MỤC LỤC
NỘI DUNG TRANG
Lời cam đoan…………………………………………………… 1
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt ………… …………… 2
Mục lục …………………………………………………………… 3
Mở đầu……………………………………………………………… 6
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài ………….………
-
2. Tình hình nghiên cứu đề tài……………………………….
7
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu………………………….
9
4. Phương pháp nghiên cứu………………………………….
10
5. Những đóng góp mới của Luận văn………………………
-
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn………………… 11
7. Kết cấu của luận văn………………………………………
-
Chương I: Khái quát chung về pháp luật nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài ở Việt Nam ….…………………………………….
13
3.1. Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài …………
-
3.1.1. Khái quát về nuôi con nuôi ……………………………
-
3.1.2. Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài……………
17
3.1.3. Vai trò của pháp luật về nuôi con nuôi ……………………
19
3.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật điều chỉnh quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam …………
20
1
3.2.1. Giai đoạn trước thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
21
3.2.2. Giai đoạn đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế… ………….
26
Kết luận chương I 40
Chương II: Nội dung của pháp luật hiện hành điều chỉnh quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam – So sánh với
pháp luật một số nước trên thế giới
41
2.1. Nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi…………… ………
-
2.1.1. Nguyên tắc “Khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn
trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc”
43
2.1.2. Việc nuôi con nuôi phải được thực hiện trên tinh thần tự
nguyện của các bên liên quan, không được có một sự phân biệt đối
xử nào dù là về giới tính.
46
2.1.3. Nguyên tắc “Chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi
không thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước”
47
2.2. Điều kiện nuôi con nuôi…………………………………
51
2.2.1. Điều kiện đối với người nhận nuôi ………………………
-
2.2.2. Điều kiện đối với con nuôi ………………………………
56
2.2.3. Điều kiện về ý chí ………………………………………
59
2.3. Hệ quả pháp lí của nuôi con nuôi và chấm dứt việc nuôi con
nuôi………………………………………………………………….
63
2.3.1. Hệ quả pháp lí của nuôi con nuôi …………………………
-
2.3.2. Chấm dứt việc nuôi con nuôi ……………………………
72
2.4. Thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài .……………………………………………………………….
74
2.5. Trình tự, thủ tục đăng ký nuôi con nuôi …………………
79
2
2.6. Nhận xét, đánh giá quy định của pháp luật điều chỉnh quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam với pháp luật
một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam………………
87
Kết luận chương II……………………….…………………………. 93
Chương III: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt
Nam điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
trong giai đoạn hiện nay ………………………………………
94
3.1. Thực trạng giải quyết quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài ở Việt Nam………………………………………………….
-
3.1.1 Những ưu điểm -
3.1.2 Bất cập, tồn tại……… …………………………………… 98
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài tại Việt Nam.…………………………………………
113
3.2.1 Hoàn thiện cơ sở pháp lý…………………………………. -
3.2.2 Hoàn thiện, đổi mới hoạt động của các cơ quan có thẩm
quyền giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài……………
114
3.2.3 Một số giải pháp khác 116
Kết luận chương III 118
Kết luận chung …………………………………………… 119
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………… 121
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nuôi con nuôi là một quan hệ xã hội đặc biệt đã xuất hiện từ lâu
ở nhiều nước trên thế giới. Vấn đề này chỉ thực sự trở thành mối quan
3
tâm của cộng đồng từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất và được khẳng
định là một trong những quyền dân sự cơ bản của trẻ em trong các
văn kiện pháp lý quan trọng về quyền con người từ sau đại chiến thế
giới lần thứ hai. Những thập niên gần đây, nuôi con nuôi nói chung
và nuôi con nuôi có yêu tố nước ngoài nói riêng ngày càng phát triển
với quy mô rộng lớn và phức tạp hơn.
Kể từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, quan
hệ quốc tế ngày càng được mở rộng, thì các quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài, trong đó có quan hệ nuôi con nuôi ngày
càng thu hút được sự chú ý của xã hội. Trong bối cảnh đó, về mặt
pháp luật có thể thấy trước đây các quy định về nuôi con nuôi nói
chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng được quy
định rải rác ở nhiều văn bản khác nhau như Bộ Luật Dân sự, Luật
Hôn nhân và gia đình, các Nghị định và một số thông tư… nên rất
tản mạn, khó tiếp cận và áp dụng trên thực tế.
