Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Luận văn đánh giá tài nguyên đất phục vụ phát triển bền vững nông nghiệp huyện phú bình, tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.24 MB, 120 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu
Đất là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên ban tặng con người,
được coi là tài sản của mỗi một quốc gia, dân tộc, tư liệu sản xuất chủ yếu, đối tượng
và cũng là sản phẩm của lao động. Hầu hết các sản phẩm thu được trong quá trình sản
xuất nơng nghiệp đều phải thơng qua đất. Trong sản xuất nông nghiệp, tài nguyên đất
là tư liệu sản xuất q giá, cơ bản và khơng gì thay thế được. Có thể nói sự phát triển
của con người ln gắn liền với đất.
Sử dụng hợp lý tài nguyên đất trong sản xuất, quy hoạch và phát triển kinh tế xã hội là vấn đề hết sức quan trọng, không chỉ đối với hiện tại mà cịn có ý nghĩa lâu
dài trong tương lai. Vì vậy muốn quản lý và sử dụng đất đai hợp lý cần phải đánh giá
tài nguyên đất đai, làm căn cứ khoa học cho việc quy hoạch, sử dụng bền vững nguồn
tài nguyên quan trọng này.
Đánh giá đất đai làm cơ sở cho việc phát huy tối đa tiềm năng của đất đai, đồng
thời sử dụng có hiệu quả và bảo vệ tài nguyên. Tuy có nhiều trường phái, quan điểm
và phương pháp nghiên cứu khác nhau về vấn đề này, song nhìn chung, cơng tác
nghiên cứu và đánh giá đất đai sẽ giúp đạt được nhiều kết quả cao, góp phần tích cực
trong việc sử dụng, quy hoạch, bảo vệ một cách có hệ thống nguồn tài nguyên đất ở
các cấp hành chính khác nhau.
Phú Bình là huyện trung du, nằm ở phía Đơng Nam của tỉnh Thái Nguyên với
20 đơn vị hành chính gồm 19 xã và 1 thị trấn. Huyện có nhiều tiềm năng phát triển
nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.
Trong những năm gần đây, kinh tế nơng thơn của huyện đã có bước phát triển,
song kinh tế nơng nghiệp vẫn đóng vai trị quan trọng. Huyện Phú Bình đã xác định
mục tiêu phát triển sản xuất nông nghiệp vẫn là chủ lực, mũi nhọn trong phát triển cơ
cấu kinh tế của huyện. Mục tiêu của huyện hiện nay là giúp nơng dân thốt nghèo và
làm giàu từ kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên việc đầu tư cho sản xuất nơng nghiệp cịn
hạn chế, việc khai thác tiềm năng, thế mạnh đất đai của huyện chưa cao. Trong điều
kiện hiện nay để thúc đẩy và phát huy tiềm năng, lợi thế tài nguyên đất của huyện
trong phát triển nơng nghiệp, góp phần phát triển sản xuất nơng nghiệp bền vững của
huyện thì việc đánh giá tài nguyên đất nhằm quy hoạch, sử dụng hợp lý tài nguyên đất
trên địa bàn nghiên cứu là việc rất cần thiết.


Vấn đề sử dụng hợp lý tài nguyên đất có hiệu quả nhằm đem lại những giá trị
cao trong sản xuất nơng nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng đối với huyện đặc biệt hướng
đến nông nghiệp bền vững đang trở thành xu thế tất yếu trên toàn cầu. Xuất phát từ ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thông tin – ĐHTN




nghĩa thực tiễn và nhu cầu sử dụng đất cho phát triển sản xuất nơng nghiệp bền vững
huyện Phú Bình, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Đánh giá tài nguyên đất
phục vụ phát triển bền vững nông nghiệp huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá tài nguyên đất huyện Phú Bình cho sử dụng hợp lý tài nguyên đất,
phục vụ phát triển bền vững sản xuất nông nghiệp của huyện.
- Đề xuất hướng sử dụng tài nguyên đất trên quan điểm phát triển bền vững
sản xuất nông nghiệp.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu trên, đề tài tập trung nghiên cứu, giải quyết những
nhiệm vụ cơ bản sau:
- Thu thập, phân tích, hệ thống hóa các tài liệu, tư liệu có liên quan đến đất
nơng nghiệp huyện Phú Bình.
- Tổng quan cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
- Điều tra, đánh giá các đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội có liên quan
đến việc sử dụng đất nơng nghiệp.
- Phân tích các loại hình sử dụng đất địa phương, đánh giá một số loại hình sử
dụng đất nơng nghiệp từ đó đề xuất hướng phát triển các loại hình nơng nghiệp hợp lý
trên địa bàn huyện Phú Bình.
3. Ý nghĩa của đề tài
- Về mặt khoa học: đề tài làm rõ cơ sở lý luận của việc đánh giá tài nguyên đất

phục vụ phát triển bền vững nơng nghiệp huyện Phú Bình.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần đánh giá tài nguyên
đất đai nhằm xác định mức độ thích nghi đất đai, đặc tính phù hợp của đất đai và các
loại hình sử dụng đất nơng nghiệp điển hình cho hiện tại và tương lai. Đề tài xây dựng
bản đồ thổ nhưỡng, bản đồ đơn vị đất đai và bản đồ thích hợp đất đai trên địa bàn
huyện nhằm phục vụ công tác đánh giá tài nguyên đất nơng nghiệp. Từ kết quả nghiên
cứu, đề tài góp phần đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
đất nông nghiệp theo hướng bền vững.
4. Cấu trúc của đề tài
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu đề tài
Chương 2: Đối tượng, nội dung, quan điểm và phương pháp nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thơng tin – ĐHTN




Chương 3: Kết quả nghiên cứu
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Những khái niệm cơ bản về đất và sử dụng đất
- Khái niệm về đất và đất sản xuất nông nghiệp: Đất là một phần của vỏ trái
đất, là lớp phủ trên bề mặt lục địa mà bên dưới là đá và khống vật, bên trên là thảm
thực bì và khí quyển [6]. Đất là lớp mặt tươi xốp của lục địa có khả năng sản sinh ra
sản phẩm của cây trồng. Đất là lớp phủ thổ nhưỡng là thổ quyển, là một vật thể tự
nhiên, mà nguồn gốc của thể tự nhiên đó là do hợp điểm của 4 thể tự nhiên khác của
hành tinh là thạch quyển, khí quyển, thủy quyển và sinh quyển. Sự tác động qua lại
của bốn quyển trên và thổ quyển có tính thường xun và cơ bản [6].
- Các nhà kinh tế, thổ nhưỡng và qui hoạch Việt Nam cho rằng: “Đất đai là
phần trên mặt của vỏ trái đất mà ở đó cây cối có thể mọc được”. Trong phạm vi nghiên
cứu về sử dụng đất, đất đai được nhìn nhận như một nhân tố sinh thái (FAO, 1976)
[23]. Trên quan điểm nhìn nhận của FAO thì đất đai bao gồm tất cả các thuộc tính sinh

