Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TẠI SAO GIÁ LƯƠNG THỰC (LÚA GẠO) LUÔN THIẾU ỔN ĐỊNH. CHÍNH PHỦ CÓ PHƯƠNG PHÁP NÀO BÌNH ỔN GIÁ LƯƠNG THỰC TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.13 KB, 20 trang )

CÂU 1
TẠI SAO GIÁ LƯƠNG THỰC (LÚA GẠO) LUÔN THIẾU ỔN ĐỊNH.
CHÍNH PHỦ CĨ PHƯƠNG PHÁP NÀO BÌNH ỔN GIÁ LƯƠNG THỰC TẠI
VIỆT NAM
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội, giữ một
vị trí hết sức quan trọng. Vì nơng nghiệp sản xuất ra những sản phẩm nuôi sống con
người mà bất kỳ ngành sản xuất khác không thể thay thế được. Đặc biệt trong sản xuất
nông nghiệp ngành sản xuất lương thực chiếm vị trí quan trọng quyết định sự thành
bại, ấm no hay phồn vinh của nông nghiệp và nông thơn, đơi khi là của tồn bộ nền
kinh tế xã hội của quốc gia. Vì vậy việc phát triển sản xuất lượng thực khơng những là
quan trọng mà cịn là chỗ dựa vững chắc để tạo đà phát triển cho các ngành sản xuất
khác trong nền kinh tế quốc dân. Ngồi ra lương thực cịn là nguồn dự trữ để nhà nước
thực hiện chính sách xã hội. Từ những ý nghĩa cực kì to lớn như vậy Đảng và Nhà
nước ta đã lấy sản xuất nông nghiệp làm trọng tâm cho các thời kì phát triển của đất
nước. Đối với nước ta, cơ cấu nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt đặc biệt là ngành sản
xuất lúa gạo chiếm cơ cấu và diện tích chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất này. Vì vậy mà
sản xuất lúa gạo quyết định lớn đến thu nhập và đời sống của người dân
I. Thực trạng tình hình giá lương thực (lúa gạo) tại Việt Nam
Sản xuất lúa gạo ở Việt Nam kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới, sản lượng lúa
gạo đã gia tăng nhanh chóng. Trong 10 năm (1991 – 2001), bình qn diện tích tăng
1,73%/năm, năng suất tăng 3,2%/năm và sản lượng tăng 5%/năm. Việt Nam từ một
nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, chiếm khoảng
17% lượng gạo xuất khẩu toàn cầu. Hiện nay, theo mức kim ngạch xuất khẩu, gạo
được xem là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với giá trị
xuất khẩu năm 2002 đạt 726 triệu USD, tăng hơn 3 lần so với năm 1991 và chiếm
4,4% tổng giá trị xuất khẩu (kể cả xuất khẩu dầu thơ).
Dù ở phương diện nào thì Việt Nam cũng khơng phải đối mặt với tình trạng thiếu
lương thực hoặc ở trên bờ vực của cuộc khủng hoảng an ninh lương thực. Sản xuất
nông nghiệp rất tốt và Việt Nam là nước xuất khẩu ròng gạo và nhiều hàng hóa khác.
Giá gạo đã tăng đáng kể từ cuối năm 2007, tăng đỉnh điểm vào tháng 6 năm 2008, mặc
dù giá đã hạ nhưng vẫn còn cao hơn so với những năm trước đây. Tình trạng tương tự


1


xảy ra với các mặt hàng lương thực quan trọng khác trong giỏ tiêu dùng của gia đình
Việt Nam điển hình, trong số đó bao gồm thịt lợn, thịt gà, bột mỳ, ngô và trứng.1
Việt Nam đang phát triển kinh tế nhanh chóng với những tiến bộ đáng kể trong sản
xuất lương thực. Tuy nhiên, trong những năm qua, sự gia tăng trong giá cả hàng hóa
tồn cầu bao gồm các sản phẩm lương thực đã đặt ra những thách thức mới đối với khả
năng duy trì sự phát triển bền vững và bình đẳng xã hội ở Việt Nam. Việt Nam là nước
xuất khẩu lương thực ròng, đặc biệt là gạo, nên cũng có thể mong đợi Việt Nam sẽ
được lợi từ giá cả quốc tế tăng cao hơn. Tuy nhiên, điều này lại không áp dụng đối với
mọi thành phần dân số khi mà chưa đến một nửa số hộ gia đình người Việt Nam là
những người bán lương thực ròng, và rất nhiều người mua lương thực rịng khơng thấy
thu nhập của mình tăng lên bằng với tỷ lệ tăng của giá cả lương thực. Ảnh hưởng của
giá cả lương thực cao hơn trong cả nước còn phức tạp vì mỗi hộ gia đình có hình thái
tiêu dùng và sản xuất khác nhau, cũng như nguồn thu nhập của họ khác nhau. Sự khác
biệt rõ ràng theo địa phương/vùng và tình trạng thị trường biến động có thể thấy rõ
trong tình hình hiện nay ở Việt Nam. Thêm vào đó, Việt Nam bị ảnh hưởng bởi 6-7
thiên tai (bão và lũ) hàng năm gây phá hủy mùa màng và tài nguyên lương thực, cũng
như mức độ dự trữ giống cây trồng, phân bón và các tài nguyên khác tại các khu vực bị
ảnh hưởng, điều này đòi hỏi cần phải có các chiến lược và các kế hoạch ứng phó nhằm
giảm nguy cơ thiên tai và kiểm sốt thiệt hại ở cấp tỉnh và địa phương.
Một ví dụ, vào năm 2008, ở Việt Nam, giá cả lên đến đỉnh điểm vào tháng 6 và
tháng 7 năm 2008 và sau đó do mùa màng thu hoạch tốt, giá cả đã bắt đầu ổn định và
lệnh cấm xuất khẩu đã được dỡ bỏ vào tháng bảy năm 2008. Sau đó, giá cả đã giảm
dần dần, một phần được lý giải là do các nhà xuất khẩu khơng có khả năng bán hàng
găm giữ trong kho với mục tiêu đầu cơ do họ cho rằng trong tương lai giá cả sẽ cịn
tăng. Các nhà kho vẫn cịn đầy và nơng dân tại các vùng trồng lúa gạo không thể thu
được lợi nhuận từ việc bán sản phẩm gạo của mình. Điều này đã làm yếu tình hình tài
chính của nhiều hộ nông dân, đặc biệt là những người phải trả các khỏan vay để mua

các sản phẩm đầu vào.
Hình 1: Dao động giá gạo: 2007-2008

Hiện nay, lương thực và thực phẩm chiếm 4,9% giỏ tiêu dùng quốc gia mà Tổng Cục Thống Kê sử dụng để tính
chỉ số lạm phát CPI ở Việt Nam.
1