Trước tình hình đó, Luật nuôi con nuôi ra đời đã đánh dấu sự
kiện quan trọng của quá trình pháp điển hoá các quy phạm pháp luật
và thực tiễn giải quyết các vấn đề về nuôi con nuôi nói chung và nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng, tạo cơ sở pháp lý thống nhất
và ổn định lâu dài cho công tác quản lý nhà nước về nuôi con nuôi,
đồng thời chấm dứt tình trạng hai mặt bằng pháp lý gần như tách biệt
về nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Trước yêu cầu hội nhập quốc tế, nhất là việc Việt Nam đã tham
gia Công ước Lahay 1993, yêu cầu pháp luật Việt Nam phải hài hoà
với pháp luật nhiều nước trên thế giới và thông lệ quốc tế. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện quy định pháp luật về nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài tại Việt Nam, pháp luật cũng bộc lộ một số hạn chế và
thực tiễn giải quyết quan hệ nuôi con nuôi còn một số vướng mắc. Vì
vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện pháp luật về
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam có so sánh với pháp
luật một số nước trên thế giới trở thành vần đề cấp thiết trong giai
đoạn hiện nay. Từ những yêu cầu khách quan về lý luận và thức tiễn
trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài tại Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật
nước ngoài” làm Luận văn tốt nghiệp Cao học Luật, chuyên ngành
Luật quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở nước ta đã được
nhiều nhà khoa học pháp lí nghiên cứu dưới các góc độ, khía cạnh và
mức độ khác nhau: của Viện Trước và sau khi công bố Pháp lệnh hôn
4
nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, đã có
một số công trình khoa học nghiên cứu về quan hệ nuôi con nuôi
như: Chuyên đề về "Chế định nuôi con nuôi trong pháp luật Việt
Nam và quốc tế" của Viện nghiên cứu khoa học pháp lí - Bộ Tư pháp
năm 1998; bài viết của Nguyễn Công Khanh "Hoàn thiện pháp luật
điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài" đăng
trên tạp chí nghiên cứu lập pháp.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 được Quốc hội khoá X
thông qua ngày 09/06/2000 có hiệu lực từ ngày 01/01/2001 đánh dấu
bước phát triển mới của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài. Sau sự kiện này, nhiều công trình nghiên cứu,
nhiều bài viết mang tính chất bình luận Luật hôn nhân và gia đình đã
góp phần làm phong phú lí luận cơ bản về các quy định của pháp luật
điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi như: Bài viết của thạc sĩ Ngô Thị
Hường "Về chế định nuôi con nuôi trong luật hôn nhân và gia đình
năm 2000" đăng trên Tạp chí luật học số 3/2001; Bài viết của thạc sỹ
Nguyễn Phương Lan “Bản chất pháp lý của việc nuôi con nuôi theo
pháp luật Việt Nam” đăng trên tạp chí Luật học số 3 năm 2004…;
Trong thời gian Việt Nam đang xem xét để gia nhập Công ước
Lahay 1993 có nhiều hội thảo đề cập đến quan hệ nuôi con nuôi như:
Hội thảo của Bộ Tư pháp (10/2003) “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam
hướng tới gia nhập Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác
trong lĩnh vực nuôii con nuôi ” với nhiều báo cáo tham luận đề cập
tới quan hệ nuôi con nuôi; Đề tài nghiên cứu khoa học tháng 10/2005
của Cục con nuôi quốc tế - Bộ Tư pháp “Hoàn thiện pháp luật về
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trước yêu cầu gia nhập Công ước
Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con
nuôi quốc tế”.
Ngoài ra, vấn đề nuôi con nuôi quốc tế còn được đề cập trong
một số công trình nghiên cứu khoa học như: đề tài luận án tiến sỹ
“Pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” của tác
giả Nguyễn Công Khanh; đề tài luận án tiến sỹ “Pháp luật điều chỉnh
quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài” của tác giả Nguyễn Hồng
Bắc…. Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ đề cập một khía cạnh
nhất định của quan hệ nuôi con nuôi mà chưa có một công trình khoa
học nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống về pháp
luật điều chỉnh quan hệ nuôi con có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam có
đối chiếu so sánh với pháp luật của một số nước trên thế giới nhất là
5
trong giai đoạn hiện nay Việt Nam đã là thành viên của Công ước
Lahay năm 1993.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
• Mục đích của việc nghiên cứu đề tài.
- Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về
pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
của Việt Nam.
- Phân tích quy định hiện hành của pháp luật pháp luật
Việt Nam và điều ước quốc tế Việt Nam là thành viên điều chỉnh
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có so sánh với pháp
luật của một số nước trên thế giới, để từ đó tìm ra điểm tương đồng
và điểm khác biệt của pháp luật Việt Nam so với các nước trong
điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Từ việc
nghiên cứu pháp luật của một số nước trên thế giới và trong khu
vực về nuôi con nuôi, luận văn rút ra bài học cho Việt Nam trong
hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
- Đánh giá thực trạng pháp luật và thực thi quy định của
pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài,
từ đó đưa ra giải pháp để hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay - giai đoạn hội nhập và phát triển.
• Phạm vi nghiên cứu
Đây là đề tài tương đối rộng nên luận văn chỉ tập trung phân tích có
đối chiếu so sánh những quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam (pháp luật trong nước Việt
Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên) với pháp luật
một số nước trên thế giới về các vấn đề cơ bản của nuôi con nuôi như:
nguyên tắc, điều kiện nuôi, hệ quả pháp lý, thẩm quyền, trình tự, thủ tục
của việc nuôi con uôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam. Khi so sánh quy
định của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
ở Việt Nam, luận văn cũng chỉ chủ yếu so sánh với pháp luật của những
nước đã là thành viên của Công ước Lahay năm 1993 để từ đó rút ra bài
học, kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp luật về
nuôi con nuôi.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những mục đích đã được xác định ở trên, tác giả dựa
trên cơ sở lí luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, trong đó tác giả đặc biệt
coi trọng các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, phương pháp
hệ thống, so sánh và phương pháp lịch sử. Trong số các phương pháp cụ
6
thể này, phương pháp so sánh được sử dụng như là phương pháp chủ đạo
để đối chiếu giữa quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành với quy
định trước đây; để đối chiếu quy định của pháp luật Việt Nam với pháp
luật một số nước trên thế giới và khu vực để tìm ra những điểm tương
đồng và những điểm khác biệt của pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực
này.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách hệ thống về pháp luật
điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam. Có
thể coi những điểm sau đây là những đóng góp mới về mặt khoa học của
Luận văn:
- Phân tích một cách có hệ thống lí luận cơ bản về pháp
luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài;
- Phân tích một cách hệ thống và có so sánh những quy
định của pháp luật Việt Nam và các quy định của điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài. Đồng thời, phân tích và so sánh quy định của
pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước trên thế giới và khu
vực để rút ra bài học cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp
luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài;
- Đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay; đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong
lĩnh vực này.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
- Những kết quả nghiên cứu của Luận văn là những bổ
sung vào lí luận về pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế; những đề xuất, kiến nghị trong luận văn có thể đóng góp
một phần nhỏ vào việc hoàn thiện và đổi mới pháp luật điều chỉnh
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam.