học và tự nhiên của bề mặt trái đất có ảnh hưởng nhất định đến tiềm năng và hiện
trạng sử dụng đất. Như vậy, đất được hiểu như một tổng thể của nhiều yếu tố bao gồm:
(khí hậu, địa mạo/địa hình, đất, thổ nhưỡng, thủy văn, thảm thực vật tự nhiên, động vật
tự nhiên, những biến đổi của đất do hoạt động của con người).
Theo William đưa ra định nghĩa: “Đất là lớp tơi xốp của vỏ lục địa có khả năng
sản xuất ra những sản phẩm của cây trồng”. Theo quan điểm này đặc tính cơ bản nhất
của đất là độ phì nhiêu, là khả năng cho sản phẩm.
- Đất đai (land): Là một vùng đất có ranh giới, vị trí, diện tích cụ thể và có các
thuộc tính tương đối ổn định hoặc thay đổi nhưng có tính chất chu kỳ, có thể dự đốn
được có ảnh hưởng tới việc sử dụng đất trong hiện tại và tương lai của các yếu tố tự
nhiên, kinh tế, xã hội như thổ nhưỡng, khí hậu, địa hình, địa mạo, địa chất, thủy văn,
thực vật, động vật cư trú và hoạt động sản xuất của con người [25].
Theo học thuyết sinh thái học cảnh quan (Landscape Ecology) đất đai được coi
là vật mang (Carrier) của hệ sinh thái (Eco-System). Trong đánh giá phân hạng, đất đai
được định nghĩa như sau: “Một vùng hay khoanh đất được xác định về mặt địa lý là
một diện tích bề mặt của Trái Đất với những thuộc tính ổn định hoặc thay đổi có tính
chất chu kì có thể dự đốn được của sinh quyển bên trên, bên trong và bên dưới nó
như là: khơng khí, đất, điều kiện địa chất, thủy văn, thực vật và động vật cư trú, những
hoạt động hiện nay và trước đây của con người, ở chừng mực mà những thuộc tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




này có ảnh hưởng, có ý nghĩa tới việc sử dụng vạt đất đó của con người hiện tại và
trong tương lai”.
Đất theo nghĩa thổ nhưỡng là vật thể thiên nhiên có cấu tạo độc lập lâu đời, hình
thành do kết quả của nhiều yếu tố: đá mẹ, sinh vật, khí hậu, địa hình, thời gian và con
người. Thành phần cấu tạo của đất gồm các hạt khoáng chiếm 40%, hợp chất humic 5%,
khơng khí 20% và nước 35%. Giá trị tài nguyên đất được đo bằng số lượng diện tích

(ha, km2) và độ phì (độ màu mỡ thích hợp trồng cây công nghiệp và lương thực).
- Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu trong nước và thế giới cho rằng: Đất
nơng nghiệp là tồn bộ diện tích đất được xác định chủ yếu để sử dụng và sản xuất
nông nghiêp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và nghiên cứu trong khoa
học về nông nghiệp.
- Chất lượng đất đai (land quality): Một thuộc tính của đất có ảnh hưởng tới tính
bền vững đất đai đối với một kiểu sử dụng đất cụ thể như: đất cát, đất mặn, đất phèn,
đất phù sa (loại đất), độ dốc (0-30; >3-80;…)…[28].
- Khái niệm đánh giá đất đai theo FAO: Đánh giá đất đai là quá trình so sánh,
đối chiếu những tính chất vốn có của vạt/khoanh đất cần đánh giá với những tính chất
đất đai mà loại yêu cầu sử dụng đất cần phải có [18].
- Sử dụng đất (land use): Đó là hoạt động tác động của con người vào đất đai
nhằm đạt kết quả mong muốn trong q trình sử dụng. Trên thực tế có nhiều loại hình
sử dụng đất chủ yếu như đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất trồng cỏ,
đất trồng rừng, đất cảnh quan du lịch…, ngồi ra cịn có đất sử dụng đa mục đích với
hai hay nhiều kiểu sử dụng chủ yếu trên cùng một diện tích đất. Kiểu sử dụng đất có
thể là trong hiện tại nhưng cũng có thể là trong tương lai, nhất là khi các điều kiện kinh
tế, xã hội, cơ sở hạ tầng, tiến bộ khoa học thay đổi. Trong mỗi kiểu sử dụng đất thường
gắn với những đối tượng cây trồng hay vật nuôi cụ thể [18].
- Yêu cầu sử dụng đất đai (land use requirements - LUR) Những đòi hỏi về đặc
điểm và tính chất đất đai để đảm bảo cho mỗi loại sử dụng đất đưa vào đánh giá có thể
phát triển một cách bền vững. [28].
- Loại hình/kiểu sử dụng đất đai chính (major kind of land use): Phần chia nhỏ
chủ yếu của sử dụng đất nông nghiệp như: đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp,
đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối, đất nông nghiệp khác. [28].
- Loại/kiểu sử dụng đất (land utilization type - LUT): Một loại sử dụng đất đai
được miêu tả hay xác định theo mức độ chi tiết từ kiểu sử dụng đất chính. Loại sử dụng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





đất đai có liên quan tới mùa vụ, kết hợp mùa vụ hoặc hệ thống cây trồng với các phương
thức quản lý và tưới xác định trong môi trường kỹ thuật và kinh tế - xã hội nhất định [18].
- Loại hình sử dụng đất là bức tranh mơ tả thực trạng sử dụng đất của một vùng
đất với những thuộc tính của các LUT và các yêu cầu sử dụng đất (LUR) của chúng,
LUT được cụ thể hoá bằng kiểu sử dụng đất.
- Hệ thống sử dụng đất (Land Use System – LUS): Sự kết hợp của một loại
sử dụng đất với một điều kiện đất đai riêng biệt tạo thành hai hợp phần khăng khít tác
động lẫn nhau, từ các tương tác này sẽ quyết định các đặc trưng về mức độ và loại chi phí
đầu tư; mức độ, loại cải tạo đất đai và năng suất, sản lượng của loại sử dụng đất. [28].
1.2. Lý luận chung về tiềm năng đất đai
Theo Khoản 2 Điều 3 Thông tư 35/2014/TT-BTNMT thì tiềm năng đất đai là
khả năng về số lượng, chất lượng đất cho mục đích sử dụng đất.
Trong đó tiềm năng về số lượng là khả giảm dần diện tích đất chưa sử dụng ở
mức độ tối đa nhằm khai thác để đưa vào các mục đích khác nhau, đáp ứng chocác yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Tiềm năng về chất lượng đất đai là khả năng khai thác về chiều sâu nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng đất (thâm canh, tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng).
Để có thể khai thác tối đa tiềm năng về đất đai cần phải đầu tư cải tạo với thời
gian dài, đó là mục tiêu chung.
Q trình sản xuất nông nghiệp liên quan chặt chẽ với các yếu tố tự nhiên như
đặc điểm thổ nhưỡng, tính chất lý, hố học của đất. Ngồi ra, hiệu quả đem lại từ việc
bố trí hợp lý cơ cấu cây trồng – vật nuôi, mùa vụ sản xuất... tạo ra các vùng chuyên
canh sản xuất sản phẩm hàng hoá và nguyên liệu chế biến, đồng thời còn phụ thuộc
vào các điều kiện khác như: chế độ nước, khả năng tưới tiêu, điều kiện địa hình, vị trí
phân bố trong khơng gian, vốn, lao động...
Việc nghiên cứu tiềm năng đất đai thích hợp cho các loại hình sử dụng đất có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong q trình sản xuất nơng nghiệp, nhằm bố trí cây trồng
hợp lý, mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội cao và sử dụng đất bền vững. Q trình