2


Nguồn: Tổng Cục Thống Kê
Vào đầu tháng tám, Chính phủ Việt Nam yêu cầu những công ty buôn bán gạo
trong nước mua lượng gạo còn tồn đọng của dân và bán cho các khách hàng nuớc
ngoài. Các ngân hàng nhà nước bắt đầu cho vay với các điều khoản ưu đãi nhằm hỗ
trợ cho những công ty buôn bán gạo. Theo giải pháp này, các công ty phân phối gạo
được yêu cầu phải trả ở mức giá đảm bảo cho nơng dân đạt lợi nhuận 40%. Mặc dù đã
có những biện pháp điều chỉnh, nhưng giá gạo vẫn tiếp tục giảm. Hầu hết tất cả các
quốc gia trong vùng cho biết giá gạo trong nước hoặc là duy trì ở mức ổn định hoặc là
đã giảm đều từ giữa tháng 7 năm 2008. Trong những tháng tới, giá gạo quốc tế dự kiến
sẽ phải chịu thêm áp lực giảm. Mặc dù những diễn biến gần đây nhất trong thị trường
gạo có thể đã giảm nguy cơ khủng hoảng an ninh lương thực trước mắt tại Việt Nam,
nhưng những hạn chế về mặt cơ cấu và những thách thức khác trong thị trường nông
nghiệp, mà số nhiều trong chúng đã dẫn đến việc tăng giá lương thực gần đây, vẫn cần
phải được giải quyết nếu Việt Nam muốn đạt được mục tiêu an ninh lương thực trong
thời kỳ trung hạn cho đến dài hạn.
Đối với giá lúa gạo xuất khẩu, theo Tổng Cục Thống Kê năm 2009 Đồng Bằng
Sông Cửu Long hiện có 1,9 triệu ha diện tích canh tác lúa; 3,85 triệu ha diện tích gieo
trồng; sản lượng hàng năm khoảng 21 triệu tấn lúa; năng lực xuất khẩu trên dưới 5
triệu tấn gạo/ năm, tương đương 9-10 triệu tấn lúa. Mức xuất khẩu đạt kỷ lục 6 triệu
tấn ở năm 2009( Hiệp hội lương thực Việt Nam , 2010). Nông dân trong vùng đang

canh tác hàng chục giống lúa khác nhau với quy mô diện tích hàng trăm ngàn ha/năm
cho mỗi giống, trong đó có một số giống có chất lượng gạo trung bình và thấp, ví dụ
3


như Ỉ40404. Với quy mô sản xuất như trên, việc tham gia vào thị trường thế giới với
khối lượng giao dịch lớn và tập trung vào những giai đoạn cụ thể trong năm chắc chắn
làm thay đổi cung và tác động không nhỏ đến giá gạo trên thị trường thế giới.
Về thị trường thì thị trường gạo thế giới có đặc trưng có khối lượng giao dịch
rất ít so với tổng sản lượng thế giới( chỉ ở mức trên dưới 5%); dễ bị tác động do yếu tố
thời tiết khí hậu; giá cả thay đổi nhanh chóng vì khả năng thay đổi cung rất nhanh do
chu kỳ sản xuất lúa rất ngắn; và một số nước nhập khẩu chính như Indonesia và
Philippines đóng vai trò định giá. Các nước nhập khẩu gạo luôn có xu hướng thúc đẩy
sản xuất nội địa, trợ giá đầy vào và áp dụng thuế suất hoặc hạn ngạch để giảm nhập
khẩu. Ngoài ra, vì tính chất giao dịch theo mùa, các nước nhập khẩu có xu hướng tập
trung nhập khẩu vào thời điểm thu hoạch rộ của các nước xuất khẩu để mua với giá
thấp. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là các nước Châu Á và Châu Phi.
II. Nguyên nhân của việc giá lúa gạo của Việt Nam không ổn định
Giá cả lương thực cao tại Việt Nam là kết quả của sự kết hợp giữa những cú sốc về
cung từ bên ngoài, do những năng động gần đây trong thị trường hàng hóa quốc tế và
một số nhân tố trong nước, về cả khía cạnh cung và cầu
Về khía cạnh cầu, giá cả lương thực tăng một phần là do sự tăng trưởng quá mức
của tổng cầu, một phần là do Chính phủ đã thực hiện gói chính sách tiền tệ và tài
chính nới lỏng ít nhất kể từ năm 2007, cũng như do những kỳ vọng hệ lụy về lạm phát
giá cả tại Việt Nam. Trong những tháng gần đây, chính phủ đã hành động bằng việc
đưa ra một gói chính sách 8 điểm nhằm hạ nhiệt nền kinh tế Việt Nam bằng cách tăng
tỷ lệ lãi suất, cắt giảm chi tiêu công ở những lĩnh vực không được ưu tiên và giảm
những đầu tư ra ngoài lĩnh vực kinh doanh chính của các doanh nghiệp nhà nước.
Những biện pháp này đã giúp giảm áp lực lạm pháp trong nền kinh tế, bao gồm những
áp lực ảnh hưởng đến giá cả lương thực.

Tuy nhiên, những biến động gần đây về cầu trong nước và những ảnh hưởng hệ lụy
của nó tới giá cả (lương thực) trong nước, cũng có thể phản ánh những thay đổi cơ bản
hơn trong các hình thái cầu tại Việt Nam, phản ánh sự tăng trưởng chung về mức thu
nhập và sự giàu có của nhiều gia đình Việt Nam trong thập kỷ qua. Nói một cách khác,
giá cả lương thực do cầu thúc đẩy cao hơn có thể đơn thuần (và một phần) phản ánh
thu nhập bình quân tăng của các gia đình Việt Nam, trong đó giá cả lương thực cao
4


hơn đi kèm với thu nhập tăng. Tuy nhiên, đây có thể khơng phải là trường hợp xảy ra
đối với phần lớn bộ phận dân số, những người khơng thích ứng được với hình thái “hộ
gia đình trung bình” này, bao gồm những cơng nhân có tay nghề thấp, những hộ gia
đình ở nơng thơn khơng có ruộng đất, trẻ em, người già và những nhóm người dễ bị
tổn thương khác. Sự chuyển dịch về mặt cơ cấu này trong các hình thái cầu-lương thực
và giá cả-lương thực khơng chỉ khiến các nhóm người này bị nghèo hơn đi tạm thời,
mà còn thách thứ khả năng mua và đảm bảo tiêu thụ lương thực đầy đủ về mặt lâu dài
của họ.
Về khía cạnh cung, những diễn biến trong giá cả lương thực gần đây tại Việt Nam
cho thấy một số vấn đề trong hệ thống phân phối và tiếp thị lương thực, có thể đẩy giá
lương thực đến tay người tiêu dùng lên quá cao, và đồng thời giảm tác động lợi ích
mà giá cả hàng hóa tăng cao tạo ra đối với thu nhập của những người bán luơng thực
và các sản phẩm nơng nghiệp rịng khác tại khu vực nơng thơn. Do đó, bằng chứng nêu
ở trên về tình trạng dự trữ, găm hàng hóa để đầu cơ cho thấy sự kém phát triển và đôi
khi là được điều chỉnh kém bởi các quy định pháp luật của thị trường hàng hóa nơng
nghiệp, đầu vào nơng nghiệp và tài chính ở khu vực nơng thơn. Bằng chứng gần đây
về sự khác biệt giá cả lớn giữa các tỉnh đối với nhiều mặt hàng lương thực chủ chốt,
trong đó có gạo và thịt lợn và những tác động khơng hoàn hảo của giá cả quốc tế đối
với giá bán lẻ, bán buôn và giá nông sản cũng đã củng cố thêm những nhận định này
Bên cạnh những biến động trước mắt về khía cạnh cung, Việt Nam đang đối mặt
với một loạt các thách thức có khả năng ảnh hưởng tiêu cực tới an ninh lương thực tại