- Có thể sử dụng Luận văn làm tài liệu tham khảo cho các
sinh viên chuyên ngành luật, các tài liệu nghiên cứu về vấn đề pháp
luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
- Các nội dung đề xuất, giải pháp trong luận văn cũng có
thể được áp dụng để giải quyết phần nào những bức xúc liên quan
đã và đang đặt ra trong thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
7
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương I: Khái quát chung về
pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam; Chương II:
Nội dung quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam - so sánh với pháp luật
một số nước trên thế giới; Chương III: Thực trạng và giải pháp hoàn
thiện pháp luật Việt nam điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài trong giai đoạn hiện nay
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT NUÔI CON
NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
1.1 Khái niệm về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1.1.1 Khái quát về nuôi con nuôi
1.1.1.1 Nuôi con nuôi với ý nghĩa là một quan hệ xã hội
Nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội được E.A. Weinstein định
nghĩa thì đó là mối quan hệ xã hội mà cá nhân thuộc gia đình này tiếp
nhận sang gia đình mới và được coi như ngang bằng với những liên hệ
ruột thịt và thay thế một phần toàn bộ mối liên hệ đó, dưới góc độ xã hội
đó là mối quan hệ được thiết lập nhằm hình thành quan hệ cha mẹ và con
nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần hoặc lợi ích tinh thần của các bên.
1.1.1.2 Nuôi con nuôi với ý nghĩa là một sự kiện pháp lý
Dưới góc độ pháp lý: cũng chưa có khái niệm hoàn chỉnh (kể cả trong
Công ước Lahay 1993). Bản chất pháp lý nuôi con nuôi khác nhau, theo
Thụy Điển, Pháp, Đức… thể hiện ý chí đơn phương, Trung Quốc, Hàn
Quốc … là một hợp đồng song vụ, tại Việt Nam chưa thể hiện thực sự rõ
nét, không thể là một hợp đồng song phải có sự đồng ý
8
1.1.1.3 Nuôi con nuôi với ý nghĩa là một quan hệ pháp luật
Quan hệ nuôi con nuôi có thể được hiểu theo nghĩa là,
- Một quan hệ pháp luật: nuôi con nuôi có các yếu tố chủ thể, khách thể
và nội dung
- Hoặc là, nhóm các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi: là
các loại quan hệ pháp luật khác nhau, như quan hệ pháp luật hành chính
trong đăng kí việc nuôi con nuôi; quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình
trong việc điều chỉnh quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và con
nuôi; quan hệ pháp luật tố tụng trong giải quyết chấm dứt việc nuôi con
nuôi…
1.1.1.4 Nuôi con nuôi với ý nghĩa là một chế định pháp lý
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định , chứ không phải ý chí đơn
phương của các chủ thể
1.1.2 Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Theo Luật nuôi con nuôi 2010: Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là
việc nuôi con nuôi được thực hiện giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau cùng thường trú tại Việt
Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định
cư ở nước ngoài.
1.1.3 Vai trò của pháp luật về nuôi con nuôi
Xác lập, điều chỉnh quan hệ gia đình được hình thành từ việc nuôi con
nuôi:
- Pháp luật điều chỉnh để định hướng, tạo khung pháp lý cơ bản cho
việc nuôi con nuôi.
- Mục đích của việc nuôi con nuôi trong thực tế rất đa dạng.
- Pháp luật nuôi con nuôi xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong
quan hệ nuôi con nuôi.
- Giải quyết tốt tình trạng trẻ không có đủ điều kiện tốt trong gia đình
- Là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền bảo vệ được trẻ em được nhận
nuôi, cũng như giải quyết các tranh chấp phát sinh có liên quan tới nuôi
con nuôi
1.2 Sự hình thành và phát triển của pháp luật điều chỉnh quan hệ
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam
1.2.1 Giai đoạn trước thời kì đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.1.1 Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám 1945
- Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức) và Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật
Gia Long): có quy định về nuôi con nuôi nhưng vẫng mang hạn chế của
phong kiến là bất bình đẳng con nuôi và con đẻ
- Bộ Dân luật Bắc Kì, Hoàng Việt Trung Kì (thời Pháp thuộc) có mô
hình phương Tây song vẫn nặng tư tưởng phong kiến
9
1.2.1.2 Giai đoạn từ 1945 – 1986
Quy định chưa thực sự rõ nét giai đoạn này có một số đặc điểm:
- Từ 1945 – 1959 : Quy định còn đơn giản, không có hệ thống, chưa
điều chỉnh đầy đủ, xóa bỏ được quy định lạc hậu của thời kỳ trước.
- Từ 1959 – 1986: đã điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài:
Chính phủ ban hành Nghị định số 04
(6/1/1961) kèm theo Điều lệ về đăng ký hộ tịch: có một số ít trường
hợp người nước ngoài nhận nuôi trẻ Việt Nam đã được giải quyết
nhưng gặp khó khăn trong thực hiện. Ký kết Hiệp định tương trợ tư
pháp với: Đức (1980), Liên Xô (1981), Tiệp Khắc (1982), Cu Ba
(1984), Hungari (1985), Bungari (1986).
Việt Nam quan hệ với nhiều nước ngoài
Xã hội chủ nghĩa nên quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
cũng dần trở nên phức tạp hơn.
1.2.2 Giai đoạn đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.2.1 Giai đoạn từ 1986 – 2000
- Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam ngày 29/12/1986 quy định về
quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài tại chương IX nhưng vẫn chung chung.
- Từ 1986 – 1992: Quốc hội thông qua Luật quốc tịch (1986) – Điều 14
quốc tịch của trẻ; Pháp lệnh lãnh sự (1990); Hội đồng bộ trưởng đã ban
hành Quyết định số 145/HĐBT (29/4/1992); Thông tư liên bộ số
01/TTLB hướng dẫn thi hành Quyết định 145/HĐBT (19/1/1993), hạn
chế của Quyết định 145:
Đối tượng trẻ được nhận nuôi chỉ trong
các cơ sở nuôi dưỡng của ngành lao động - thương binh - xã hội.
Chưa quy định cụ thể về cơ quan quản lí
việc cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài.
Lệ phí chưa rõ ràng và chưa có cơ quan
quản lý chặt chẽ …
- Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người
nước ngoài (2/12/1993) và Nghị định số 184/CP thi hành pháp lệnh
(30/11/1994); Thông tư số 503/T (TLB hướng dẫn chi tiết thi hành Nghị
định số 184/CP (25/5/1995); Thông tư số 337/TT-PLQT hướng dẫn thi
hành một số quy định của Thông tư số 503 (23/8/1995): giải quyết xung
đột về thẩm quyền song chưa thiếu khảo sát khi xây dựng Nghị định, tính
dự liệu chưa cao, bị buông lỏng quản lý trong quá trình thực hiện, chưa
quy định hoạt động các tổ chức phi chính phủ, chưa được quy định quan
10
hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt
Nam.