nghiên cứu tiềm năng thích hợp đất đai được dựa trên cơ sở sau:
- Xác định các khoanh đất, vùng đất (đơn vị đất đai) mà trong đó có sự đồng
nhất tương đối của từng yếu tố tự nhiên và có sự phân biệt của một hay nhiều yếu tố tự
nhiên so với vùng lân cận.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




- Xác định các loại hình sử dụng đất, trên cơ sở kết quả phân tích hiệu quả (về
kinh tế, xã hội, môi trường) của từng hệ thống sử dụng đất, lựa chọn các hệ thống sử
dụng đất chính để đánh giá khả năng thích hợp của đất đối với các hệ thống sử dụng
đất được lựa chọn.
- Xác định yêu cầu sử dụng đất của các loại hình sử dụng trên cơ sở các chỉ
tiêu, yếu tố đánh giá về điều kiện hạn chế được lựa chọn (điều kiện hạn chế của các chỉ
tiêu, yếu tố đánh giá đối với từng loại hình sử dụng đất).
- Đối chiếu từng yêu cầu sử dụng đất của các loại hình sử dụng với các đặc tính
của đơn vị đất đai, từ đó xác định khả năng thích hợp của từng đơn vị đất đai.
1.3. Lý luận chung về đánh giá tài nguyên đất đai phục vụ phát triển các loại hình
sử dụng đất
1.3.1. Đánh giá tài nguyên đất đai
Đánh giá tiềm năng đất đai là một bộ phận của công tác đánh giá tài nguyên môi
trường tự nhiên mà bản chất chính là việc nghiên cứu, xem xét, xác định và phân loại
giá trị (mức độ thuận lợi, thích nghi, phong phú) của loại tài nguyên này trên mỗi vùng
lãnh thổ đối với một số yêu cầu KT-XH nhất định; từ đó có thể đưa ra những kiến nghị
về khả năng khai thác và SDHL tài nguyên đất đai cho mục đích nào đó. Căn cứ vào
mục đích cụ thể mà hoạt động đánh giá tài nguyên đất đai có thể được thực hiện ở từng
giai đoạn từ thấp đến cao (hình 1.1): Đánh giá chung, Đánh giá mức độ thuận lợi (thích
nghi) của tài nguyên đất đai đối với các hoạt động KT-XH, cụ thể ở đây là phát triển
ngành nông, lâm nghiệp (NLN) với hệ thống cây trồng phù hợp với điều kiện, tài

nguyên đất đai của từng địa phương; Đánh giá kinh tế kĩ thuật là giai đoạn cao nhất, đề
cập chi tiết đến giá trị và hiệu quả kinh tế của các chủ thể được đánh giá.
Nhìn chung, mỗi giai đoạn đánh giá có những đặc trưng riêng, địi hỏi phải có
những phương pháp riêng và cho những kết quả khác nhau. Mục tiêu cao nhất của cơng
tác đánh giá là khai thác có hiệu quả nhất tài nguyên đất đai nói riêng và TNTN nói
chung, đồng thời vẫn đảm bảo được tính bền vững của mơi trường sinh thái và xã hội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




(1) Mục tiêu, nhiệm vụ

(2a) Xác định đặc điểm, nhu cầu
sinh thái của đối tượng nghiên
cứu: loại hình SDĐ

(2b) Thống kê giá trị
tài nguyên đất đai

(3) Lựa chọn chỉ tiêu đánh giá

(4) Đánh giá thành phần

(5) Đánh giá chung

(6) Đánh giá tổng hợp

Không phù hợp


(7) Kiểm chứng thực tế
thực tiễn

Phù hợp

với thực tiễn

(8) Kiến nghị sử dụng

Hình 1.1: Quy trình đánh giá tài nguyên đất đai [9]
Với mục tiêu đã được xác định, các phương pháp đánh giá tài nguyên đất đai
phải tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản sau: Phải đảm bảo tính khoa học của việc
đánh giá thông qua việc xác định giá trị và quy luật phân hố tài ngun đất đai; coi
các thơng tin đất đai đúc kết được từ số liệu nhiều năm của các cơ quan chuyên ngành
là cơ sở chủ yếu của việc đánh giá; đảm bảo mối liên hệ chặt chẽ và nhất quán giữa giá
trị, quy luật phân hoá tài nguyên đất đai và các yêu cầu của hoạt động sản xuất, đời
sống con người thông qua kết quả của việc đánh giá; để phát triển kinh tế sinh thái thì
hoạt động đánh giá, khai thác và bảo vệ tài nguyên đất đai phải thống nhất biện chứng
với nhau.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




1.3.2. Phương pháp luận đánh giá tài nguyên đất đai cho phát triển sản xuất nơng,
lâm nghiệp
Q trình đánh giá tài nguyên đất đai cho phát triển loại hình sử dụng đất được
thực hiện qua nhiều bước: xác định đối tượng, mục đích, nhiệm vụ đánh giá; nguyên

tắc đánh giá, phương pháp đánh giá và các bước tiến hành đánh giá.
1.3.2.1. Đối tượng đánh giá
Đối tượng đánh giá là các đơn vị đất đai. Khi đánh giá đất đai cho phát triển cây
trồng nông, lâm nghiệp của vùng ở bản đồ đất đai tỉ lệ 1: 25.000, đối tượng đánh giá là
các đơn vị đất đai. Đánh giá đất đai cho một loại cây trồng cụ thể ở bản đồ đơn vị đất
đai tỉ lệ 1: 25.000, đối tượng đánh giá là đơn vị đất đai - thổ nhưỡng.
Tác giả lựa chọn 7 loại hình sử dụng đất làm đối tượng đánh giá. Vì các loại
hình này hiện là những loại hình sử dụng đất được nhà nước khuyến khích phát triển,
đem lại hiệu quả kinh tế cao, là loại hình sản xuất đặc trưng cho huyện Phú Bình.
Hiện nay, huyện Phú Bình đang có nhu cầu phát triển các loại hình sử dụng đất này,
nhưng cịn thiếu cơ sở khoa học đánh giá phục vụ mục đích thực tiễn.
1.3.2.2. Mục đích, nhiệm vụ và nguyên tắc đánh giá
* Mục đích đánh giá tài nguyên đất đai nhằm xác định mức độ thuận lợi của
các đơn vị đất đai huyện Phú Bình, làm cơ sở cho việc đề xuất kiến nghị sử dụng tài
nguyên đất đai hợp lý, đem lại hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo môi trường sinh thái,
hướng đến PTBV.
* Nhiệm vụ đánh giá tài nguyên đất đai nhằm tìm ra loại hình sử dụng đất hợp
lý, đem lại hiệu quả cao.
* Nguyên tắc đánh giá tài nguyên đất đai, tác giả áp dụng các nguyên tắc:
Nguyên tắc tổng hợp, nguyên tắc khách quan, nguyên tắc thích nghi tương đối.
1.3.2.3. Nội dung và các bước tiến hành đánh giá
a. Nội dung đánh giá
Nội dung đánh giá tài nguyên đất đai là đánh giá các loại đất đai cho phát triển các
loại hình sử dụng đất cụ thể, đề xuất định hướng SDHL và hiệu quả tài nguyên đất đai.
b. Các bước tiến hành đánh giá
Đánh giá đất đai được tiến hành qua các bước sau: Lựa chọn và xây dựng hệ
thống chỉ tiêu đánh giá; xây dựng thang điểm, hệ số tầm quan trọng của yếu tố; xác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thông tin – ĐHTN





