ phần hóa.
Có thể thấy công ty cổ phần là một loại hình tổ chức kinh doanh phù hợp với quy
mô sản xuất lớn, thích ứng được những đòi hỏi của nền sản xuất xã hội hóa cao và sự
phát triển của nền kinh tế hiện đại. Hiện nay, công ty cổ phần là mô hình phổ biến trên
thế giới, nhất là ở các nước phát triển.

1.2 Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh về cổ phần hoá
1.2.1 Cơ sở ban hành
Thứ nhất: Thực hiện, cụ thể hoá đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, vấn
đề đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN luôn là mối quan tâm của Đảng
và Nhà nước. Đây chính là cơ sở là yếu tố quan trọng nhất để nhà nước ban hành các
quy định liên quan đến cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Trong 2 năm 2014-2015 , mục tiêu cổ phần hóa 432 doanh nghiệp tiếp tục được khẳng
định. Việc hoàn thành mục tiêu này thể hiện quyết tâm và nỗ lực của Chính phủ, các
ngành, các cấp trong cải cách doanh nghiệp nhà nước và tái cơ cấu nền kinh tế, nhưng
cũng được cho là có nhiều thách thức trong bối cảnh hiện nay. Với mục tiêu, hướng đi
và những thay đổi trên đường lối, chính sách của Đảng nhằm đẩy nhanh tốc độ cổ
phần hoá và đảm bảo hiệu quả trong hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá
thì việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với tình hình thực tế cũng
là điều tất yếu.
Thứ hai: Yêu cầu bức thiết của nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần. Trước năm 1986 nền kinh tế nước ta là nền kinh tế quan liêu
bao cấp giữ vai trò chủ đạo là các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước thực hiện kiểm
soát nền kinh tế thông qua các doanh nghiệp này với cơ chế cung sẽ quyết định cầu.
13
Tất cả sản phẩm trong nền kinh tế đều thuộc sự kiểm soát của Nhà nước. Các doanh
nghiệp cũng sản xuất theo quyết định về sản lượng của Nhà nước Tuy nhiên từ năm
1986 nước ta thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa cho phép trong nền kinh tế có
thêm nhiều hình thức sở hữu đồng thời với đó là việc Việt Nam gia nhập nhiều tổ chức
và hiệp hội kinh tế khu vực và thế giới đã đòi hỏi sự thay đổi mạnh mẽ trong nền kinh
tế. Trước năm 1986 DNNN đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế vậy muốn thay đổi
nền kinh tế từ quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội thì yếu
tố quyết định để xoay chuyển nền kinh tế đó chính là các DNNN. Việc thay đổi này
cần có cơ chế bắt buộc để sự chuyển đổi diễn ra một cách thống nhất đạt hiệu quả cao
đó chính là sự thay đổi các DNNN từ một chủ sở hữu sang nhiều chủ sở hữu( cổ phần

hoá) cần phải được thể chế hoá thành các quy phạm, các văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ ba: Các cam kết về cổ phần hóa các Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam khi
hội nhập kinh tế quốc tế
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thế giới đã tập trung nhiều chú ý vào sự tồn
tại và hoạt động của các doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu hoặc kiểm soát tại
Việt Nam. Khi gia nhập WTO, WTO không đưa ra các quy tắc đối với các Thành
viên về việc ưu tiên một hình thức sở hữu nào đó hay trong việc thành lập và vận hành
các DNNN. Tức là không yêu cầu bắt buộc phải cổ phần hóa các DNNN. Tuy nhiên,
nhằm đảm bảo nguyên tắc minh bạch hóa, nghị định thư gia nhập của tất cả các nước
có nền kinh tế đang chuyển đổi đều có nghĩa vụ thông báo hàng năm cho các Thành
viên WTO khác về các chương trình cổ phần hóa của họ. Giống như các nền kinh tế
chuyển đổi mới gia nhập khác, Việt Nam cam kết sẽ đảm bảo tính minh bạch tối đa
của các chương trình cổ phần hóa đang thực hiện, và để thực hiện mục tiêu này, kể từ
thời điểm gia nhập WTO, Việt Nam sẽ cung cấp cho các thành viên WTO báo cáo
thường niên về tình trạng chương trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam và các văn bản
pháp luật điều chỉnh vấn đề cổ phần hóa.
1.2.2 Nội dung pháp luật điều chỉnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà nước từ
chỗ chỉ thuộc sở hữu của Nhà nước thành công ty cổ phần thuộc sở hữu của nhiều cổ
đông. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước bản chất là bán một phần hoặc toàn bộ
doanh nghiệp Nhà nước thông qua hình thức bán cổ phần của doanh nghiệp.
Cùng với chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thì viêc ban hành một số văn
bản quy phạm pháp luật quy định, điều chỉnh về cổ phần hoá DNNN cũng được tiến
hành và kết quả là sự ra đời của một số văn bản quy phạm pháp luật mang tính hướng
dẫn, điều chỉnh thực hiện:
Đầu tiên là quy định trong Luật doanh nghiệp 2005: Theo Điều 166 Luật Doanh
nghiệp thì đến 1/7/ 2010 thì các công ty, doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước phải
14
chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn
Nhà nước một thành viên hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước hai thành viên