Giai đoạn này quy định về vấn đề nuôi con nuôi khá đồng bộ, có cơ
chế phối hợp, các Hiệp định tương trợ tư pháp có phạm vi điều chỉnh
không giống nhau.
1.2.2.2 Giai đoạn từ năm 2000 đến 2010
- Luật Hôn nhân và gia đình 2000 – Chương XI đã có: phạm vi điều
chỉnh rộng, xác định rõ nguyên tắc, cách giải quyết xung đột pháp luật và
thẩm quyền, quy định riêng về vùng biên giới, thẩm quyền giải quyết về
vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
- Nghị định 68/2002/NĐ-CP (10/07/2002), thông tư số 07/2002/TT-
BTP hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP
(16/12/2002): thay đổi căn bản nguyên tắc, trình tự, thủ tục giải quyết cho
người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, đối tượng trẻ cho
làm con nuôi … Nghị định 69/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định 68/2002/NĐ-CP (3/7/2006): mở rộng đối tượng được xin
trẻ cũng như đối tượng trẻ được cho làm con nuôi; hồ sơ người xin nhận
con nuôi và hồ sơ trẻ em được cho làm con nuôi; Thông tư số
08/2006/TT-BTP; Quyết định số 337/2003/QĐ-BTP; Nghị định số
93/2008/NĐ-CP; Quyết định số 2778/2008/QĐ-BTP;
- Hiệp định song phương với Cộng hoà Pháp (1/2/2000) được xây dựng
trên Công ước Lahay năm 1993: quy định về việc giải quyết hồ sơ xin
nhận con nuôi thông qua cơ quan trung ương về nuôi con nuôi và có sự
tham gia của tổ chức con nuôi, tổ chức con nuôi của Pháp đủ điều kiện
được hoạt động nhân đạo phi lợi nhuận
1.2.2.3 Từ năm 2010 đến nay
- Luật Nuôi con nuôi 2010; Nghị định số 19/2011/NĐ-CP quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi: nhấn
mạnh việc cho trẻ làm con nuôi nước ngoài là yếu tố cuối cùng.
- Việt Nam gia nhập Công ước Lahay 1993 (7/12/2010).
11
CHƯƠNG II: NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH ĐIỀU
CHỈNH QUAN HỆ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
Ở VIỆT NAM - SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI
2.1 Nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi
2.1.1 Khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em
được sống trong môi trường gia đình gốc: tránh xáo trộn văn hóa,
môi trường sống, không bị trục lợi bất chính, ưu tiên cho người
thân có điều kiện tốt nhất nhận nuôi trẻ trước.
2.1.2 Việc nuôi con nuôi phải được thực hiện trên tinh thần tự nguyện
của các bên liên quan, không được có một sự phân biệt đối xử
nào dù là về giới tính: Cha mẹ đẻ, người giám hộ và đặc biệt là
trẻ từ chín tuổi trở lên phải hoàn toàn đồng ý.
2.1.3 Chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi không thể tìm được
gia đình thay thế ở trong nước:
2.2 Điều kiện nuôi con nuôi
2.2.1 Điều kiện đối với người nhận nuôi
12
Tại Điều 14 và Điều 29 của Luật Nuôi con nuôi: hành vi dân sự; chênh
lệch tuổi; điều kiện sinh hoạt, y tế; đạo đức – cơ bản phù hợp với các
nước và Công ước Lahay năm 1993 (tuân thủ theo pháp luật của nước
tiếp nhận).
- Luật áp dụng: điều 22 Luật tư pháp – Đức; Khoản 2 Điều 97 Bộ luật
gia đình – Bungari quy định áp dụng luật nước tiếp nhận, Nga quy định
khác biệt nếu việc nuôi con nuôi trên lãnh thổ Nga thì áp dụng luật Nga,
ngoài lãnh thổ Nga nhưng là công dân Nga cũng áp dụng luật Nga.
- Độ tuổi người nhận nuôi: hầu hết các nước đều quy định, tuổi tối thiểu
khác nhau: Hàn quốc: người thành niên; Trung Quốc: từ 30 tuổi trở lên;
Thuỵ Điển, Elsalvado, Phần Lan: từ 25 tuổi trở lên; Pháp: 30 tuổi.
Quy định về độ chênh lệch tuổi giữa người nhận nuôi và con nuôi:
Pháp: 15 tuổi; Esalvado: 5 tuổi nhằm đảm bảo có đủ khả năng về tài
chính, có đủ kinh nghiệm về tâm lí, xã hội thực hiện chính sách kế
hoạch hóa gia đình (Trung Quốc).
Quy định thời gian kết hôn: Pháp, Thuỵ Sĩ, Elsalvađo: 5 năm; Bờ Biển
Ngà: 10 năm hướng tới sự ổn định của gia đình.
Một số quy định khác: Điều 6 Luật nuôi con nuôi của Trung Quốc; Điều
268a BLDS Thuỵ Sĩ; Điều 3 Luật về nhận con nuôi trong các trường hợp
đặc biệt của Hàn Quốc; Thuỵ Sĩ; Gahna.
2.2.2 Điều kiện đối với con nuôi
Tại Điều 8 Luật nuôi con nuôi: độ tuổi được cho làm con nuôi
- So với Công ước Lahay 1993, độ tuổi là: 18 tuổi, Việt Nam thấp hơn:
dưới 16 tuổi (Công ước nhấn mạnh tính xác định chứ không có ý tạo lập
độ tuổi, nếu dưới 15 tuổi thì áp dụng luật nước gốc).
- Điều kiện của trẻ em: do cơ quan có thẩm quyền nước gốc quy định và
xác nhận (Điều 5 – Công ước Lahay và Hiệp định hợp tác giữa Việt Nam
với các nước): đủ điều kiện, thích hợp, được cơ quan có thẩm quyền đồng
ý trên cơ sở đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ.
- Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi trọn vẹn: Điều 345
Bộ luật dân sự Cộng Hòa Pháp: 15 tuổi, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn,
Italia: dưới 18 tuổi (được tòa án vị thành niên tuyên bố là bị từ bỏ); Tây
Ban Nha: dưới 14 tuổi (trẻ bị bỏ mặc hoặc suy đoán là bị bỏ mặc)
- Điều kiện nhận làm con nuôi đơn giản: Theo Pháp: không bị quy định
ngặt nghèo của pháp luật trừ trường hợp nước tiếp nhận yêu cầu: Đức từ
18 tuổi trở lên; Tây Ban Nha từ 14 tuổi trở lên; Điều 4 Luật Nuôi con
nuôi Trung Quốc: dưới 14 tuổi và đáp ứng một số yêu cầu.
2.2.3 Điều kiện về ý chí
13
Tại Điều 21 Luật nuôi con nuôi 2010: thể hiện ý chí người nhận nuôi
con nuôi (thông qua đơn); cha mẹ đẻ hoặc của người giám hộ (mong
muốn, hệ quả pháp lý kèm theo; người được nhận làm con nuôi (là hành
vi pháp lý đơn phương không phụ thuộc vào ý chí của cha mẹ đẻ và
người giám hộ), Nhà nước (lấy ý kiến các bên liên quan đưa ra quyết định
đồng ý hoặc không đồng ý việc cho nhận đó).
Nguyện vọng của người con nuôi: Trung Quốc: 10 tuổi trở lên; Liên
Bang Đức, Tây Ban Nha: 14 tuổi; Cộng hoà Pháp: 13 tuổi …
2.3 Hệ quả pháp lí của nuôi con nuôi và chấm dứt việc nuôi con
nuôi.
2.3.1 Hệ quả pháp lí của nuôi con nuôi
Tại Điều 24 Luật nuôi con nuôi: Trẻ được nhận nuôi chỉ có mối
quan hệ giữa đứa trẻ và cha mẹ nuôi cũng như thành viên khác của cha
mẹ nuôi, cha mẹ đẻ chấm dứt mọi quyền và nghĩa vụ (trừ định đoạt tài
sản riêng đói với con đã cho làm con nuôi có thỏa thuận khác giữa cha
mẹ đẻ và nuôi), Điều 22 Luật nuôi con nuôi của Trung Quốc, Điều 1755
BLDS Đức, Điều 229 BLDS Hà Lan cũng quy định như vậy. Quốc tịch
của trẻ pháp luật Việt Nam vẫn cho giữ, như vậy chưa tương đồng với
các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên:
- Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi: theo pháp luật nước tiếp nhận, trong
trường hợp trẻ đủ điều kiện nhận quốc tịch cả hai nước thì trẻ được lựa
chọn quốc tịch khi đạt độ tuổi pháp luật quy định.
- Theo Công ước Lahay 1993: Điều 26 về hình thức con nuôi trọn vẹn
quy định sẽ chấm dứt mối quan hệ với cha mẹ đẻ (bao gồm cả quốc tịch)
nhưng vì không đảm bảo chắc chắn quyền và lợi ích cho trẻ nên Điều 27
của Công ước (hình thức con nuôi đơn giản) không bắt buộc phải chấm
dứt.
- Điều 19 - Luật nuôi con nuôi của Bờ biển Ngà, việc nuôi con nuôi
không làm chấm dứt quan hệ giữa con nuôi với cha, mẹ đẻ.
- Hệ quả pháp lý ở đa số các nước châu Âu theo hình thức:
Trọn vẹn:
+ Hệ quả pháp lý về quyền và nghĩa vụ phi tài sản: được coi là con
hợp pháp Pháp luật Đức, Bồ Đào Nha, Áo và Bỉ có một số quy định
khác.
+ Hệ quả pháp lý về quyền và nghĩa vụ tài sản: kèm theo nghĩa vụ
cấp dưỡng lẫn nhau, thừa kế. Tây Ban Nha cấm con vị thành niên cho
hình thức con nuôi trọn vẹn. Luật nước Áo lại theo chế định nuôi con
nuôi trọn vẹn lai tạp.
Đơn giản:
Về mối quan hệ của con nuôi đơn giản với người xin nhận con nuôi
14
+ Hệ quả pháp lý về quyền và nghĩa vụ phi tài sản:
Tên họ của con nuôi: Pháp và Bỉ quy định được giữ tên họ của
mình sau đó kèm với tên họ người nhận nuôi, Italia quy định: đặt tên
họ người nhận trước tên họ con nuôi, Pháp quy định: đi kèm với tên
con nuoi, trừ khi tòa án quyết định khác. Châu Âu quy định nhận
nuôi đơn giản thì cha mẹ có quyền như cha mẹ đẻ còn Bỉ thì chỉ cho
phép là người giám hộ
Quốc tịch: Không ảnh hưởng gì (Nếu đáp ứng được yêu cầu thì
Pháp sẽ cho nhập quốc tịch).
+ Hệ quả pháp lý về quyền và nghĩa vụ tài sản: quan hệ nuôi dưỡng
qua lại, vấn đề thừa kế theo di chúc thì Châu Âu quy định:
Quyền thừa kế của con nuôi đơn giản: Ở Đức, Pháp , Bỉ, Italia: con
nuôi có quyền thừa kế bắt buộc nhưng không áp dụng với thành viên
khác (trừ Pháp: thừa kế của ông bà, nhưng tùy vào chủ ý của người
đó). Tây Ban Nha: không thừa kế thế vị của người xin nhận con nuôi.
Quyền thừa kế của người xin nhận con nuôi với con nuôi đơn giản:
Italia không được hưởng theo di chúc trên tài sản của con nuôi. Pháp,
Đức và Bỉ nếu con nuôi chết không người hưởng thì cha mẹ đẻ và
cha mẹ nuôi mỗi bên hưởng một nửa.
Về mối quan hệ của con nuôi đơn giản với gia đình gốc: nuôi
dưỡng bố mẹ chỉ mang tính chất bổ trợ.