định phương pháp đánh giá và vận dụng vào đánh giá đất đai lãnh thổ nghiên cứu. Nội
dung các bước như sau:
- Lựa chọn và xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá: Khi đánh giá đất đai cho
phát triển các loại hình sử dụng đất, tác giả căn cứ vào đặc trưng sinh thái loại cây
trồng để lựa chọn hệ thống chỉ tiêu chi tiết nhằm mục đích đánh giá một cách phù hợp
và đúng đắn. Các yếu tố đất đai được lựa chọn để đánh giá như: loại đất, độ dốc, thành
phần cơ giới, tầng dày, hàm lượng hữu cơ, độ pH, và chế độ tưới. Trong đó với các
loại hình đất phục vụ phát triển trồng lúa, rau màu, cây vụ đơng: loại đất có trọng số là
3; thành phần cơ giới, tầng dày, hàm lượng hữu cơ và chế độ tưới có trọng số là 2; các
yếu tố cịn lại có trọng số là 1. Riêng với các loại hình sử dụng đất khác (cây cơng
nghiệp lâu năm, cây lâm nghiệp) chủ yếu trông chờ vào nước trời nên chế độ tưới có
trọng số là 1, các yếu tố khác trọng số giữ nguyên.
- Xây dựng thang điểm, bậc trọng số trong đánh giá: Thang điểm cho từng chỉ tiêu
được xác định thông qua đặc điểm và vai trò của từng chỉ tiêu đối với đối tượng đánh giá.
Thang điểm được chia thành 3 bậc và có điểm số tương ứng với từng mức độ thích nghi.
Trọng số của các chỉ tiêu đánh giá được xác định dựa vào kết quả phân tích
mức độ ảnh hưởng của từng chỉ tiêu được lựa chọn đối với loại hình sản xuất; dựa vào
kết quả tổng hợp ý kiến của các chuyên gia, thang điểm và bậc trọng số được chia
thành 3 cấp (bảng 1.1):
Bảng 1.1: Thang điểm và bậc trọng số của chỉ tiêu đánh giá
STT

Thang điểm

Bậc trọng số

Mức độ


Điểm

Mức độ

1

Rất thích nghi

3

Ảnh hưởng mang tính chất quyết định

3

2

Thích nghi

2

Ảnh hưởng mạnh

2

3

Ít thích nghi

1


Ít ảnh hưởng hoặc khơng đáng kể

1

Bậc

- Lựa chọn phương pháp đánh giá
+ Cánh tính điểm đánh giá
Đánh giá tiềm năng đất đai cho mục đích phát triển loại hình sử đụng đất, đề tài
vận dụng cách tính điểm thành phần bằng cơng thức trung bình cộng.
Điểm trung bình cộng được đánh giá theo cơng thức sau:
DA 

1 n
 K i Di
n i 1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN

(I)



Trong đó: DA: Điểm đánh giá chung của địa tổng thể A; Di: Điểm đánh giá yếu
tố thứ i; Ki: Hệ số tầm quan trọng của yếu tố thứ i; i: yếu tố đánh giá, i=1,2,...,n.
Để đơn giản cho quá trình đánh giá, các đơn vị đất đai chứa đựng yếu tố giới
hạn được xác định đối với loại cây trồng đánh giá và xếp chúng vào nhóm khơng thích
nghi. Sau đó, tiếp tục đánh giá các đơn vị đất đai còn lại và phân chia chúng theo các
cấp độ thích nghi khác nhau cho từng loại cây trồng.
- Phân cấp thang điểm

Đơn vị đất đai có điểm đánh giá chung càng cao càng thích nghi đối với loại
hình sử dụng đất được đánh giá. Từ kết quả đánh giá thích nghi đất đai cho các loại
hình, các mức độ thích nghi được chia thành 3 cấp. Khoảng cách điểm ΔD của các cấp
thích nghi được lấy đều nhau và được tính theo cơng thức sau:
D 

Dm ax  Dm in
M

(II)

Trong đó: Dmax: điểm đánh giá chung cao nhất; Dmin: điểm đánh giá chung thấp
nhất; M: số cấp đánh giá (M = 3)
* Phân loại kết quả đánh giá và đề xuất kiến nghị sử dụng
Sau khi có kết quả đánh giá, phải kiểm chứng với thực tế và phân loại ứng dụng
cho từng đơn vị đất đai. Tức là tiến hành gộp nhóm các đơn vị đất đai có cùng mức độ
thích nghi đối với loại hình sử dụng đất được đánh giá.
1.4. Tầm quan trọng của đánh giá tài nguyên đất đai
Đánh giá tài nguyên đất đai cung cấp thơng tin về đất gắn với mục đích sử
dụng, mức độ thích hợp và thuận lợi, đây là cơ sở để phân bổ, bố trí quỹ đất hợp lý
theo hướng bền vững. Việc nghiên cứu tiềm năng đất đai phải được gắn liền với quá
trình đánh giá đất. Đánh giá tiềm năng đất đai là cơ sở cho hoạch định phát triển bền
vững KT-XH, phát huy lợi thế so sánh theo đặc trưng vùng, miền. Đánh giá tiềm năng
đất đai là cơ sở khoa học cho công tác nghiên cứu tiềm năng, lập quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển các ngành (nông
– lâm nghiệp, xây dựng, giao thông, thương mại, dịch vụ,…) [18].
- Mục tiêu của việc nghiên cứu tiềm năng đất đai:
+ Đánh giá được sự thích hợp của vùng đất với các mục tiêu sử dụng khác nhau
theo mục đích và nhu cầu của con người.
+ Đối với mọi mục đích sử dụng được lựa chọn thì thì mức độ thích hợp và hiệu

quả như thế nào.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thông tin – ĐHTN