Việt Nam, ít nhất là đối với những bộ phận dân số dễ bị tổn thương. Thách thức chính
là nhu cầu đất đai cho các mục đích giải trí, du lịch, cư trú, cơng nghiệp tăng có khả
năng làm giảm diện tích đất hiện có cho các hoạt động nơng nghiệp. Trong năm 2007,
có khoảng 4,1 triệu ha trồng lúa ở Việt Nam, ít hơn 360.000 ha so với năm 2000, điều
này cho thấy mỗi năm diện tích đất trồng lúa mất hơn 50000 ha. Thách thức nữa là tình
trạng thiên tai và dịch bệnh cũng như những ảnh hưởng tiềm tàng của biến đổi khí hậu
đối với nơng nghiệp. Ví dụ, đồng bằng sông Cửu Long (Mekong) đã phải đối mặt với
dịch bệnh thường xuyên do rầy nâu, ước tính thiệt hại khoảng 1 triệu tấn gạo mỗi năm.
Cuối cùng là nhu cầu cần phải giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng (khoảng 1/3 trẻ em dưới 5
tuổi bị suy dinh dưỡng), xu hướng tiêu thụ lương thực nhìn chung gia tăng, và cơ cấu
5


dân số hiện tại của Việt Nam có khả năng khiến nhu cầu lương thực tăng trong tương
lai.
Cùng lúc đó, các áp lực gia tăng trồng các loại cây cho xuất khẩu có giá trị gia tăng
cao sẽ địi hỏi phải có những nỗ lực cải thiện trình độ sản xuất trong ngành nông
nghiệp để đảm bảo mức sản xuất lương thực phù hợp cho tiêu dùng trong nước của
Việt Nam.
Mặt khác, việc thực hiện những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO trong
lĩnh vực nơng nghiệp có thể sẽ có những ảnh hưởng bất lợi đối với sản xuất lương thực
và nông nghiệp tại Việt Nam, nếu khơng được đi kèm bởi các biện pháp tích cực để hỗ
trợ các nhà sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam nhằm tăng tính cạnh tranh và sự thâm
nhập vào thị trường quốc tế của họ. Về điều này, kinh nghiệm đi trước của những quốc
gia khác trong khu vực, như Phi-lip-pin, giúp nêu bật những thách thức mà việc gia
nhập WTO tạo nên đối với ngành nông nghiệp của các quốc gia như Việt Nam.
Sự sụt giảm trong thị trường cũng có tác động đến giá cả hàng hóa. Điều này đặc
biệt quan trọng đối với một số mùa vụ cây trồng của Việt Nam và những tác động mà
tình trạng này có thể có đối với nơng dân ở khu vực nông thôn. Trong những tuần gần
đây, đã có sự giảm đáng kể về giá cà phê, cao su, hồ tiêu, hạt điều và những cây trồng

xuất khẩu khác. Tình trạng này sẽ đặc biệt nghiêm trọng đối với những người sản xuất
ở khu vực cao nguyên, những người có thu nhập bị giảm đáng kể mặc dù giá cả lương
thực vẫn cao. Thu nhập thấp hơn sẽ gia tăng ảnh hưởng của giá cả lương thực đối với
các hộ gia đình ở nơng thơn.
Việt Nam thường xun bị ảnh hưởng bởi 6 hoặc7 trận thiên tai (bão và lũ) hàng
năm, gây phá hoại mùa màng và tài nguyên lương thực, cũng như giống cây trồng,
phân bón và các nguồn tài nguyên khác tại các khu vực dễ bị ảnh hưởng. Những diễn
biến khí hậu này và ảnh hưởng của chúng tới việc sản xuất lương thực ở Việt Nam
chắc chắn còn mạnh mẽ hơn do sự ấm lên của trái đất và những mối đe dọa cụ thể mà
biến đổi khí hậu có thể gây ra đối với kinh tế nông thôn Việt Nam trong thời kỳ trung
hạn đến dài hạn.
Nhịp độ phát triển kinh tế nhanh chóng trong thập niên qua ở Việt Nam và những
thách thức mà một nước sẽ gặp phải khi trở thành quốc gia có thu nhập trung bình
đang bắt đầu cho thấy những thử nghiệm mới và những hạn chế về mặt cơ cấu trong
nền kinh tế nông thôn của Việt Nam. Những thách thức này liên quan đến việc gia tăng
6


tính cạnh tranh đối với nguồn tài nguyên đất khan hiếm, những thắt nút cổ chai trong
tiếp thị và hệ thống phân phối nông nghiệp, và những lựa chọn đánh đổi mà ngành
nông nghiệp Việt Nam gặp phải giữa việc sản xuất lương thực và trồng cây phục vụ
cho xuất khẩu có giá trị gia tăng cao. Mặc dù giá nhiên liệu (dầu) cũng đã giảm, nhưng
nó vẫn có ít tác động tới giá gạo và các mặt hàng lương thực chủ yếu khác. Tình trạng
này cũng đặc biệt nghiêm trọng đối với các nhà sản xuất cà phê ở khu vực miền núi,
thu nhập của họ sẽ bị giảm đáng kể mặc dù giá cả lương thực vẫn cao
III.
Các giải pháp để bình ổn giá lương thực tại Việt Nam
Một số giải pháp để bình ổn giá lượng thực trên cơ sở khắc phục các nguyên nhân
gây ra sự mất ổn định giá lương thực tại Việt Nam như sau:
1. Xây dựng các chính sách dựa vào bằng chứng cho việc sản xuất lương thực bền