Thừa kế: Ở Pháp, Bỉ, Đức: con nuôi vẫn giữ quyền thừa kế trong
gia đình gốc. Ở Italia, quyền thừa kế chỉ hướng tới gia đình huyết
thống. Ở Bồ Đào Nha, người xin nhận con nuôi không có quyền thừa
kế (trừ một vài trường hợp).
2.3.2 Chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Tại Điều 25, khoản 1 Điều 27 Luật nuôi con nuôi có điểm khác so
với một số nước, tại đó quy định cơ quan ra quyết định nhận nuôi con
nuôi cũng là cơ quan ký quyết định hủy bỏ, nếu có đơn yêu cầu của
đương sự hoặc người có liên quan với lý do được luật quy định (trừ
trường hợp đặc biệt)
Nuôi con nuôi trọn vẹn không thể chấm dứt như ở Cộng hòa Pháp
mối quan hệ đó vẫn còn ngay cả khi cha mẹ nuôi chết, trong 6 tháng
không cho phép cha mẹ đẻ thừa nhận con (trừ một số trường hợp) …;
Italia: Không chấp nhận các lý do chấm dứt với con nuôi trọn vẹn là trẻ
em bị bỏ rơi, Tây Ban Nha kể cả xác định được quan hệ huyết thống
nguyên tắc cũng không thể chấm dứt việc nuôi con nuôi.
2.4 Thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
15
- Bộ Tư pháp:
- Cục nuôi con nuôi
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
- Sở Tư pháp
- Cơ sở nuôi dưỡng
So với các nước:
- Cộng hòa Pháp, Italia, Tây Ban Nha thì cơ quan có thẩm quyền cao
nhất là cơ quan con nuôi trung ương
- Trung Quốc, Malaysia, Hàn Quốc, nếu là nhà nước đơn nhất thông
thường cơ quan có thẩm quyền giải là một cơ quan cấp Bộ quản lý cấp
trung ương, ở địa phương do cơ quan đang đăng ký hộ tịch hoặc Tòa án
công nhận, sau đó cơ quan hộ tịch đăng ký vào sổ.
2.5 Trình tự, thủ tục đăng kí nuôi con nuôi
- Nộp, tiếp nhận và thẩm định hồ sơ của người xin nhận con nuôi.
- Chuyển hồ sơ của người xin nhận con nuôi cho Sở Tư pháp để giới
thiệu trẻ.
- Sở Tư pháp giới thiệu trẻ làm con nuôi.
- Sở Tư pháp báo cáo kết quả giới thiệu trẻ em cho Cục Con nuôi, kèm
theo hồ sơ của con nuôi để Cục con nuôi thẩm định kết quả.
- Cục Con nuôi lấy ý kiến của người nhận con nuôi và cơ quan có thẩm
quyền của nước ngoài về trẻ được giới thiệu làm con nuôi.
- Quyết định cho trẻ làm con nuôi và tổ chức giao nhận con nuôi
Quy trình cơ bản tương đồng với Công ước Lahay 1993, tuy nhiên pháp
luật Việt Nam chưa có đầy đủ các quy định cần thiết bảo đảm đúng yêu
cầu về trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi theo chuẩn mực
Công ước như: chưa có quy định đảm bảo đầy đủ quyền quyết định của
Cục Con nuôi với tư cách là cơ quan trung ương về nuôi con nuôi quốc
tế.
2.6 Nhận xét, đánh giá quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam với pháp luật
một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam
- Về nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi: đều trên cơ sở bảo đảm quyền
lợi tốt nhất cho trẻ.
- Về điều kiện nuôi con nuôi: điều kiện đối với người nhận nuôi: đa số
theo nước nhận nuôi (trừ một vài trường hợp), Việt Nam quy định độ
chênh lệch tuổi giữa người nuôi là con nuôi trong khi các nước quy định
tuổi tối thiểu. Điều kiện đối với con nuôi: dưới tuổi trưởng thành, độ tuổi
các nước khác nhau. Điều kiện ý chí: phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ
của người được nhận làm con nuôi hoặc phải được sự đồng ý của người
16
giám hộ và sự đồng ý của đứa trẻ được nhận làm con nuôi (khác nhau về
độ tuổi trẻ đồng ý).
- Về hệ quả pháp lý của nuôi con nuôi: Việt Nam kết hợp giữa nuôi trọn
vẹn và đơn giản, một số nước xác định theo hình thức con nuôi, một số
nước quy định con nuôi và cha mẹ đẻ vẫn có ràng buộc về cấp dưỡng,
thừa kế.
- Thẩm quyền giải quyết nuôi con nuôi: có nhiều quy định khác nhau
dựa vào việc tham gia Công ước Lahay hoặc hình thức nhà nước.
Rút ra nhận xét:
- Việt Nam phải quy định rõ về nuôi con nuôi trọn vẹn.
- Tập trung thẩm quyền quyết định cho làm con nuôi được trao cho cơ
quan trung ương
- Xem xét lại việc cho nhận trẻ từ cơ sở nhân đạo tránh hiện tượng trục
lợi, cạnh tranh.
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ NUÔI CON
NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY
3.1 Thực trạng giải quyết quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài ở Việt Nam
3.1.1 Những ưu điểm
- Các văn bản pháp luật về nuôi con nuôi ở Việt Nam đã đảm bảo sự
gắn kết giữa nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài.
- Các văn bản pháp luật về nuôi con nuôi đã phát huy hiệu lực, phản ánh
đúng bức tranh toàn cảnh nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt
Nam.
Thực tiễn thi hành pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã:
tìm được mái ấm gia đình thay thế cho nhiều trẻ em có hoàn cảnh khó
17
khăn ( từ 2003 – tháng 6/2008: 5.809 trường hợp; năm 2009: 1.061
trường hợp; 7 tháng đầu 2010 có 674 trường hợp); cải thiện đời sống của
trẻ em tại nhiều cơ sở nuôi dưỡng (1.000.000 đồng / tháng / trẻ - gấp 3
lần hỗ trợ của Nhà nước; từ năm 2005-2007, tổng số tiền các Văn phòng
hỗ trợ cho 80 cơ sở nuôi dưỡng là 6.298.089 USD); cải tiến hơn trình tự,
thủ tục giải quyết việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài khắc phục
tình trạng tiêu cực, thỏa thuận ngầm.