+ Có những chỉ tiêu, yếu tố hạn chế gì đối với mục đích sử dụng được lựa chọn [18].
1.5. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu về đánh giá tài nguyên đất đai trên thế
giới và Việt Nam
1.5.1. Các cơng trình nghiên cứu đánh giá tài ngun đất đai trên thế giới
Từ những thập niên 50 của thế kỷ XX, các nhà khoa học không dừng lại ở việc
nghiên cứu đặc điểm đất đai và thống kê tài nguyên đất mà cịn nghiên cứu đánh giá
khả năng thích nghi đất đai để đề xuất sử dụng hợp lý. Năm 1970, nhiều quốc gia ở
châu Âu đã cố gắng phát triển các hệ thống đánh giá đất đai riêng cho quốc gia họ, các
nhà khoa học đã quan tâm đặc biệt đến phương pháp đánh giá đất đai và xem như một
trong những chuyên ngành nghiên cứu quan trọng. Các nước như Mỹ, Anh, Canada,
Ấn Độ, Ba Lan, Liên Xô cũ, Bungaria đã nghiên cứu đánh giá đất đai, xác định khả
năng thích hợp, ít thích hợp và khơng thích hợp cho sản xuất nông - lâm nghiệp dựa
vào các chỉ tiêu lựa chọn riêng của từng quốc gia [15].
Qua đánh giá đất đai, các nhà nghiên cứu thấy rằng, cần có sự thống nhất và
tiêu chuẩn hóa việc đánh giá đất đai trên tồn cầu. Vì vậy đã hình thành hai ủy ban
nghiên cứu là Hà Lan và FAO (Rome,Ý); kết quả là một dự thảo đầu tiên ra đời
(FAO,1972), sau đó được Brinkman và Smyth soạn lại và in ấn năm 1973.
Năm 1975 hội nghị tại Rome có những ý kiến đóng góp cho bản dự thảo năm
1973 đã được các chuyên gia hàng đầu về đánh giá đất đai của FAO biên soạn lại để
hình thành nội dung phương pháp về đánh giá đất đai đầu tiên của FAO, cơng bố năm
1976, sau đó được bổ sung và chỉnh sửa năm 1983. Bên cạnh tài liệu tổng quát của
FAO, một số hướng dẫn cụ thể khác về đánh giá đất đai cho từng đối tượng chuyên
biệt cũng được FAO ấn hành như:
Đánh giá đất đai cho nền nông nghiệp nhờ mưa (FAO, 1983); Đánh giá đất đai

cho nền nơng nghiệp có tưới (FAO, 1985); Đánh giá đất đai cho trồng trọt đồng cỏ
quảng canh (FAO, 1989); Đánh giá đất đai cho mục tiêu phát triển (FAO,1990); Đánh
giá đất đai và phân tích hệ thống canh tác cho việc quy hoạch sử dụng đất (FAO,1992).
Hiện nay, công tác đánh giá đất đai đã trở thành một khâu trọng yếu trong các
hoạt động đánh giá tài nguyên hay quy hoạch sử dụng đất (FAO,1994). Song song với
sự phát triển công nghệ, công tác đánh giá đất đai được sự hỗ trợ mạnh mẽ của kỹ thuật
máy tính và hệ thống thông tin địa lý (GIS), trở thành công cụ cần thiết cho việc thẩm
định và ước lượng tiềm năng sản xuất của đất đai cho mục tiêu phát triển bền vững.
Tiếp theo những thành tựu nghiên cứu của ngành khoa học đất, công tác đánh
giá tiềm năng đất đai trên thế giới đã được quan tâm và chú trọng. Các phương pháp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




đánh giá đất mới đã dần phát triển thành lĩnh vực nghiên cứu liên ngành mang tính hệ
thống (tự nhiên - kinh tế - xã hội) nhằm kết hợp các kiến thức khoa học về nguồn tài
nguyên đất và việc sử dụng đất. Đã có rất nhiều các phương pháp đánh giá đất đai
khác nhau, nhưng nhìn chung đều dựa trên phương thức đánh giá theo hai khuynh
hướng chính và ba phương pháp cơ bản sau:
- Đánh giá đất đai về mặt tự nhiên nhằm xác định tiềm năng và mức độ thích
hợp của đất đai với các mục đích sử dụng đất cụ thể.
- Đánh giá đất đai về mặt kinh tế là đánh giá hiệu quả về mặt kinh tế cho các
loại hình sử dụng đất đai xác định, trên cơ sở tính tốn các chỉ tiêu kinh tế nhằm so
sánh về mặt giá trị trong các kiểu sử dụng đất ở cùng một loại để tìm ra kiểu sử dụng
đất có hiệu quả nhất. Đánh giá đất đưa ra nhiều phương pháp khác nhau để giải thích
hoặc dự đoán việc sử dụng tiềm năng đất đai, song có thể tóm tắt đánh giá đất trong ba
phương pháp cơ bản sau:
+ Đánh giá về mặt tự nhiên theo định tính, chủ yếu dựa trên sự xét đốn
chun mơn.

+ Đánh giá đất dựa theo phương pháp thông số xác định các đặc tính, tính chất đất đai.
+ Đánh giá đất theo định lượng dựa trên các mơ hình mơ phỏng.
 Tình hình đánh giá đất đai ở Liên Xơ (cũ)
Theo quan điểm nghiên cứu của Docutraev (1846 - 1903), để đánh giá đất đai
cần trải qua 3 bước:
- Đánh giá lớp phủ thổ nhưỡng (so sánh thổ nhưỡng theo tính chất tự nhiên).
- Đánh giá khả năng sản xuất của đất (yếu tố được xem xét kết hợp với yếu tố
khí hậu, độ ẩm, địa hình).
- Đánh giá kinh tế đất (chủ yếu là đánh giá khả năng sản xuất hiện tại của đất).
Quan điểm của Docutraev áp dụng phương pháp cho điểm các yếu tố, dựa trên
cơ sở thang điểm đã được xây dựng thống nhất. Dựa trên quan điểm khoa học của ơng,
các thế hệ học trị của ơng đã bổ sung, hồn thiện dần, do đó phương pháp nghiên cứu,
đánh giá đất của Docutraev đã được thừa nhận và phổ biến ra nhiều nước trên thế giới.
Ngoài những quan điểm trên, phương pháp nghiên cứu, đánh giá đất của Docutraep
cũng còn một số hạn chế như quá đề cao khả năng tự nhiên của đất mà chưa xem xét
đầy đủ các khía cạnh kinh tế - xã hội của việc sử dụng đất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