trở lên. Và một trong những cách để thực hiện chuyển đổi loại hình doanh nghiệp theo
quy định này là cổ phần hóa.
Tiếp đến có thể thấy quá trình cổ phần hóa ở nước ta được bắt đầu với chương trình
thử nghiệm vào năm 1992 bằng QĐ số 202- CT ngày 08/06/1992 và QĐ số 84/Ttg
ngày 04/04/1993. Trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và đặc biệt là khi Việt Nam
gia nhập WTO, nhận thấy cần thiết phải có giải pháp cổ phần hóa mạnh hơn, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 109/2007/NĐ-CP. Năm 2011, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 59/2011/NĐ-CP nhằm cung cấp các hướng dẫn đối với việc chuyển DN
100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần. Cùng với đó là việc thành lập và chính
thức hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) có
nhiệm vụ bán cổ phần tại các doanh nghiệp Nhà nước.
Pháp luật quy định khá đầy đủ, bao trùm trong hoạt động cổ phần hóa: như quy định
về đối tượng, mục đích, yêu cầu, hình thức, quy trình cổ phần hóa:
Mục đích, yêu cầu, điều kiện cổ phần hoá: Chuyển đổi những doanh nghiệp mà Nhà
nước không cần giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy
động vốn của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài để nâng cao năng lực tài chính,
đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế. Đồng thời bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp,
nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệpvà thực hiện công khai, minh bạch
theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ
doanh nghiệp tránh tình trạng” bình mới rượu cũ “; gắn với phát triển thị trường vốn,
thị trường chứng khoán.
Đối tượng cổ phần hóa
Theo NĐ 59/2011 NĐ- CP thì đối tượng của quá trình cổ phần hoá bao gồm:
Thứ nhất: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100%
vốn điều lệ là công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế; Tổng công ty Nhà nước (kể cả Ngân
hàng Thương mại Nhà nước).
Thứ hai: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100%
vốn điều lệ là doanh nghiệp thuộc các Bộ; cơ quan ngang Bộ; cơ quan thuộc Chính
phủ; Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Thứ ba: Doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước chưa chuyển thành công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên.
Và điều kiện để các doanh nghiệp thuộc đối tượng được cổ phần hoá là không thuộc
diện Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn điều lệ. Danh mục doanh nghiệp thuộc diện
15
Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng
thời kỳ hoặc còn vốn Nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và đánh giá lại giá trị
doanh nghiệp.
Các hình thức khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước:
Theo Nghị định số 59/2011/NĐ-CP có một số hình thức cổ phần hóa sau:
1. Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm
vốn.
2. Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
3. Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
Thực hiện các hình thức 2 hoặc 3 kết hợp với phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn.
Ngoài ra còn quy định về trình tự cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước theo các
bước sau:
Bước 1: Xây dựng phương án cổ phần hóa.
Tại bước thứ nhất này, đầu tiên yêu cầu cần lập ra một Ban chỉ đạo để chuẩn bị các
công tác cũng như chỉ đạo các bước tiến hành chuyển đổi cổ phần cho các doanh
nghiệp. Sau đó Ban chỉ đạo này sẽ có nhiệm vụ phối hợp với các doanh nghiệp tiến
hành điều tra, lấy số liệu hồ sơ về doanh nghiệp. Các bước tiến hành chuyển đổi gồm
có: Chuẩn bị các hồ sơ tài liệu của doanh nghiệp như hồ sơ pháp lý về thành lập doanh
nghiệp, hồ sơ pháp lý về tài sản, vốn của doanh nghiệp, hồ sơ về công nợ, báo cáo tài
chính, hồ sơ tài sản , hồ sơ các nguồn vay dài hạn và ngắn hạn Sau đó tổng hợp
thống kê lại và lập danh sách thống kê các vấn đề tài chính và cơ cấu tổ chức của
doanh nghiệp. Lập phương án sử dụng đất của doanh nghiệp và danh sách phương án
sắp xếp lao động đang quản lý. Từ đó sẽ tiến hành kiểm kê, xử lý những vấn đề về tài
chính và tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp. Cuối cùng là bước định giá và công bố
giá trị doanh nghiệp để bắt đầu tiền hành bán cố phần.