vững, duy trì các kho dự trữ, các kế hoạch phân phối và ứng phó đột xuất để đảm bảo
an ninh lương thực và giảm nguy cơ thiên tai trên cơ sở hệ thống bản đồ và thông tin
quốc gia, bao gồm các hệ thống giám sát bảo đảm dinh dưỡng, an ninh lương thực và
cảnh báo sớm, và các hệ thống thông tin thị trường.
2. Củng cố các hệ thống thông tin và tăng cường năng lực về thu thập, quản lý và
phổ biến dữ liệu. Một lĩnh vực ưu tiên là nhu cầu cần phải tổng hợp số liệu vào một
phân tích đa ngành, thống nhất, liên kết được các tác nhân tiềm ẩn với ảnh hưởng, đặc
biệt là đối với những người dễ bị tổn thương.
3. Tăng cường các mạng lưới an sinh hiện tại và các chính sách trợ giúp xã hội cho
những nhóm dễ bị tổn thương và Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Giảm nghèo, và
đánh giá tính khả thi của việc mở rộng và làm sâu sắc hơn mức độ bao phủ của những
chính sách này.
4. Nghiên cứu các lựa chọn để mở rộng và tăng cường các chương trình dinh
dưỡng và các hình thức can thiệp hiện nay đặc biệt là các chương trình mục tiêu cho
các nhóm có nguy cơ dễ bị tổn thương như phụ nữ mang thai và phụ nữ đang cho con
bú và trẻ em dưới 5 tuổi.
5. Đánh giá lại các chính sách có liên quan nhằm đảm bảo rằng các vấn đề liên
quan đến an ninh lương thực, khả năng dễ bị tổn thương và các cơ chế bảo trợ được
phản ánh phù hợp và đưa vào quá trình hoạch định chiến lược dài hạn và cân nhắc khi
xây dựng chính sách.
7


CÂU 2
TẠI SAO ĐỘC QUYỀN LÀ CẤU TRÚC KHÔNG MONG MUỐN TRONG
NỀN KINH TẾ? CÓ NÊN XÓA BỎ ĐỘC QUYỀN HAY KHÔNG? ANH (CHỊ)
HÃY CHO Ý KIẾN VỀ VẤN ĐỀ TRẾN
I. Cơ sở lý luận về độc quyền trong nền kinh tế
Một thị trường được xem như là độc quyền khi chỉ có một nhà cung ứng trên thị
trường đó. Đường cung của nhà sản xuất cũng chính là ngành; đường cầu của thị

trường chính là đường cầu đối với nhà độc quyền. Vì đường cầu có xu hướng dốc
xuống về phía phải, nên để bán được nhiều hàng hố hơn nhà độc quyền phải giảm giá
bán.
Không giống như trên thị trường cạnh tranh hoàn toàn, mọi quyết định của nhà
cung ứng về mặt số lượng có ảnh hưởng đến giá cả trên thị trường. Một ngành được
xem là độc quyền hồn tồn khi nó thoả mãn hai điều kiện sau:
  a)Những đối thủ cạnh tranh không thể gia nhập ngành.
b)Khơng có những sản phẩm thay thế tương tự.
1. Các nguyên nhân xuất hiện độc quyền
Nguyên nhân chủ yếu xuất hiện độc quyền
ở một ngành nào đó là do các doanh nghiệp
khác không thể tồn tại hay không thể gia nhập
vào ngành đó. Do vậy, những hàng rào ngăn
cản sự gia nhập ngành là nguồn gốc của sự
độc quyền. Chúng ta có thể phân loại ra
những loại rào cản sau.
1.1.Chi phí sản xuất
Thơng thường độc quyền xuất hiện trong những ngành có tính kinh tế nhờ quy mơ.
Trong những ngành này đường chi phí trung bình (AC) giảm dần khi sản lượng cao
hơn (hình 1). Những doanh nghiệp có quy mô lớn thường là những doanh nghiệp sản
xuất với chi phí thấp hơn những doanh nghiệp khác nhờ vào kinh nghiệm, tính kinh tế
của quy mơ, v.v. Do đó, những doanh nghiệp lớn có khả năng loại trừ những doanh
nghiệp khác ra khỏi ngành bằng cách cắt giảm giá (mà vẫn có thể thu được lợi nhuận),
từ đó tạo ra thế độc quyền cho mình.
Một khi vị thế độc quyền được thiết lập, sự gia nhập ngành của các doanh nghiệp
8


khác sẽ rất khó khăn, bởi vì những doanh nghiệp mới thường sản xuất ở mức sản
lượng thấp và như vậy phải chịu chi phí (trung bình) cao. Những doanh nghiệp này sẽ

dễ dàng bị nhà độc quyền loại khỏi thị trường bằng cách giảm giá. Sự độc quyền hình
thành từ con đường cạnh tranh bằng chi phí như vậy được gọi là độc quyền tự nhiên.
I.2. Pháp lý
Nhiều nhà độc quyền được tạo ra từ nguyên nhân pháp lý chứ không phải từ
nguyên nhân kinh tế như trên. Chúng ta có thể thấy pháp luật tạo ra sự độc quyền dưới
dạng hai hình thức sau:
- Pháp luật bảo hộ bằng phát minh, sáng chế. Bằng phát minh, sáng chế được
pháp luật bảo vệ là một trong những nguyên nhân tạo ra độc quyền vì luật bảo hộ bằng
sáng chế chỉ cho phép một nhà sản xuất sản xuất mặt hàng vừa được phát minh và do
vậy họ trở thành nhà độc quyền.
- Pháp luật bảo hộ những ngành có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.Các ngành
công nghiệp công ích như điện, nước, thông tin liên lạc, một số kênh phát thanh,
truyền hình, v.v. sẽ được bảo hộ hay độc quyền bởi nhà nước vì chúng có vai trị quan
trọng đối với an ninh quốc gia. Những ngành này thường là các ngành có chi phí sản
xuất trung bình giảm dần khi quy mơ tăng. Do vậy, chính phủ cho rằng chi phí trung
bình sẽ càng thấp khi sản lượng gia tăng và nó sẽ đạt mức thấp nhất chỉ khi tổ chức
ngành này như là một nhà độc quyền
1.3.Xu thế sáp nhập của các công ty lớn
Trên thế giới hiện nay đang diễn ra xu thế sáp nhập của các công ty lớn. Xu thế này
diễn ra do những nguyên nhân sau:
-  Áp lực của việc tìm kiếm khách hàng. Việc sáp nhập của các công ty sẽ giúp mở
rộng thị trường cho từng công ty. Các công ty, sau khi sáp nhập, sẽ tận dụng được
mạng lưới phân phối có sẵn của mình và của cả những công ty trong liên minh để nâng
cao thị phần của mình và chiếm lĩnh thị trường. Do vậy, việc sáp nhập có thể tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thu tóm thị trường và hình thành vị thế độc quyền.
- Giảm chi phí sản xuất - kinh doanh. Việc sáp nhập sẽ làm mở rộng thị trường của
các doanh nghiệp nên có thể làm tăng quy mơ sản xuất cho từng doanh nghiệp. Điều
này có thể tạo ra tính kinh tế nhờ quy mơ của q trình sản xuất. Do vậy, sự sáp nhập
có thể giúp doanh nghiệp sử dụng tài nguyền về nhân lực, tiền của, v.v. có hiệu quả
hơn.