 Tình hình đánh giá đất đai ở Mỹ
Cơ sở đánh giá đất đai của Mỹ dựa vào các yếu tố hạn chế trong sử dụng đất,
chúng được phân ra thành 2 nhóm:
- Nhóm các yếu tố hạn chế vĩnh viễn: bao gồm những hạn chế không dễ thay
đổi và cải tạo được như: độ dốc, độ dày tầng đất, lũ lụt và khí hậu khắc nghiệt…
- Nhóm những yếu tố hạn chế tạm thời: có khả năng khắc phục được bằng các
biện pháp cải tạo trong quản lý đất đai như độ phì, thành phần dinh dưỡng và những
trở ngại về tưới tiêu…
Nguyên tắc chung của phương pháp là các yếu tố nào có mức độ hạn chế lớn là

yếu tố quyết định mức độ thích hợp mà khơng cần tính đến những khả năng thuận lợi
của các yếu tố khác có trong đất. Nghiên cứu tiềm năng đất đai ở Mỹ được ứng dụng
rộng rãi theo 2 phương pháp là: Phương pháp tổng hợp và phương pháp nghiên cứu đất
theo từng yếu tố [15].
 Tình hình đánh giá đất đai ở Canada
Ở Canada việc đánh giá đất dựa vào các tính chất của đất và năng suất ngũ cốc
nhiều năm (lấy cây lúa mì làm tiêu chuẩn); nếu có nhiều loại cây thì dùng hệ số quy
đổi ra lúa mì. Trong nghiên cứu đất đai, các chỉ tiêu thường được chú ý gồm: thành
phần cơ giới, cấu trúc đất, mức độ xâm nhập mặn vào đất, xói mịn, đá lẫn,… Chất
lượng đất đai được đánh giá bằng thang điểm 100 theo tiêu chuẩn trồng lúa mì. Trên
cơ sở đó phân chia khả năng sử dụng đất theo 7 nhóm: trong đó nhóm cấp I thuận lợi
nhất cho sử dụng (ít hoặc hầu như khơng có yếu tố hạn chế), tới nhóm cấp VII gồm
những loại đất khơng thể sản xuất nơng nghiệp được (có nhiều yếu tố hạn chế) [15].
 Tình hình đánh giá đất đai ở Ấn Độ
Ở Ấn Độ người ta thường áp dụng phương pháp tham biến để biểu thị mối quan
hệ về sức sản xuất của đất với các yếu tố đặc tính đất độ dày, tầng đất, thành phần cơ
giới, độ dốc và các yếu tố khác,… dưới dạng phương trình tốn học.
Kết quả phân hạng cũng được thể hiện dưới dạng phần trăm hoặc cho điểm.
Trong phương pháp này, đất đai sản xuất được chia thành 6 nhóm:
- Nhóm siêu tốt: đạt 80 - 100 điểm, có thể trồng bất kỳ loại cây nào cũng cho
năng suất cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




- Nhóm tốt: đạt 60 - 79 điểm, có thể trồng bất kỳ loại cây nào nhưng cho năng
suất khá (thấp hơn nhóm siêu tốt).
- Nhóm trung bình: đạt 40-59 điểm, đất trồng được một số nhóm cây trồng (cho
năng suất trung bình).

- Nhóm nghèo: đạt 20 - 39 điểm, đất chỉ trồng một số loại cây cỏ.
- Nhóm rất nghèo: đạt 10- 19 điểm, đất chỉ làm đồng cỏ chăn thả gia súc.
- Nhóm cuối cùng: đạt < 10 điểm, đất không thể dùng vào sản xuất nông nghiệp
được mà phải sử dụng cho các mục đích khác [15].
Như vậy, các nước trên thế giới đều đã đánh giá về đất và phân hạng đất đai ở
mức vĩ mô tới vi mô, từ đánh giá chung cả nước cho đến chi tiết ở các vùng cụ thể, các
loại hình sử dụng đất đặc thù.
 Đánh giá đất đai theo FAO
Nhận thức rõ vai trò quan trọng, cấp thiết của thực tiễn sản xuất là phải có những
giải pháp hợp lý trong sử dụng đất nhằm hạn chế và ngăn chặn những tổn thất đối với tài
nguyên đất đai, về tính cấp thiết của đánh giá đất đai, phân hạng đất đai làm cơ sở cho
công tác quy hoạch sử dụng đất, qua quá trình nghiên cứu, các chuyên gia về đánh giá đất
đã nhận thấy cần có những cuộc thảo luận quốc tế nhằm đạt được sự thống nhất và tiêu
chuẩn hóa các phương pháp đánh giá đất, tổ chức Nông Lương của Liên Hiệp quốc
(FAO) đã tổ chức tổng hợp kinh nghiệm của nhiều nước và đề ra phương pháp đánh giá
đất đai dựa trên cơ sở phân hạng thích hợp đất đai. Cơ sở của phương pháp này là so sánh
giữa yêu cầu sử dụng đất với chất lượng đất, gắn với phân tích các khía cạnh về kinh tế,
xã hội, môi trường để lựa chọn phương án sử dụng đất tối ưu [18].
- Nguyên tắc đánh giá đất đai theo FAO:
+ Đánh giá đất đai đòi hỏi phương pháp kết hợp đa ngành, trên quan điểm tổng
hợp với sự phối hợp và tham gia của các nhà khoa học ở các lĩnh vực khác nhau như
nông học, lâm nghiệp, kinh tế và xã hội học,…rất cần thiết cho việc đánh giá bao quát
và chính xác.
 Việc đánh giá đất phải xem xét tổng hợp các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội,
các loại hình sử dụng đất được lựa chọn phải phù hợp với mục tiêu phát triển, bối cảnh
và đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội của vùng nghiên cứu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thơng tin – ĐHTN





+ Đánh giá đất đai phải dựa trên cơ sở phát triển bền vững: Trong quá trình
đánh giá phải xem xét đến các q trình thối hóa đất và ơ nhiễm đất, hiệu quả kinh tế
- xã hội và môi trường của loại hình sử dụng đất.
+ Đánh giá đất đai bao hàm cả việc so sánh hai hoặc nhiều kiểu sử dụng đất
khác nhau. Có thể so sánh giữa vùng sản xuất nông nghiệp năng suất cao với phát triển
các khu cơng nghiệp, nhà máy,…để lựa chọn loại hình thích hợp nhất.
 Các loại hình sử dụng đất cần được mơ tả và định rõ các thuộc tính về kỹ
thuật, kinh tế, xã hội.
+ So sánh các LUT khác nhau trong vùng nghiên cứu, mức độ thích hợp của đất
đai được đánh giá và phân hạng cho các LUT cụ thể:
 Việc đánh giá khả năng thích nghi đất đai yêu cầu có sự so sánh hiệu quả kinh
tế giữa các LUT về lợi nhuận thu được và đầu tư cần thiết (phân bón, lao động, thuốc
trừ sâu, máy móc…).
(1) Đối với đất nơng nghiệp:
- Mức độ độ thích hợp của đất đai được đánh giá và phân hạng cho các loại
hình sử dụng đất (các LUT cụ thể).
- Việc đánh giá đòi hỏi sự so sánh giữa lợi nhuận thu được và đầu tư cần thiết
trên các loại đất khác nhau
- Yêu cầu phải có quan điểm tổng hợp, nghĩa là phải có sự phối hợp và tham gia
đầy đủ của các nhà nông học,lâm nghiệp, kinh tế và xã hội học.
- Việc đánh giá đất phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của
vùng, khu vực đất nghiên cứu.
Khả năng thích hợp đưa vào sử dụng phải dựa trên cơ sở bền vững, các nhân tố
sinh thái trong sử dụng đất phải được dùng để quyết định (Bùi Văn Sỹ, 2012), (Đào
Châu Thu và Nguyễn Khang, 1998).
- Yêu cầu đạt được trong đánh giá đất đai theo FAO
+ Thu thập được những thông tin phù hợp về tự nhiên, kinh tế - xã hội của khu
vực nghiên cứu.