Bước 2: Tổ chức bán cổ phần.
Ban chỉ đạo cổ phần hoá quyết định công bố thông tin về doanh nghiệp trước khi tổ
chức đấu giá tối thiểu là 20 ngày( theo điểm 2 Điều 7 Thông tư 196/2011/TT-BTC).
Nội dung thông tin về doanh nghiệp cổ phần hoá được lập theo phụ lục số 2 ban hành
kèm theo Thông tư 196/2011/TT-BTC. Thông tin được công bố tại doanh nghiệp, nơi
bán đấu giá và trên phương tiện thông tin đại chúng. Việc tổ chức bán cổ phần có thể
bán cho các nhà đầu tư thông thường, các nhà đầu tư chiến lược, bán cho người lao
động hay tổ chức công đoàn. Sau đó Ban chỉ đạo cổ phần hoá chỉ đạo doanh nghiệp
chuyển tiền thu từ bán cổ phần về quỹ theo quy định. Cuối cùng, Ban chỉ đạo cổ phần
hoá báo cáo cơ quan có thẩm quyền quyết định cử người làm đại diện phần vốn Nhà
nước tại các doanh nghiệp cổ phần hoá có vốn nhà nước tiếp tục tham gia trong công
16
ty cổ phần và chịu trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ của đại diện chủ sở hữu
phần vốn Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Bước 3: Hoàn tất việc chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần
Sau khi hoàn tất việc bán cổ phần cho các cổ đông, việc đầu tiên của doanh nghiệp là
phải họp Đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất. Ban chỉ đạo cổ phần hóa chỉ đạo Tổ giúp
việc và doanh nghiệp tổ chức Đại Hội đồng cổ đông lần thứ nhất để thông qua Điều lệ
tổ chức và hoạt động, phương án sản xuất kinh doanh, bầu Hội đồng quản trị, ban
Kiểm soát và bộ máy điều hành công ty cổ phần. Căn cứ vào kết quả Đại Hội đồng cổ
đông lần thứ nhất, Hội đồng quản trị công ty cổ phần thực hiện đăng ký kinh doanh,
nộp con dấu của doanh nghiệp cũ và xin khắc dấu của công ty cổ phần.
(Theo Điều 45 NĐ 59/2011/NĐ-CP). Sau đó, lập báo cáo tài chính tại thời điểm công
ty cổ phần được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lần đầu, thực hiện quyết
toán thuế, quyết toán chi phí cổ phần hoá, kiểm toán báo cáo tài chính, báo cáo cơ
quan quyết định cổ phần hoá( Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày được cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lần đầu). Tổ chức ra mắt công ty cổ phần và thực
hiện bố cáo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định. Cuối cùng là tổ chức
bàn giao giữa doanh nghiệp và công ty cổ phần.
1.3 Yêu cầu về pháp luật điều chỉnh về cổ phần hoá DNNN

Các quy định liên quan đến thoái vốn đầu tư ngoài ngành cần linh hoạt và phải bao
quát được thực tiễn đa dạng của các loại vốn cần thoái, phải điều chỉnh việc thoái vốn
dưới hình thức cổ phần, vốn góp, và các hình thức khác như bán tài sản, chuyển
nhượng dự án, chuyển nhượng quyền sử dụng đất Các quy định về thực hiện bảo
toàn và phát triển vốn tại DNNN cần phải quy định phù hợp với cơ chế thị trường.
Các quy định về định giá vốn tại DNNN cũng cần dễ hiểu và phải tuân theo nguyên
tắc thị trường, không cản trở quá trình thoái vốn của các DNNN
Cần quy định về việc phát hành nhiều loại cổ phần ngoài cổ phần phổ thông, còn cần
phát hành loại cổ phần ưu đãi để đáp ứng được nhu cầu đa dạng của các nhà đầu tư,
nhất là trong bối cảnh thị trường chứng khoán suy giảm, để không làm ảnh hưởng
đáng kể đến tốc độ cổ phần hóa.
Quy định về quá trình cổ phần hoá cần rõ ràng, cần thống nhất để dễ dàng trong khâu
thực hiện
17
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ CỔ PHẦN HOÁ
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY
CỔ PHẦN GIAO THÔNG CÔNG CHÍNH THẠCH THÀNH
2.1 Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước
2.1.1 Tổng quan tình hình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
2.1.1.1 Tính tất yếu phải cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là nhiệm vụ quan trọng và mang tính tất yếu: do
yêu cầu của bản thân thị trường, nền kinh tế, của chính doanh nghiệp Nhà nước và hơn
thế công ty cổ phần chính là loại hình công ty có nhiều ưu điểm nhất được hình thành
và phát triển mạnh mẽ ở các nước phát triển.
Thứ nhất yêu cầu về hiệu quả trong nền kinh tế
Hiệu quả hoạt động: theo mô hình xã hội chủ nghĩa truyền thống, sở hữu Nhà nước
được thiết lập nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn, đảm bảo tính công bằng trong
xã hội với mục tiêu” làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”. Nhưng trên thực tế, nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã vận hành không tốt như mong đợi. Nó thể hiện nhiều