9


1.4.Tình trạng kém phát triển của thị trường
Sự kém phát triển của thị trường sẽ dẫn đến hàng hố khơng được lưu thơng một
cách thơng suốt. Do hàng hố khơng lưu thông tốt trên thị trường cho nên nhà cung
ứng nào có điều kiện cung ứng hàng hố cho một thị trường nào đó mà các nhà cung
ứng khác khơng thể với tới thì sẽ trở thành độc quyền trên thị trường đó. Đây là hình
thức độc quyền có tính cục bộ và xảy ra ở quy mô nhỏ. Sự độc quyền như vậy thường
xuất hiện ở những vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới hay hải đảo, v.v. .
2. Đường cầu và đường doanh thu biên
Là do người cung ứng duy nhất một hàng
hố nào đó, nhà độc quyền đối diện với đường
cầu của thị trường, và đường cầu thị trường có
xu hướng dốc xuống từ trái sang phải. Khác
với một doanh nghiệp cạnh tranh phải chấp
nhận giá thị trường, nhà độc quyền là người
định giá. Nhà độc quyền có thể chọn sản xuất
tại bất kỳ một mức sản lượng nào trên đường
cầu thị trường nhưng phải đánh đổi giữa sản lượng và giá bán sản phẩm. Nhà độc
quyền cung ứng càng nhiều thì giá cả sẽ càng giảm. Ta có thể mơ tả sự đánh đổi giữa
giá và sản lượng của một doanh nghiệp độc quyền ở hình 2.
 Để tối đa hoá lợi nhuận, nhà độc quyền sẽ chọn sản xuất mức sản lượng mà tại đó
. Sau đó, nhà độc quyền kiểm tra xem ở
mức sản lượng này giá cả (hay doanh thu bình
qn) có trang trải được các chi phí hay khơng.
Hình 4 biểu diễn ngun tắc tối đa hoá lợi nhuận
của nhà độc quyền.
Nhà độc quyền sẽ chọn mức sản lượng tối ưu
q1, tại đó đường MR cắt đường MC. Với đường

cầu D, nhà độc quyền sẽ định mức giá là P1, tương ứng với điểm B, để bán hết sản
lượng q1 được sản xuất ra.
3. Chỉ số Lerner
Khác với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nhà độc quyền là người ấn định giá. Sau
10


khi đã quyết định sản xuất q1, nhà độc quyền niêm yết giá P1 vì biết rằng người tiêu
dùng sẽ tiêu thụ đúng q1. Chúng ta cũng nên lưu ý rằng trong khi doanh nghiệp cạnh
tranh định giá bằng với chi phí biên thì nhà độc quyền định giá cao hơn chi phí biên do
giá cả của nhà độc quyền lớn hơn doanh thu biên. Do vậy, để đo lường sức mạnh độc
quyền các nhà kinh tế xem xét mức độ chênh lệch giữa giá độc quyền và chi phí biên ở
tại mức sản lượng mà nhà độc quyền có lợi nhuận là tối đa. Cụ thể, sức mạnh độc
quyền được biểu hiện bằng chỉ số Lerner (tại điểm tương ứng với lợi nhuận tối đa của
nhà độc quyền) như sau:  
.
trong đó: L là chỉ số Lerner. Chỉ số Lerner ln có giá trị nằm giữa 0 và 1. Đối với
doanh nghiệp hoạt động trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, ở mức sản lượng tương
ứng với lợi nhuận tối đa thì

nên

. Đối

với nhà độc quyền, L ln dương vì
. Nếu L
càng lớn, sức mạnh độc quyền càng lớn vì khi đó giá
bán càng lớn hơn MC
4. Lợi nhuận độc quyền
Lợi nhuận độc quyền có thể được xem như là phần

trả cơng cho các nhân tố hình thành nên sự độc quyền
như: phát minh, sáng chế, vị trí thuận lợi hay sự năng động của nhà độc quyền. Chính
vì vậy, một số doanh nghiệp khác sẽ sẵn sàng trả một số tiền để sang nhượng bản
quyền các phát minh, sáng chế, v.v. nhằm kiếm được lợi nhuận tiềm năng của vị thế
độc quyền. Một khi quyền độc quyền được sang nhượng thấp hơn giá trị thị trường
thực tế, người được sang nhượng sẽ được hưởng lợi. Tuy nhiên, vị thế độc quyền
không bảo đảm cho doanh nghiệp chắc chắn thu được lợi nhuận. Điều này còn phụ
thuộc vào mối quan hệ giữa chi phí trung bình và đường cầu đối với sản phẩm của nhà
độc quyền. Hình 4 cho thấy nhà độc quyền có thể thu được lợi nhuận độc quyền khi
chọn mức sản lượng tối đa hoá lợi nhuận. Tại mức sản lượng này, đường AC của nhà
độc quyền nằm dưới đường cầu. Bây giờ, chúng ta sẽ xem xét trường hợp nhà độc
quyền không thể thu được lợi nhuận độc quyền do đường AC nằm trên đường cầu
(hình 5).
11


5. Khơng có đường cung trong độc quyền
 Trong thị trường cạnh tranh hồn hảo, đường cung
của doanh nghiệp chính là đường chi phí biên. Tổng
hợp đường cung của từng doanh nghiệp ta có đường
cung của ngành. Trong độc quyền, cách xây dựng
đường cung như trên không thể thực hiện được. Mức
cung của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào đường cầu
và doanh thu biên. Với một đường cầu cố định, "đường cung" độc quyền chỉ là một
điểm, điểm kết hợp giữa giá và sản lượng tại đó MR = MC (điểm B trong các hình 4 và
5). Nếu đường cầu dịch chuyển, đường MR sẽ dịch chuyển theo và một mức sản lượng
tối đa hoá lợi nhuận mới sẽ được chọn. Tuy nhiên, nối các điểm cân bằng này lại để
hình thành một "đường cung" sẽ khơng có ý nghĩa. Hình dạng đường này sẽ rất kỳ lạ,
phụ thuộc vào độ co giãn của đường cầu thị trường khi nó dịch chuyển. Như vậy,
doanh nghiệp độc quyền khơng có một "đường cung" xác định (hình 6).