+ Đánh giá được sự thích hợp của vùng đất đó với các mục tiêu sử dụng khác
nhau theo mục tiêu và nhu cầu của con người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thông tin – ĐHTN




+ Phải xác định được mức độ chi tiết đánh giá đất theo quy mô và phạm vi quy
hoạch là toàn quốc, tỉnh, huyện hay cơ sở sản xuất.
+ Đánh giá đất có thể thực hiện ở các cấp khác nhau và thể hiện kết quả trên các
bản đồ tỷ lệ khác nhau tùy theo mục đích (Đào Châu Thu và Nguyễn Khang, 1998).
- Các phương pháp đánh giá đất đai theo FAO
+ Sự liên hệ giữa những khảo sát tài nguyên và phân tích kinh tế - xã hội cũng
như đối chiếu với cách thức mà các loại hình sử dụng đất được xây dựng có thể tiến
hành theo phương pháp 2 bước (Two Stage) hoặc phương pháp song song (Paralell).
+ Phương pháp 2 bước: bao gồm bước thứ nhất chủ yếu là đánh giá điều kiện tự
nhiên, sau đó là bước thứ hai bao gồm những phân tích về kinh tế - xã hội.
+ Phương pháp song song: Trong phương pháp này, sự phân tích mối liên hệ giữa
đất đai và loại hình sử dụng đất được tiến hành đồng thời với phân tích kinh tế - xã hội [18].
1.5.2. Khái quát tình hình nghiên cứu đánh giá tài nguyên đất đai ở Việt Nam
* Khái quát về tình hình đánh giá đất đai ở nước ta trước khi ứng dụng quy
trình đánh giá đất theo FAO
Ở Việt Nam, khái niệm về phân hạng đất đã có từ lâu qua việc phân chia “tứ
hạng điền, lục hạng thổ”. Từ xa xưa, trong quá trình sản xuất, nhân dân ta đã đánh giá
đất với cách thức hết sức đơn giản như: đất tốt, đất xấu [13].
Trong thời kỳ Pháp thuộc, việc nghiên cứu đánh giá đất đã được tiến hành ở
những vùng đất đai phì nhiêu, những vùng đất có khả năng khai phá với mục đích xác
định tiềm năng sử dụng để lựa chọn đất lập đồn điền, nông trại. Từ những năm 1930,
các chuyên gia thổ nhưỡng người Pháp đã có những cơng trình nghiên cứu về đất và
sử dụng đất ở vùng Đông Nam Bộ nhằm mục đích cho việc xây dựng các đồn điền cao

su, tiêu biểu là các cơng trình của Henry (1931) [13].
Sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành cơng, hịa bình lập lại, ở miền Bắc,
Vụ Quản lý Ruộng đất, Viện Thổ nhưỡng Nơng hóa, Viện Quy hoạch và Thiết kế
Nông nghiệp đã tiến hành nghiên cứu phân hạng đất các vùng sản xuất nông nghiệp
(áp dụng phương pháp đánh giá đất đai của Docutraep).
Từ đầu những năm 1970, Bùi Quang Toản cùng nhiều nhà khoa học khác của
Viện Thổ nhưỡng Nơng hóa đã nghiên cứu và thực hiện cơng tác phân loại đánh giá
phân hạng đất đai ở 23 huyện, 286 hợp tác xã và 9 vùng chuyên canh. Qua đó đã đề ra
quy trình kỹ thuật gồm 4 bước: (1). Thu thập tài liệu, (2). Vạch khoanh đất (với hợp
tác xã) hoặc khoanh đất (với vùng chuyên canh), (3). Đánh giá và phân hạng chất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




lượng đất, (4). Xây dựng bản đồ phân hạng đất. Các yếu tố tham gia trong đánh giá,
phân hạng đất được chia thành 4 mức độ thích hợp và được phân chia thành 4 hạng.
Có thể khái qt về tình hình quy hoạch sử dụng đất nơng nghiệp và đánh giá
đất nông nghiệp ở Việt Nam trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung (thập kỷ
những năm 60, 70, 80), hầu hết các tỉnh đã xây dựng bản đồ quy hoạch sử dụng đất
nông nghiệp (ngắn, trung và dài hạn) hay bản đồ quy hoạch các cây trồng cụ thể nhằm
phục vụ chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh mình.
Những quy hoạch đó đã góp phần thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phục vụ
da dạng hóa sản phẩm nơng nghiệp, góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp của nước
ta. Tuy nhiên uy hoạch trước đây có nhiều hạn chế, cịn nặng vè thổ nhưỡng (soil), mà
ít hoạc chưa quan tâm đến đất đai (Land), sử dụng đất đai (Land use) và đánh giá đất
đai (Land evaluation) nên những quy hoạch đó chưa có độ chính xác cao và các
phương pháp xây dựng chưa được thống nhất và chuẩn hóa.
* Khái qt về tình hình đánh giá đất đai ở nước ta khi ứng dụng quy trình
đánh giá đất theo FAO (từ năm 1990 đến nay).

Từ đầu những năm 1990, các nhà khoa học đất Việt Nam đã nghiên cứu và
ứng dụng phương pháp đánh giá đất đai của FAO dựa vào điều kiện tự nhiên, kinh tế
- xã hội cụ thể ở Việt Nam. Cho đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, áp dụng
phương pháp đánh giá đất của FAO để đánh giá tài nguyên đất đai trên các phạm vi
khác nhau.
Trong chương trình 48C (1989),Viện Thổ nhưỡng Nơng hóa do Vũ Cao Thái
chủ trì đã nghiên cứu đánh giá, phân hạng đất Tây Nguyên với cây cao su, cà phê, chè,
dâu tằm. Đề tài đã vận dụng phương pháp đánh giá phân hạng đất đai của FAO để
đánh giá khái quát tiềm năng đất đai của vùng (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn, 2009).
Từ năm 1990 đến nay, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp đã thực hiện
nhiều cơng trình nghiên cứu đánh giá đất trên phạm vi toàn quốc với 9 vùng sinh thái
và nhiều vùng chuyên canh theo các dự án đầu tư (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn, 2009). Phương pháp đánh giá đất của FAO đã được nhiều nhà khoa học đất Việt
Nam bước đầu vận dụng thử nghiệm và đã có nhiều kết quả đóng góp cho sự phát triển
nền nơng nghiệp Việt Nam.
Ngồi ra, các nhà khoa học đất cịn ứng dụng phương pháp đánh giá đất đai của
FAO cho cấp tỉnh như ở Hà Tây, Ninh Bình, Bình Định, Gia Lai KonTum, Bạc Liệu,
Cà Mau, Đồng Nai, Bình Định, Tuyên Quang. Cấp huyện có các huyện và xã vùng tái
định cư vùng lòng hồ thuỷ điện Sơn La, dự án nguồn nước Srepok - Đăk Lak, huyện Ơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