khuyết tật tồn tại và hiệu quả hoạt động thấp. Thực tế cho thấy trước năm 1986 việc
vội vàng xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân thiết lập sở hữu Nhà nước và tập thể dựa trên
biện pháp hành chính đã đẩy nền kinh tế nước ta rơi vào khủng hoảng trầm trọng, kéo
dài. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng
khá nhanh, bất chấp mọi nỗ lực đổi mới, hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước
vẫn không mang lại hiệu quả không cao thêm vào đó việc sử dụng nguồn lực kém hiệu
quả, khả năng cạnh tranh thấp đòi hỏi các doanh nghiệp Nhà nước phải đổi mới để có
thể cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập hiện nay.
Bên cạnh đó còn có hiệu quả của việc sử dụng nguồn lực: DNNN nắm trong tay phần
lớn nguồn lực của nền kinh tế. Tuy nhiên hầu hết lại bị sử dụng lãng phí, không hiệu
quả đặc biệt là các nguồn lực khan hiếm. Điều này chỉ ra tương lai không sáng sủa của
nền kinh tế. Việc thay đổi trở thành yêu cầu và tất yếu.
Thứ hai: Yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Đòi hỏi việc thay đổi cơ chế, xoá bao cấp đối với các DNNN: mối quan hệ giữa Nhà
nước và các DNNN là không rõ ràng, Nhà nước can thiệp quá sâu vào việc quản lý các
doanh nghiệp tuy vậy lại không thể nắm rõ về tình hình của các DNNN. DNNN là
phương tiện chứ không phải là mục đích tuy nhiên trước năm 1986 DNNN được coi
như mục đích bởi mọi hoạt động, khối lượng sản phẩm tung ra thị trường đều phụ
thuộc vào quyết định từ Nhà nước. Thực tế cho thấy có rất nhiều DNNN thua lỗ triền
18
miên tuy nhiên lại được tiếp vốn từ Nhà nước để vực dậy,“ cứu sống” và dù doanh
nghiệp có làm ăn thua lỗ thì người đứng đầu các DNNN này cũng không bị ảnh hưởng
đến tài sản đến túi tiền của họ, vì vậy những người được giao nhiệm vụ điều hành
những doanh nghiệp nhà nước trước thực tế là luôn có túi tiền nhà nước cứu trợ họ
không còn có động lực cũng như trách nhiệm để lãnh đạo doanh nghiệp phát triển bởi
dù doanh nghiệp có suy thoái thì cũng có Nhà nước “ cứu”.
Trong nền kinh tế thị trường việc cạnh tranh giữa DNNN và doanh nghiệp tư nhân
đang có xu hướng tăng. Hơn thế trong quá trình hội nhập, các DNNN không chỉ phải
cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân trong nước mà còn phải cạnh tranh cả với cả
các doanh nghiệp tư nhân nước ngoài. Cạnh tranh trong nước và quốc tế không chấp

nhận việc nhà nước giữ độc quyền cho các Doanh nghiệp của mình. Cạnh tranh bình
đẳng đòi hỏi không chỉ xoá bỏ độc quyền mà cần phải xoá bỏ cả bao cấp. Dưới áp lực
nền kinh tế thị trường thì việc cổ phần hoá các DNNN là điều tất yếu.
Cuối cùng loại hình công ty cổ phần bộc lộ là loại hình công ty tối ưu nhất hiện nay
với nhiều ưu điểm: chế độ trách nhiệm của công ty cổ phần là trách nhiệm hữu hạn,
các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong
phạm vi vốn góp nên mức độ rủi do của các cổ đông không cao tuy nhiên sẽ làm
những người quản lý trong công ty chịu trách nhiệm cao hơn; Số lượng cổ đông trong
công ty không giới hạn tối đa; Khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng, trong
hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực. Sau 3 năm hoạt động, việc chuyển nhượng vốn trong
công ty cổ phần là tương đối dễ dàng, do vậy phạm vi đối tượng được tham gia công ty
cổ phần là rất rộng, ngay cả các cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của
công ty cổ phần.
2.1.1.2 Đánh giá chung về quy định của pháp luật về cổ phần hoá và việc thực hiện cổ phần
hóa DNNN từ năm 2005 đến nay
Từ khi có chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, thì chủ trương này đã
được thể chế hoá trong luật. Rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành
nhằm điều chỉnh vấn đề này một cách thống nhất và có hiểu quả nhất: như trong luật
Doanh nghiệp 2005, NĐ 59/2011 NĐ- CP….
Hiện nay, việc cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước chủ yếu là thực hiện theo các
nghị định, thông tư hoặc các quyết định mang tính chất hành chính của các cấp. Có thể
nói, quá trình cổ phần hóa đã có các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh một cách
cơ bản như về đối tượng, quá trình, hình thức, các vấn đề liên quan đến vốn và tài sản,
người lao động trong quá trình cổ phần hóa.
Trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay, khi kế hoạch cổ phần hóa liên tục bị chậm tiến
độ, Chính phủ, các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh đã ban hành rất nhiều văn bản nhằm
19
đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Ví dụ, trong năm 2014
Chính phủ và Thủ tướng đã ban hành một số văn bản pháp luật như: Nghị quyết
15/NQ-CP năm 2014 về giải pháp đẩy nhanh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại

doanh nghiệp; Chỉ thị số 06/CT-TTg năm 2014 về đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp
nhà nước; Quyết định số 37/2014/QĐ-TTg về tiêu chí, danh mục phân loại doanh
nghiệp nhà nước… Nội dung của các văn bản pháp luật đã cho thấy được sự quyết liệt
nhằm đẩy nhanh cổ phần hóa nhưng kết quả đạt được lại thấp. Từ đó cho thấy, các văn
bản pháp luật này có tính áp đặt pháp lý yếu ớt, nên không khó hiểu khi có một khoảng
cách lớn giữa ý chí và quyết tâm của lãnh đạo cấp trên với sự tuân thủ, thực thi của cấp
dưới.
Mặt khác, liên quan đến vấn đề lợi ích, hiện nay các doanh nghiệp nhà nước do các bộ,
các ngành, UBND cấp tỉnh quản lý, các doanh nghiệp này đem lại nhiều lợi ích cho
các cơ quan này, thậm chí là các cá nhân, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp đang
nắm giữ thế độc quyền. Điều này, dẫn đến việc các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền
thiếu quyết liệt trong việc chỉ đạo cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, các văn
bản pháp luật ban hành thiếu tính khả thi.
2.1.1.3 Sự thay đổi của các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá
Trước khi tiến hành cổ phần hoá: trong một thời gian dài các doanh nghiệp nhà
nước được ưu đãi nhiều mặt nhưng hiệu quả hoạt động lại thấp, vốn tín dụng chiếm
60% nhưng đóng góp vào GDP chỉ mới có 30%. Theo những thông tin công khai, lỗ
vẫn còn cao, trên 16%. ( nguồn: />Sau khi cổ phần hoá: Việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã mang lại những
tín hiệu tích cực cho nền kinh tế nước nhà và cho chính những doanh nghiệp này. Báo
cáo của Bộ Tài chính, trong số 3.576 doanh nghiệp được sắp xếp, cổ phần hóa, đã có
85% doanh nghiệp có doanh thu năm sau cao hơn năm trước. Gần 90% doanh nghiệp
sau khi sắp xếp, cổ phần hóa có lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước. Có 86% doanh
nghiệp đóng góp vào ngân sách Nhà nước năm sau cao hơn năm trước. Không những
thế sau khi cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước chỉ nắm những ngành, lĩnh vực và
địa bàn then chốt, tránh được việc đầu tư dàn trải, giúp Nhà nước giảm được việc bù lỗ
hàng năm. Trong các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa thì vai trò làm chủ của
người lao động cũng là những cổ đông được nâng lên một cách rõ rệt, nâng cao hiệu
quả sản xuất…(nguồn: />Tuy nhiên, vẫn còn những bất cập trong hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa.
Nhiều doanh nghiệp chưa có đổi mới thực sự trong quản trị, phương pháp quản lý, lề
lối làm việc, tính công khai, minh bạch chuyển biến chậm. Nhiều nội dung của cơ chế,

20
chính sách quản lý doanh nghiệp sau cổ phần hóa như: chính sách tiền lương, tiền
thưởng… vẫn còn áp dụng như trước chuyển đổi chưa đem lại nhiều lợi ích cho người
lao động.
Về thực trạng tốc độ cổ phần hoá: khi giai đoạn 2007-2010 chỉ đạt khoảng 30% kế
hoạch cổ phần hóa, năm 2011 được 12 doanh nghiệp, năm 2012 được 13 doanh
nghiệp, năm 2013 được 74 doanh nghiệp, đều quá thấp so với yêu cầu. Nhiều địa
phương, bộ ngành, tập đoàn, tổng công ty nhà nước không cổ phần hóa được doanh
nghiệp nào trong thời gian qua. Trong 5 tháng đầu năm 2014, mới cổ phần hóa được
17 doanh nghiệp, tương đương 3,9% số doanh nghiệp phải cổ phần hóa 2 năm 2014-
2015 và 10,4% kế hoạch năm 2014.…(nguồn: />Theo thống kê đấu giá cổ phần của các công ty, tổng công ty nhà Nước trong quý I và
quý II/2014 cho thấy, trung bình có 27% số cổ phần chào bán trúng giá, trong đó, có
tới một nửa số doanh nghiệp chỉ bán được dưới 2% tổng số cổ phần chào bán. Việc
thoái vốn ngoài ngành của các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước hết sức khó khăn, mới
đạt 4.164 tỷ đồng trên tổng số 21.797 tỷ đồng cần thoái (19%), các nhà đầu tư bên
ngoài chỉ mua 267 tỷ đồng, còn lại 3.894 tỷ đồng là trong nội bộ.( nguồn:
/>Chậm trễ trong cổ phần hóa có nguyên nhân khách quan là khủng hoảng tài chính và
suy thoái toàn cầu ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế nước ta, thị trường tài chính khó
khăn, thị trường chứng khoán giảm sút, sức mua cổ phần thấp, nguồn cung dường như
vượt quá năng lực hấp thụ của thị trường, nhà đầu tư còn lo ngại khi thị trường tồn tại
nhiều rủi ro…
2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước.
Quá trình cổ phần hóa DNNN chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố từ bên môi
trường bên ngoài như các chính sách của Đảng và Nhà nước, bản thân nền kinh tế và
các yếu tố từ ngay bên trong doanh nghiệp.
Nhân tố thứ nhất đó là chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về cổ phần
hoá, pháp luật điều chỉnh:
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đặt ra trong mỗi thời kì là khác nhau vì
vậy việc thể chế hoá pháp luật cũng cần đáp ứng đúng chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Khi bắt đầu có chủ trương cổ phần hoá thì các hoạt động mang