3.1.2 Những tồn tại, bất cập trong việc giải quyết nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài
3.1.2.1 Về các cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi:
Tồn tại “thực quyền” tại cơ sở nuôi dưỡng hoặc cơ quan chủ quản
do:
- Nhu cầu người nước ngoài xin con nuôi lớn;
- Việt Nam không quy định cơ quan nào có quyền ghép trẻ;
- Có hiện tượng gom trẻ cho các văn phòng quan tâm đến cơ sở nuôi
dưỡng.
- Có cạnh tranh trong giới thiệu trẻ.
- Thẩm quyền quyết định ghép hồ sơ của người xin nhận con nuôi và trẻ
của Cơ quan trung ương chỉ là mắt xích, chia sẻ nhiều quyền năng cho
chính quyền địa phương.
- Cấp Tỉnh có quá nhiều quyền năng nên dễ thiếu công bằng, minh
bạch, quy hoạch định mức nhận con nuôi của từng nước.
- Cơ quan trung ương kiểm tra, giám sát chỉ mang tính hình thức.
3.1.2.2 Về việc báo cáo về tình hình phát triển của trẻ em được cho làm
con nuôi
80% cha mẹ nuôi đều gửi báo cáo đúng kỳ hạn nhưng đa số mang tính
chất hình thức, việc xử lý báo cáo có một số vấn đề:
- Không có quy định hình thức, nội dung, thông tin cần thiết, bản dịch
nên xử lý còn ở mức độ khiêm tốn.
- Xử lý cha mẹ không nộp báo cáo mang tính hình thức, chiếu lệ.
- Nguồn nhân lực xử lý báo cáo thiếu, cập nhập số liệu thủ công, không
thể thực hiện được việc nghiên cứu sâu.
3.1.2.3 Nhận thức chưa đúng về vấn đề nuôi con nuôi
Nhiều địa phương chạy theo lợi ích vật chất, cha mẹ nghèo đói nên
quyết định cho con mà không xuất phát từ lợi ích và quyền của trẻ em,
cũng như không hiểu về hệ quả pháp lý của nuôi con nuôi
3.1.2.4 Trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài có nhiều vi phạm.
a. Hiện tượng làm sai lệch hồ sơ, nguồn gốc trẻ em
18
i. Về hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi nước
ngoài.
- Giấy khai sinh: Giấy khai sinh giả; thẩm quyền đăng ký
khai sinh, giấy chứng sinh,
- Hồ sơ trẻ em bị bỏ rơi: Hồ sơ không có biên bản trẻ bị bỏ
rơi, không đúng, mâu thuẫn với giấy khai sinh. Khai sinh
cho trẻ bị bỏ rơi: bị gạch, không đúng thủ tục, không ghi
đầy đủ thông số, không đúng ngày trẻ ra đời.
ii. Về hồ sơ của người nhận con nuôi:
- Đơn xin con nuôi, giấy cam kết thông báo sự phát triển
không đúng, bị làm sai lệch …
- Bản sao hộ chiếu không đầy đủ các trang
- Hiện tượng làm sai lệch hồ sơ đương sự, sai lệch nguồn
gốc của tre em, như tại Nam Định, trung tâm Việt Lâm,
Phú Thọ. Hình phạt không đủ sức răn đe nên sai sót giấy
tờ chỉ bị nhắc nhở
b. Sai phạm về nghiệp vụ của cơ quan có thẩm quyền đăng ki nuôi
con nuôi.
- Chưa thực hiện đầy đủ ghi chú vào sổ hộ tịch.
- Thời gian giải quyết lâu không có lý do chính đáng.
- Cán bộ hộ tịch không có Sổ thụ lý hồ sơ.
- Phần tự khai còn bị tẩy, xóa.
- Hồ sơ còn thiếu nhiều loại giấy tờ
- Hồ sơ lưu trữ đều không đánh bút lục, bìa hồ sơ không in đầy đủ các
thông số cần thiết.
- Đối với trẻ em cho làm con nuôi từ các trung tâm
- Sai lệch về biên bản bàn giao, sai diện trẻ làm con nuôi, giấy xác nhận
sức khỏe không đúng, một số giấy tờ trong hồ sơ hết hạn hoặc chưa được
hợp pháp hóa lãnh sự.
- Sai phạm trong việc xét duyệt điều kiện cho và nhận con nuôi.
- Sai phạm trong Giao nhận con nuôi
c. Sai phạm về trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi
- Cấp Tỉnh chậm chễ trong ra quyết định hoặc thời hạn ra quyết định rất
lâu. Chưa phù hợp với Công ước Lahay khi chưa giao cho Bộ quyết định.
- Cung cấp danh sách về số lượng và họ tên của trẻ em, chưa kèm theo
hồ sơ đầy đủ để bảo đảm trẻ em đã có đủ điều kiện để cho làm con nuôi;
kiểm tra hồ sơ trẻ em chỉ mang tính hình thức
d. Còn bất cập về cơ chế tài chính, thiếu minh bạch và nhiều sai
phạm trong việc tiếp nhận và sử dụng các khoản hỗ trợ nhân
đạo của tổ chức, cá nhân nước ngoài
19
- Bất cập về cơ chế tài chính: nguồn tài chính hạn chế, tài chính thu từ
hồ sơ (50.000.000 đồng / 1 hồ sơ trong đó Cục con nuôi giữ lại 5% quản
lý phí, còn 95% chuyển cho Tỉnh) chuyển rất chậm (20 Sở Tư pháp thông
báo cho Cục con nuôi tài khoản để nhận khoản tiền này)
- Vấn đề minh bạch tài chính liên quan đến việc tiếp nhận, quản lý và sử
dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo của tổ chức con nuôi nước ngoài cho cơ
sở nuôi dưỡng là vấn đề khá phức tạp. Cơ sở nuôi dưỡng báo cáo sử dụng
tiền hỗ trợ nahan đạo chưa đầy đủ, chính xác. Công tác quản lý các tổ
chức con nuôi nước ngoài trong việc hỗ trợ nhân đạo cũng còn nhiều hạn
chế.