6. Độc quyền và vấn đề phân bổ nguồn tài nguyên xã hội
Sự xuất hiện của độc quyền có thể làm giảm đi tính
hiệu quả của việc phân bổ nguồn tài nguyên xã hội bởi
vì nhà độc quyền có thể giảm sản lượng để có giá cao
hơn. Việc giảm sản lượng có thể làm cho doanh
nghiệp có lợi hơn nhưng người tiêu dùng sẽ bị thiệt
hại. Bây giờ, chúng ta hãy so sánh giá cả và sản lượng
của doanh nghiệp độc quyền và ngành cạnh tranh để
từ đó xác định "chi phí xã hội của độc quyền".
Để có thể so sánh, chúng ta giả định rằng một thị
trường độc quyền có thể vận hành như một ngành cạnh tranh. Giả sử thị trường cạnh
tranh và nhà độc quyền có cùng một đường chi phí biên (MC). Trong thị trong cạnh
tranh, giá bằng với chi phí biên, tương ứng với giá cạnh tranh PC và sản lượng QC, tại
đó đường MC cắt đường cầu (P = MC) (hình 7). Khi xuất hiện độc quyền, nhà độc
quyền chọn mức sản lượng qM mà tại đó MR = MC, nên giá độc quyền PM sẽ cao hơn
12


chi phí biên hay giá cạnh tranh. Sức mạnh độc quyền dẫn đến giá cao hơn và sản lượng
bị giảm còn QM. Do giá cao hơn nên người tiêu dùng giảm lượng mua từ QC xuống
còn QM và như vậy, thặng dư tiêu dùng bị mất đi một khoảng tương đương với diện
tích (A+B) trên hình 7.
Ngồi ra, xã hội cịn có thể phải chịu chi phí khác ngồi phần thiệt hại xã hội B và
C. Đó là, doanh nghiệp cịn có thể phải chi thêm một khoản chi phí lớn không hiệu quả
về mặt xã hội để dành duy trì hoặc để thể hiện sức mạnh độc quyền của mình. Chi phí
này có thể bao gồm chi phí quảng cáo, vận động hành lang và những tranh thủ pháp lý
để tránh sự điều tiết của chính phủ hay chống "Luật chống độc quyền". Nhà độc quyền
cũng có thể lắp đặt thêm những nhà máy thừa công suất để tận dụng tính kinh tế nhờ
quy mơ, v.v.   
7. Độc quyền và vấn đề phân biệt giá cả

Khác với thị trường cạnh tranh, một nhà độc quyền có khả năng ấn định các mức
giá khác nhau đối với nhiều người tiêu dùng khác nhau. Ta gọi trường hợp này là phân
biệt giá. Sự phân biệt giá có thể làm tăng lợi nhuận của nhà độc quyền so với việc định
một mức giá duy nhất cho tất cả sản phẩm của mình.
- Chính sách phân biệt giá hồn tồn: là chính sách mà trong đó nhà độc quyền
ấn định cho mỗi (nhóm) khách hàng một mức giá tối đa mà người đó có thể trả . Mức
giá đó gọi là giá sẵn sàng trả hay giá đặt trước của người tiêu dùng.
Nếu nhà độc quyền có thể xác định rõ nhu cầu của từng khách hàng hay từng nhóm
khách hàng của mình, họ có thể định giá cao nhất mà (nhóm) khách hàng của mình có
thể trả. Với cách định giá này, nhà độc quyền sẽ “bòn rút” hết thặng dư tiêu dùng của
người tiêu dùng bởi vì nhà độc quyền định cho mỗi khách hàng mức giá tối đa mà họ
có thể trả.  
+ Bán Q1 sản phẩm với giá P1, (Q2 – Q1) sản
phẩm với giá P2, ...
+ MR = P nhưng không phải giảm giá cho các
đơn vị sản phẩm trước đó.
+ Đường MR cũng chính là đường cầu.
+ Q4: sản lượng tương ứng với LNmax.
+ Lợi nhuận tăng lên so với trường hợp không
13


phân biệt giá.
6.2.Chính sách phân biệt giá đối với
hai thị trường riêng biệt
Nhà độc quyền sẽ định giá cao hơn ở
các thị trường có hệ số co giãn thấp hơn
(thị trường 1).

8. Chính sách hạn chế độc quyền

Đây là việc làm cần thiết vì độc quyền gây ra thiệt hại đối với nền kinh tế. Hạn chế
độc quyền là một trong những vấn đề quan trọng trong kinh tế học ứng dụng. Các
ngành cơng nghiệp phục vụ tiện ích như điện lực, viễn thông, v.v. thường bị khống chế
bằng luật pháp để nhằm buộc các ngành này hoạt động trong phương thức có lợi nhất
về phương diện xã hội để hạn chế phần thiệt hại do độc quyền. Ta có một số cách để
hạn chế độc quyền như sau:
9. Điều tiết giá
Do xã hội bị tổn thất, các quốc gia phải sử dụng một phương cách để hạn chế sức
mạnh độc quyền, trong đó có phương thức điều tiết giá. Chính phủ ấn định một mức
giá trần nào đó thấp hơn mức giá độc quyền. Chính sách này có thể làm giảm được tổn
thất do sức mạnh độc quyền.
10. Điều tiết trong thực tế
Những quy định về độc quyền thường dựa trên tỷ lệ lãi thu được từ vốn. Cơ quan
điều tiết cho phép nhà độc quyền định một mức giá nhất định để đạt được một mức lãi
sao cho mức lãi này, theo nghĩa nào đó, là “cạnh tranh” hay “công bằng”. Phương pháp
này gọi là điều tiết theo lợi tức. Mức giá cao nhất được phép dựa trên mức lãi đầu tư
kỳ vọng mà doanh nghiệp sẽ thu được. Chẳng hạn, chính phủ cho phép nhà độc quyền
định giá sản phẩm của mình để đạt một mức lợi nhuận bằng 10% số vốn đầu tư của
doanh nghiệp vì chính phủ cho đó là mức lãi trung bình của các ngành trong nền kinh
tế.
14


11. Luật chống độc quyền
Một biện pháp đơn giản và hữu hiệu để chống độc quyền là ban hành các quy định,
luật lệ nhằm ngăn cản ngay từ đầu các doanh nghiệp trong việc giành được sức mạnh
thị trường quá mức. Một số nước trên thế giới có nền kinh tế thị trường phát triển đã
ban hành “Luật chống độc quyền” như Mỹ, các nước EU, v.v. một cách hoàn chỉnh.
II. Tình trạng độc quyền trong nền kinh tế Việt Nam
Vấn đề độc quyền hiện nay ở Việt Nam chủ yếu là độc quyền nhà nước, các công