tính chất thí điểm. Sau đó năm 2001 thì chủ trương của Đảng là đẩy nhanh việc cổ
phần hoá các DNNN: Tháng 8 năm 2001, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX họp về doanh nghiệp nhà nước và ra nghị
quyết của Trung ương Đảng về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước. Các thông tư, nghị định được ban hành nhằm thực hiện
21
chủ trương này. Các văn kiện pháp lý này đã mở ra một giai đoạn mới của cổ phần
hóa- giai đoạn tiến hành ồ ạt.
Khi có pháp luật điều chỉnh thống nhất, dễ hiểu, sẽ khiến việc thực hiện của các
DNNN trở nên dễ dàng hơn, hiệu quả đem lại cao hơn.
Nhân tố thứ hai đến từ bản thân các Doanh nghiệp thực hiện: đây là các chủ thể
thực hiện sự thay đổi nên cũng là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của
quá trình cổ phần hoá. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước cũng là yếu tố
ảnh hưởng lớn đến tốc độ cổ phần hóa. Trong giai đoạn vừa qua, doanh nghiệp cổ
phần hóa không còn tạo được sức hút cao với các nhà đầu tư. Ngoài lý do hạn chế về
khả năng tài chính, nhiều nhà đầu tư không nhận thấy cơ hội sinh lời rõ ràng từ doanh
nghiệp cổ phần hóa. Vì vậy hoạt động của doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa chính là
yếu tố quyết định mức độ đầu tư của các doanh nghiệp.
Thị trường chứng khoán cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến
tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước.
Hình thái công ty cổ phần ra đời đánh dấu sự tiến hoá của chế độ tín dụng từ kinh
doanh chủ yếu dựa vào vay mượn qua ngân hàng hoặc chung vốn sang huy động vốn
trên thị trường tài chính trong đó chủ yếu là thị trường chứng khoán giảm bớt rủi ro
cho các chủ sở hữu công ty. Các công ty cổ phần là nguồn cung cấp sản phẩm cho thị
trường chứng khoán. Đổi lại, sự phát triển của thị trường này tạo điều kiện cho các
công ty cổ phần mở rộng vốn. Có thể nói công ty cổ phần ra đời mang những đặc điểm
mới cho phép nó thích ứng với những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế thị trường hiện
đại mà những hình thái khác không thể đáp ứng được. Vì vậy thị trường chứng khoán
là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến tốc độ cổ phần hóa của DNNN.
2.2 Thực trạng các quy phạm pháp luật điểu chỉnh về cổ phần hoá doanh nghiệp

nhà nước
Để đẩy mạnh tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước các cấp, các ngành đã vào
cuộc triển khai một cách quyết liệt, trong đó công tác hoàn thiện hành lang pháp lý đã
được quan tâm hàng đầu. Nhiều nghị định, quyết định quan trọng đã được ban hành
nhằm phục vụ cho công tác sắp xếp đổi mới DNNN như: Tiêu chí danh mục phân loại
DNNN, quy định về tập đoàn kinh tế nhà nước và tổng công ty nhà nước, giám sát,
kiểm tra, thanh tra đối với DNNN trong việc chấp hành pháp luật và tuân thủ các quyết
định của chủ sở hữu, quy chế công bố thông tin cổ phần hóa DNNN… Năm 2011,
Chính phủ ban hành Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 về chuyển doanh
nghiệp (DN) 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần. Mới đây nhất là Quyết định
51/2014/QĐ-TTg về một số giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại
doanh nghiệp và hướng dẫn thực hiện.
22
Nghị định số 59/2011/NĐ-CP với những quy định mới nhằm thực hiện chủ trương
của Đảng về tiếp tục hoàn thiện cơ chế cổ phần hóa gắn với thị trường, ngăn ngừa thất
thoát tài sản nhà nước, nâng cao tính công khai, minh bạch, tăng cường sự giám sát
của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với công tác cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà
nước.
Thông tư số 202/2011/ TT-BTC ngày 30/12/2011 cũng được ban hành hướng dẫn
về xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hóa và Thông
tư số 196/2011/TT-BTC ngày 26/12/2011 hướng dẫn bán cổ phần lần đầu và quản lý,
sử dụng tiền thu từ cổ phần hóa của các DN 100% vốn nhà nước thực hiện chuyển đổi
thành công ty cổ phần.
Với những hành lang pháp lý được hoàn thiện theo yêu cầu thực tiễn cùng sự vào cuộc
mạnh mẽ của các cấp, các ngành, tái cơ cấu DNNN bước đầu đã mang lại nhiều kết
quả khả quan. Các quy định này đều hướng tới việc thực hiện thành công chủ trương
cổ phần hóa, mang lại nhiều hiệu quả cho doanh nghiệp, người lao động, nhà nước…
Tuy nhiên, cùng với những nguyên nhân khách quan từ thị trường, bản thân cơ chế,
chính sách và tổ chức thực hiện pháp luật về cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước còn
nhiều bất cập. Việc xác định giá trị doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn, nhất là giá trị