3.1.2.5 Sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan liên quan đến việc
giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài còn chồng chéo và chưa tốt
Luật nuôi con nuôi quy định chưa hoàn thiện nên thực tế thực thi gặp
nhiều vấn đề:
- Ở địa phương, mối quan hệ giữa các cơ quan Tư pháp, Công an, ủy
ban nhân dân còn lỏng lẻo, thiếu sự hợp tác.
- Ở cấp tỉnh: Mối quan hệ giữa Sở Tư pháp, công an Tỉnh và Sở Lao
động Thương binh và Xã hội chưa tốt (giữa Sở Tư pháp và Công an cấp
Tỉnh; Giữa Sở Tư pháp và Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
- Ở cấp Trung ương, sự hợp tác giữa Bộ Tư pháp, Bộ Lao động -
Thương binh và xã hội còn thiếu chặt chẽ trong việc hoạch định chính
sách về nuôi con nuôi quốc tế, về cơ sở bảo trợ xã hội, về các vấn đề liên
quan đến quản lý tài chính, hỗ trợ nhân đạo.
3.2 Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài tại Việt Nam
3.2.1 Hoàn thiện cơ sở pháp lí
- Về hình thức của nuôi con nuôi
- Về báo cáo định kỳ về sự phát triển của trẻ em: Chế tài xử phạt nặng,
xây dựng cơ sở dữ liệu để kiểm tra, kiểm soát hồ sơ cũng như tạo điều
kiện cập nhật và xử lý báo cáo định kỳ.
3.2.2 Hoàn thiện, đổi mới hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền
giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
- Tăng cường thẩm quyền cho Cục Con nuôi nhằm đáp ứng yêu cầu
Công ước, tập trung quản lý thống nhất lĩnh vực nuôi con nuôi vào đầu
mối (ghép trẻ, củng cố, tăng cường năng lực, biên chế và quyền hạn có
thể đảm nhiệm được trọng trách nặng nề hơn trong điều kiện nước ta
tham gia Công ước Lahay.
20
- Đối với Sở Tư pháp: cần có nhiều cán bộ chuyên trách về nuôi con
nuôi, các cán bộ phải nâng cao năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ, trau dồi
đạo đức để đáp ứng được yêu cầu giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài.
- Đối với Cơ sở nuôi dưỡng, cần tiêu chuẩn hóa các cơ sở nuôi dưỡng
- Đối với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: cần chỉ đạo thường xuyên và quản
lý chặt chẽ việc giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước
ngoài tại địa phương và giao thẩm quyền quyết định việc nuôi con nuôi
cho Bộ Tư pháp.
- Đối với tổ chức con nuôi nước ngoài, pháp luật cần có những quy định
đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức con nuôi nước ngoài.
3.2.3 Một số giải pháp khác
- Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước ở Trung
ương và địa phương để bảo đảm việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi
trong và ngoài nước một cách chặt chẽ, đúng pháp luật.
- Tăng cường công tác quản lý Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt
Nam: chế độ báo cáo, quản lý các khoản hỗ trợ nhân đạo, ….
- Tăng cường công tác thanh tra, kiếm tra nhằm phát hiện, ngăn chặn
kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi.
- Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và nâng cao
nhận thức của cán bộ, nhân dân về vấn đề nuôi con nuôi, về sự cần thiết,
ý nghĩa nhân đạo của việc nuôi con nuôi.
21
KẾT LUẬN CHUNG
Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá, Việt Nam đã và đang ngày
càng hội nhập sâu rộng với cộng đồng khu vực và quốc tế. Quan hệ giao
lưu quốc tế giữa Việt nam và các nước ngày càng cải thiện và phát triển.
Cùng với các quan hệ xã hội khác, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài cũng có những bước tiến quan trọng. Nhìn chung, các văn bản
pháp luật về nuôi con nuôi của Việt Nam thời gian qua đã góp phần quan
trọng điều chỉnh các quan hệ nuôi con nuôi tại Việt Nam, bảo đảm tinh
thần nhân đạo, với mục đích là tìm cho trẻ em không nơi nương tựa một
mái ấm gia đình thay thế, tôn trọng nguyên tắc ưu tiên cho nhận con nuôi
trong nước, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài chỉ là biện pháp cuối
cùng.
Việc Việt Nam gia nhập Công ước Lahay 1993 về bảo vệ trẻ em và
hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế đánh dấu một bước tiến quan
trọng trong việc từng bước hội nhập vào khuôn khổ hợp tác đa phương về
tư pháp quốc tế. Trên thực tế, các quy định pháp luật liên quan đến trẻ em
được cho làm con nuôi, người nhận con nuôi, trình tự, thủ tục và các giấy
tờ liên quan đến hồ sơ nhận nuôi con nuôi, hoạt động của các tổ chức con
nuôi nước ngoài tại Việt Nam đều được thực hiện khá nghiêm túc, chặt
chẽ, nhằm bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích của trẻ, góp phần đưa công
tác quản lý nuôi con nuôi đi vào nền nếp.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình thực
hiện các quy định pháp luật về nuôi con nuôi còn có những hạn chế, bất
cập cần khắc phục. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi nói
chung và pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng để phù
hợp với pháp lụât quốc tế là yêu cầu hiện nay. Để quan hệ nuôi có nuôi
có yếu tố nước ngoài đáp ứng đúng mục đích của nó, một mặt, phải hoàn
thiện pháp luật nuôi con nuôi một cách toàn diện, thống nhất, đồng bộ.
Các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi phải tương
thích với pháp luật các nước và thông lệ quốc tế, phải có tính khả thi. Bên
cạnh đó, cần phải tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác về nuôi con nuôi
với các nước. Mặt khác, cần phải phổ cập, nâng cao hiểu biết pháp luật
nuôi con nuôi cho nhân dân nhằm đảm bảo hiệu quả của việc nuôi con
nuôi.
22