ty tư nhân chưa có khả năng và tiềm lực kinh tế để chiếm vị trí thống lĩnh hay độc
quyền trong các ngành kinh tế chính. Bên cạnh đó, cùng với q trình mở cửa thị
trường thông qua việc ký kết và gia nhập các hiệp định thương mại song phương và đa
phương, đã và sẽ xuất hiện các công ty đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam. Những
công ty này, với sức mạnh kinh tế của mình, có khả năng tạo lập được vị thế độc quyền
và trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp nội địa Việt Nam với tiềm lực hạn chế đang bị
loại dần khỏi đời sống kinh tế. Tình trạng loại bỏ đối thủ để chiếm đoạt thị trường thiết
lập vị thế độc quyền như có những cơng ty đem hàng trăm tấn sản phẩm để biếu hoặc
bán phá giá làm cho không một doanh nghiệp trong nước nào có đủ tiềm lực kinh tế để
duy trì hoạt động sản xuất bình thường.
Thực trạng vấn đề độc quyền ở Việt nam hiện đang nỗi lên vấn đề lạm dụng độc
quyền để trục lợi, biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp; hành xử
"độc quyền", mang tính ban phát; độc quyền điện, nước, xăng dầu, viễn thông, hàng
không… tự quy định giá cả bắt buộc các doanh nghiệp phải đẩy chi phí kinh doanh lên
cao, hậu quả duy trì ưu đãi các dự án khơng có hiệu quả kinh tế đã dẫn tới hậu quả tỉ lệ
tăng trưởng kinh tế tính trên vốn đầu tư của VN suy giảm khoảng 25% trong các năm
gần đây.
Theo các Quyết định 90 và 91-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chủ trương
thành lập các tập đồn kinh doanh, Chính phủ đã cho thành lập một loạt các tổng công
ty và tập đồn kinh doanh nhà nước: Tổng cơng ty Bưu chính viễn thơng, Dầu khí, Dệt
may, Hố chất, Điện lực, Than, Thép, Xi măng …
Nhiều tổng công ty trong số này là các doanh nghiệp (DN) độc quyền hoặc được
ưu đãi đặc biệt của Chính phủ. Như vậy, về cơ bản hiện trạng độc quyền ở VN chủ yếu
15


là độc quyền nhà nước. Các công ty tư nhân chưa có khả năng và tiềm lực kinh tế để
chiếm vị trí thống lĩnh hay độc quyền trong các ngành kinh tế chính. Tầm ảnh hưởng
và vị trí của các DN độc quyền nhà nước được xây dựng trên chủ trương của Chính
phủ và phí độc quyền do người tiêu dùng - khơng có lựa chọn nào khác - trả chứ không

phải trên hiệu quả quản lý và khả năng cạnh tranh của các DN độc quyền nhà nước.
III. Tác động của độc quyền tới nền kinh tế
Thứ nhất, do tối đa hóa doanh thu nên doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sẽ sản xuất
hàng hóa ở mức sản phẩm mà tại đó doanh thu biên bằng với thu nhập biên thay vì sản
xuất ở mức sản lượng mà ở đó giá sản phẩm cao hơn nhiều chi phí biên như trong thị
trường (cân bằng cung cầu). Khác với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nơi mà giá bán
sản phẩm phụ thuộc vào số lượng sản phẩm do một doanh nghiệp sản xuất ra, trong
tình trạng chiếm đoạt quyền giá bán sẽ tăng lên khi doanh nghiệp chiếm đoạt quyền
giảm sản lượng. Vì thế lợi nhuận biên sẽ lớn hơn giá bán sản phẩm và cứ một đơn vị
sản phẩm sản xuất thêm doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sẽ thu thêm được một khoản
tiền lớn hơn giá bán sản phẩm đó. Điều này có nghĩa là nếu cứ sản xuất thêm sản phẩm
thì doanh thu thu thêm được có thể đủ bù đắp tổn thất do giá bán của tất cả sản phẩm
giảm xuống. Mặt khác, nếu áp dụng nguyên tắc biên của tính hiệu quả nghĩa là sản
xuất sẽ đạt hiệu quả khi lợi ích biên bằng doanh thu biên, tất nhiên lợi ích biên và chi
phí biên ở đây xét trên góc độ xã hội chứ khơng phải đối với doanh nghiệp độc quyền
ta thấy rằng: ở mức sản lượng mà doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sản xuất thì lợi ích
biên (chính là đường cầu) lớn hơn chi phí biên đồng nghĩa với tình trạng khơng hiệu
quả. Tóm lại, doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sẽ sản xuất ở sản lượng thấp hơn và bán
với giá cao hơn so với thị trường cạnh tranh. Tổn thất mà xã hội phải gánh chịu do sản
lượng tăng lên trừ đi tổng chi phí biên để sản xuất ra phần sản lượng đáng lẽ nên được
sản xuất ra thêm đó chính là tổn thất do chiếm đoạt quyền.
Thứ hai, do chi phí sản xuất ra một đơn vị sản phẩm tăng dần theo quy mơ nên (chi
phí biên) của doanh nghiệp độc quyền tự nhiên có xu hướng giảm và ln thấp hơn chi
phí sản xuất trung bình. Cũng do tối đa hóa doanh thu, doanh nghiệp trên thị trường sẽ
cung ứng sản phẩm sao cho lợi nhuận biên bằng giá sản phẩm. Tại trạng thái đó sản
lượng sẽ thấp hơn và giá cao hơn so với trạng thái cân bằng của thị trường cạnh tranh
khi mà giá bán hay lợi ích biên bằng giá sản phẩm. Sự giảm sút sản lượng cũng gây ra
16



tổn thất. Tuy nhiên nếu như trong trường hợp khác, khi bị điều tiết để sản xuất ở mức
sản xuất hiệu quả, doanh nghiệp vẫn có lợi nhuận (tuy đã bị giảm xuống) thì trong
trường hợp này, nếu sản xuất ở mức sản lượng không hiệu quả, doanh nghiệp luôn bị
lỗ vì giá bán sản phẩm (bằng doanh thu biên) thấp hơn chi phí sản xuất.
Qua thực tế trên có thể thấy, độc quyền là cấu trúc kinh tế không mong muốn trong
nền kinh tế. Kết quả của độc quyền là năng suất lao động thấp, giá cả tăng cao một
cách bất hợp lý, buộc toàn bộ nền kinh tế phải chịu mức già đầu vào cao, làm tăng chi
phí cho các doanh nghiệp kinh doanh khác trong nền kinh tế quốc dân.
IV.Đề xuất một số giải pháp chống độc quyền trong nền kinh tế
Trước yêu câu duy trì phát triển kinh tế với nhịp độ cao và của quá trình hội nhập
thi việc cải thiện mơi trường kinh tế là yêu câu cấp bách để tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, thực hiện q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế thế giới. Để cải thiện
vấn đề độc quyền hiện nay ở Việt Nam, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất: tiếp tục đổi mới nhận thức về cạnh tranh, phải thống nhất quan điểm
đánh giá vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế. Phải coi cạnh tranh trong nền kinh tế
pháp luật hợp thức là động lực của sự phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của
các doanh nghiệp. Xác định một cách rõ ràng và hợp lý vai trò của Nhà nước cũng như
vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế, hạn chế bớt những
doanh nghiệp Nhà nước độc quyền kinh doanh. Thúc đẩy nhanh quá trình cải cách
doanh nghiệp Nhà nước, đẩy nhanh quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Độc
quyền của các doanh nghiệp Nhà nước cần phải được giảm dần, các rào cản đối với
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cần được tháo gỡ dần nhằm giảm giá
thành sản xuất, tăng năng lực cạnh tranh chung của toàn bộ nền kinh tế, tăng tính hấp
dẫn đối với đầu tư nước ngoài, đồng thời giảm gánh nặng cho ngân sách quốc gia.
Việc đổi mới nhận thức cần được thể hiện trong toàn bộ hệ thống quản lý Nhà
nước, trong các chương trình và chiến lược cải cách hành chính, trong tổ chức, phong
cách làm việc hành vi ứng xử của các cơ quan cơng quyền. Muốn như vậy thì trước
tiên cần phải đưa nội dung về cạnh tranh và độc quyền vào chương trình giáo dục của
17