thương hiệu, giá trị lợi thế, quyền thuê đất. Việc lựa chọn nhà đầu tư chiến lược còn
nhiều vướng mắc.
Vướng mắc thứ nhất là quy trình cổ phần hóa còn quy định rườm rà phức tạp, cứng
nhắc. Quy định về thoái vốn đầu tư ngoài ngành chưa bao quát được thực tiễn đa dạng
của các loại vốn cần thoái, mới chỉ điều chỉnh việc thoái vốn dưới hình thức cổ phần,
vốn góp, mà chưa tính đến các hình thức khác như bán tài sản, chuyển nhượng dự án,
chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Vướng mắc thứ hai là vấn đề định giá tài sản doanh nghiệp. Muốn cổ phần hóa doanh
nghiệp thì vấn đề định giá doanh nghiệp là vấn đề rất quan trọng. Hiện nay phương
pháp định giá đang áp dụng trong nhiều năm qua cho thấy có một hạn chế đó là điều
kiện và cơ sở cho việc xác định giá trị doanh nghiệp chưa được thiết lập đầy đủ, đồng
bộ, thiếu một văn bản hướng dẫn và quy định cụ thể việc định giá cho các loại tài sản
trong doanh nghiệp đặc biệt là giá trị quyền sử dụng đất và lợi thế kinh doanh.
Trên thị trường chứng khoán hiện nay đôi lúc xảy ra trường hợp có những doanh
nghiệp tiềm lực kinh tế cỡ trung bình, nhưng khi cổ phần hóa thì chỉ số cổ phiếu tăng
nhiều lần so với giá trị thực. Những doanh nghiệp này thường thuê đất, trả tiền thuế
đất hàng năm nhưng khi niêm yết giá trị tài sản của mình lên sàn giao dịch chứng
khoán lại liệt kê cả giá trị quyền sử dụng đất. Nếu có sự lẫn lộn giữa giá trị quyền sử
dụng đất và giá trị tài sản của doanh nghiệp gắn liền với đất sẽ dẫn đến bất lợi là xuất
23
hiện tranh chấp, chuyển nhượng, mua gom, khống chế cổ phần, thâu tóm và kiểm soát
công ty sau cổ phần hóa vì giá trị đất.
Ngược lại, lại có tình trạng không tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh
nghiệp khi cổ phần hóa bằng cách duy trì các hợp đồng thuê đất lâu dài sẵn có. Khi đã
cổ phần hóa, giá trị sử dụng đất có thể trở thành giá trị siêu lợi nhuận trong kinh doanh
vốn của doanh nghiệp. Không tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp
khi cổ phần hóa tức là Nhà nước đã từ bỏ quyền được nhận phần “địa tô chênh lệch”
phát sinh từ quyền sử dụng đất. Tất yếu, phần ”địa tô” ấy sẽ rơi vào túi những nhà
quản lý, điều hành doanh nghiệp sau cổ phần hóa;
Quy định về phương pháp định giá còn nghèo nàn chưa hợp lý cũng là vấn đề tồn tại

hiện nay: Ở các nước trên thế giới thì việc định giá doanh nghiệp hoặc loại tài sản
trong doanh nghiệp(bất động sản, máy móc thiết bị phương tiện vận tải) đều có thể áp
dụng các phương pháp khác nhau để xác định và kiểm tra nhằm đảm bảo tính chính
xác của việc đánh giá. Thậm chí còn có cả phương pháp đấu giá qua thị trường chứng
khoán. Còn ở Việt Nam công tác định giá doanh nghiệp do chưa có quy định thống
nhất nên còn bị phụ thuộc nhiều vào người mua(từ công tác chuẩn bị như: kiểm kê, đối
chiếu công nợ… đến việc thống nhất về giá bán doanh nghiệp) lại mang tính chất
khoán trắng, thiếu sự kiểm tra kiểm soát nên đã dấn đến hiện tượng giá trị doanh
nghiệp được định chưa sát với thị trường, chỉ bán trong nội bộ doanh nghiệp chứ
không bán ra bên ngoài…
Vướng mắc tiếp theo đó là chưa có quy định về tiếp cận tín dụngcho doanh nghiệp
sau khi cổ phần hóa: khi DNNN được cổ phần hóa và chuyển sang hoạt động dưới
hình thức công ty cổ phần thì không được coi là thành phần kinh tế nhà nước. Điều đó,
dẫn đến hậu quả bất đắc dĩ là các ngân hàng thương mại nhìn doanh nghiệp cổ phần
hóa với sự e dè, ngờ vực khi các doanh nghiệp này tiến hành vay vốn. Trong lĩnh vực
đấu thầu, xuất – nhập khẩu doanh nghiệp cổ phần hóa không còn những lợi thế như
trước.
Ngoài ra, khi còn là DNNN, doanh nghiệp sẽ được bổ sung vốn qua kênh đầu tư cơ
bản hoặc bổ sung vốn lưu động, xóa nợ hoặc được bảo lãnh nợ, ít bị nguy cơ tuyên bố
phá sản. Các DNNN còn được ưu tiên nhận những dự án đầu tư, ưu tiên cấp hạn ngạch
trong xuất – nhập khẩu, ưu tiên được liên doanh với các đối tác nước ngoài. Tất cả
những ưu thế đó sẽ bị mất đi sau cổ phần hóa, khiến nhiều DNNN cố tình trì hoãn cổ
phần hóa, mặc dù đang thua lỗ hoặc bên bờ vực phá sản. Vì vậy pháp luật cần quy
định cụ thể về việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp cổ phần hóa có thể tiếp cận tín
dụng để họ chủ động, tích cực trong việc tiến hành cổ phần hóa.
24
Tiếp theo là việc thiếu quy định trong vấn đề lao động dôi dư và vấn đề bán cổ
phần: sau cổ phần hóa, các DNNN còn phải đối mặt với một vấn đề lớn là kế thừa một
lực lượng lao động dôi dư đáng kể từ doanh nghiệp cũ chuyển sang có trình độ thấp,
lao động đã quen với kiểu sản xuất thụ động, không làm theo năng suất. Vì vậy lượng

lao động này là lực cản không nhỏ với sự phát triển của doanh nghiệp sau cổ phần hóa,
làm tăng thêm những khoản chi như đào tạo lại cho người có trình độ thấp mà nếu
không có nó, doanh nghiệp có thể đầu tư mở rộng sản xuất hoặc tăng lương cho những
người có chuyên môn cao để từ đó khuyến khích họ tích cực lao động và cống hiến
nhiều hơn cho sự phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên hiện nay pháp luật lại chưa
có những quy định cụ thể về vấn đề lao động bị thừa khi cổ phần hóa, hoặc chỉ quy
định một cách cơ bản mà không chi tiết dẫn đến việc doanh nghiệp cổ phần hóa rất
khó thực hiện.
Thêm vào đó là việc chỉ phát hành một loại cổ phần, chưa phát hành loại cổ phần ưu
đãi là chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của các nhà đầu tư, nhất là trong bối cảnh
thị trường chứng khoán suy giảm, ảnh hưởng đáng kể đến tốc độ cổ phần hóa.
Người lao động là đối tượng dễ bị ảnh hưởng nhất khi công ty có sự thay đổi đặc biệt
là trong việc cơ cấu lại công ty vì vậy nhà nước đã quy định nhiều chính sách ưu đãi
cho người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa. Một trong những ưu đãi đó chính
là việc mua cổ phần khi công ty tiến hành cổ phần hóa với giá ưu đãi và mức độ ưu đãi
lại phụ thuộc vào mức độ gắn bó của người lao động. Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện, vẫn không tránh khỏi những vướng mắc. Một bộ phận người lao động thường
bán lại quyền mua cổ phần ưu đãi cho các đối tượng đầu tư khác ở trong hoặc ngoài
doanh nghiệp để hưởng chênh lệch khiến cho mục tiêu gắn bó người lao động với
doanh nghiệp không đạt được kết quả như mong đợi. Bên cạnh đó, việc xác định giá
ưu đãi bằng 60% mức đấu giá bình quân trên sàn giao dịch để bán cổ phiếu cho người
lao động là chưa thật sự hợp lý. Thực tế, khi thị trường chứng khoán sụt giảm đã tác
động nghiêm trọng đến thu nhập của người lao động, nhất là đối với người lao động
phải đi vay ngân hàng để mua cổ phiếu.
Các quy định về đổi mới công nghệ: kết quả khảo sát về đổi mới công nghệ tại các
doanh nghiệp do Chương trình phát triển Liên hiệp quốc UNDP và Viện Nghiên cứu
Quản lý Kinh tế Trung ương Bộ Kế hoạch – Đầu tư phối hợp tiến hành tại Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đang sử
dụng dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị đồng bộ thuộc thế hệ những năm 80 của
thế kỷ 20; có tới 69% doanh nghiệp phụ thuộc vào nguyên liệu, vật liệu, 53% doanh

nghiệp phụ thuộc vào thiết bị công nghệ nhập khẩu. Chỉ có khoảng 8% số doanh
nghiệp đạt trình độ công nghệ tiên tiến. Mức độ đầu tư cho khoa học công nghệ rất
25

×