các trường đại học thuộc khối kinh tế và kinh doanh. Để có được đội ngũ cán bộ, các
nhà kinh tế sau khi ra trường có một tầm hiểu biết về cạnh tranh và độc quyền. Đào tạo
các khoá ngắn hạn cho các doanh nghiệp và công chức Nhà nước để nâng cao, trau dồi
kiến thức về cạnh tranh và độc quyền. Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng
tuyên truyền về cạnh tranh và độc quyền. Để từ đó có một chính sách cạnh tranh phù
hợp và việc thực hiện các chính sách cạnh tranh này dễ dàng hơn.
Thứ hai: cải tổ pháp luật về cạnh tranh để cho cơ chế cạnh tranh được vận hành một
cách trôi chảy, hạn chế những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Nới
lỏng các điều kiện ra nhập và rút lui khỏi thị trường để khuyến khích các nhà đầu tư
tham gia sản xuất kinh doanh. Như vậy việc hình thành nên khung pháp lý chung cho
các loại hình kinh doanh thuộc các khu vực kinh tế khác nhau là điều cần thiết.
Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý kinh doanh cần xoá bỏ những quy định
hiện hành không phù hợp với nền kinh tế thị trường, với những cam kết quốc tế nhằm
mở rộng quyền kinh doanh, quyền chủ động cho các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế. Bổ xung những luật và văn bản dưới luật còn thiếu, chưa hướng dẫn thi
hành. Trong tâm xem xét là các lĩnh vực pháp luật về cạnh tranh độc quyền. Sửa đổi
những điều khoản của bộ luật dân sự có liên quan đến quan hệ giữa luật Việt Nam và
luật nước ngoài.
Để thực hiện được những việc như trên thì trong quá trình sửa đổi luật, bổ sung và
ban hành pháp luật có liên quan đến cạnh tranh và độc quyền thì cần có sự phối hợp
đồng bộ giữa các bộ, ngành và chính quyền địa phương với sự tham gia của các doanh
nghiệp, các chuyên gia nghiên cứu kinh tế và người tiêu dùng. Việc tham gia đồng bộ
giữa các bên khi ban hành sửa đổi luật sẽ đưa ra được các quy định phù hợp với tình
hình thực tế về cạnh tranh và độc quyền hơn.
Thứ ba: xây dựng một cơ quan chuyên trách theo dõi, giám sát các hành vi liên
quan đến cạnh tranh và độc quyền. Rà soát lại và hạn chế bớt số lượng các lĩnh vực
18



độc quyền, kiểm soát giám sát độc quyền chặt chẽ hơn. Nhà nước cần giám sát chặt
chẽ hơn các hành vi lạm dụng của các doanh nghiệp lớn. Cần phải đổi mới chế độ
chứng từ, kế toán kiểm toán để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giám sát tài chính
của các doanh nghiệp.
Thứ tư: cải thiện mơi trường thông tin và pháp luật theo hướng minh bạch và kịp
thời hơn, đồng thời nhanh chóng cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh.
Thứ năm: cơ cấu lại và kiểm soát độc quyền kể cả độc quyền tự nhiên.
Cần xố bỏ độc quyền trong kinh doanh, chỉ duy trì độc quyền ở một số ngành
quan trọng phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế như: sản xuất và truyền tải điện
năng, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thơng, xây dựng cơ sở hạ tầng… kiểm sốt
chặt chẽ các doanh nghiệp độc quyền thuộc Nhà nước.
Việc xoá bỏ độc quyền trong kinh doanh có thể thực hiện theo hai hướng

.

Hướng thứ nhất: cho phép nhiều doanh nghiệp tham gia kinh doanh bằng cách xây
dựng điều kiện cấp phép cho các loại hình dịch vụ phù hợp với thời hạn nêu trong cam
kết quốc tế. Cần tạo điều kiện khuyến khích cạnh tranh giữa các doanh nghiệp khi
tham gia hoạt động. Các doanh nghiệp mới có thể đến từ một lĩnh vực kinh doanh
khác có liên quan. Các doanh nghiệp này có thể sử dụng chung cơ sở hạ tầng với
doanh nghiệp đang sử dụng hoặc sẵn có của mình.
Hướng thứ hai: chia tách các doanh nghiệp đang chiếm vị trí chủ đạo trong lĩnh
vực thành các đơn vị nhỏ độc lập, đồng thời chia tách các doanh nghiệp không trực
tiếp gắn với cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng khỏi doanh nghiệp chủ đạo. Việc chia tách
này cần đảm bảo các doanh nghiệp độc lập với nhau không phụ thuộc vào nhau hay
vào doanh nghiệp chủ đạo. Như vậy sẽ làm tăng sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
với nhau mà không bị hạn chế lĩnh vực và địa bàn kinh doanh.
19



Trường hợp vẫn phải duy trì độc quyền một số ngành chủ đạo thì Nhà nước cần ban
hành những quy định pháp luật để điều chỉnh hoạt động của các công ty này. Xây dựng
các luật đặc thù cho từng lĩnh vực như: luật viễn thông, luật điện lực… Để kiểm soát
độc quyền của các doanh nghiệp này và tránh tình trạng lạm dụng ưu thế để chi phối
thị trường mà vẫn đảm bảo quyền tự chủ của các doanh nghiệp. Trong các tổng công ty
độc quyền cần phải tách bộ phận xây dựng hoạch định chính sách với bộ phận kiểm
tra, giám sát thực hiện chính sách để có một chính sách kinh doanh có hiệu quả, khách
quan.
Thứ bảy: cần thành lập các hiệp hội người tiêu dùng với những hoạt động chủ yếu
là cung cấp thông tin phục vụ người tiêu dùng và kịp thời phát hiện những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Các hiệp hội này sẽ là đối trọng của các
doanh nghiệp khống chế thị trường. Kinh nghiệm các nước cho thấy hoạt động bảo vệ
lợi ích người tiêu dùng hỗ trợ rất tốt cho việc duy trì tốt mơi trường cạnh tranh lành
mạnh. Bảo vệ lợi ích người tiêu dùng và cạnh tranh là 2 vấn đề liên quan mật thiết đến
nhau.

20



×