Môn (Cần Thơ), huyện Gia Lâm (Hà Nội), huyện Đoan Hùng (Phú Thọ), thị xã Bắc
Ninh, huyện Yên Phong (Bắc Ninh), v.v... và dần dần hoàn thiện phương pháp đánh
giá theo FAO trong điều kiện Việt Nam, phục vụ các mục đích khác nhau theo yêu cầu
của các địa phương, như: phục vụ quy hoạch sử dụng đất; phục vụ chuyển đổi cơ cấu
cây trồng; phục vụ phát triển một số cây đặc sản, cây có giá trị hàng hóa cao, ....[13]

1.5.3. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu về tài nguyên đất nông nghiệp và phát
triển nông nghiệp huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.
Đối với huyện Phú Bình, cho đến nay đã có một số cơng trình nghiên cứu tiêu
biểu về tài nguyên đất nông nghiệp như: “Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất
nông nghiệp 10 năm thực hiện quy hoạch sử dụng đất huyện Phú Bình, tỉnh Thái
Nguyên” của tác giả Đàm Anh. Đề tài nhằm đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội tác động đến việc SDĐ sản xuất nông nghiệp và tình hình biến động, hiệu quả
trong SDĐ sản xuất nơng nghiệp sau 10 năm thực hiện phương án quy hoạch SDĐ của
huyện Phú Bình (giai đoạn 2001-2010), qua đó đề xuất phương hướng, các giải pháp
khả thi trong quy hoạch SDĐ đất nông-lâm nghiệp của huyện. Đề tài “Đánh giá hiệu
quả và đề xuất sử dụng đất nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững tại huyện Phú
Bình - tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Lương Đình Tuyển được thực hiện vào năm 2013
đã bàn về vấn đề hiệu quả sử dụng đất nơng nghiệp của huyện Phú Bình, tuy nhiên
việc đánh giá chỉ thông qua hiệu quả kinh tế, xã hội, mơi trường của các loại hình sử
dụng đất ở thời điểm từ năm 2013 đổ về trước và chưa đi vào nghiên cứu tính chất, đặc
điểm thổ nhưỡng để có thể phát triển các loại hình sử dụng đất nơng nghiệp của huyện.
Đề tài “Đánh giá tình hình biến động sử dụng đất tại huyện Phú Bình, tỉnh Thái
Nguyên trong giai đoạn 2011 – 2016” của tác giả Trần Thành Nam đã đánh giá tình
hình SDĐ, thực trạng biến động SDĐ và các nguyên nhân gây ra biến động đất đai,
qua đó thành lập bản đồ biến động SDĐ, đề xuất giải pháp trong công tác quản lý đất
đai, chính sách hỗ trợ đời sống nhân dân.
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu về tài ngun đất theo hướng nơng
nghiệp bền vững trên địa bàn huyện Phú Bình là khơng nhiều. Chính vì vậy, việc thực
hiện đề tài có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, phục vụ đánh giá tiềm năng tài nguyên
đất đai của huyện trên cơ sở sử dụng phương pháp đánh giá thích hợp của FAO kết
hợp với phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin để xác định đặc điểm của các đơn
vị đất và loại hình sử dụng đất phù hợp cho từng vùng cụ thể. Trên cơ sở đó định
hướng sử dụng hợp lý tài nguyên đất theo hướng phát triển bền vững nông nghiệp và
đưa ra những biện pháp, đề xuất phù hợp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





1.6. Những yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp bị chi phối bởi các điều kiện và quy luật sinh
thái tự nhiên, mặt khác bị kiềm chế bởi các điều kiện, quy luật kinh tế - xã hội và các
yếu tố kỹ thuật. Vì vậy có thể khái qt những điều kiện, nhân tố ảnh hưởng đến đến
hiệu quả sử dụng đất nơng nghiệp gồm 3 nội dung chính sau:
1.6.1. Yếu tố về điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên: Khí hậu, thời tiết, độ phì tự nhiên của đất đai…là yếu tố cơ
bản để xác định cho sử dụng đất nông nghiệp sao cho hiệu quả cao nhất, nó ảnh hưởng
trực tiếp đối với sản xuất nơng nghiệp. Điều kiện tự nhiên mang tính đặc thù riêng của
khu vực, vị trí địa lý của vùng với sự khác biệt về điều kiện tự nhiên khác nhau sẽ quyết
định đến kết quả sản xuất và hiệu quả sử dụng đất đai. Vì vậy trong thực tiễn sử dụng
đất cần phải tuân thủ quy luận tự nhiên, tận dụng những lợi thế, hạn chế những tác động
xấu của tự nhiên nhằm đạt hiệu quả cao nhất về kinh tế - xã hội và môi trường.
1.6.2. Yếu tố về điều kiện kinh tế, xã hội
Bao gồm các yếu tố như chính sách chế độ xã hội, cơ cấu và cơ chế kinh tế, dân
số và lao động, thông tin và quản lý, chính sách đất đai và mơi trường, lực lượng sản
xuất và trình độ phát triển của kinh tế hàng hóa, cơ cấu kinh tế và phân bố sản xuất, sử
dụng lao động, áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất.
Điều kiện kinh tế xã hội thường có ý nghĩa quyết định, chủ đạo đối với việc sử dụng
đất đai, đầu tư cho phát triển ngành nơng nghiệp nói riêng và các ngành khác nói chung.
1.6.3. Yếu tố về kỹ thuật canh tác
Phương thức sản xuất và biện pháp canh tác là các tác động của con người vào
sử dụng đất đai có hiệu quả. Trên cơ sở nghiên cứu các quy luật tự nhiên để lựa chọn
quy trình kỹ thuật, giống cây con, áp dụng khoa học kỹ thuật hợp lý nhất nhằm đạt
được mục tiêu kinh tế cao nhất và phát triển bền vững.
1.7. Tổng quan về phát triển nông nghiệp bền vững

1.7.1. Cơ sở lý luận của phát triển bền vững trong nơng nghiệp
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về phát triển nông nghiệp bền vững. Cụ thể
như sau:
Trong những năm đầu của thập niên 80, Douglass cho rằng: tùy từng khía cạnh
khác nhau mà nơng nghiệp bền vững được hiểu khác nhau.
Trên khía cạnh kinh tế kỹ thuật: tăng trưởng nông nghiệp bền vững nhấn mạnh
đến việc duy trì tăng năng suất lao động trong dài hạn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




Trên khía cạnh sinh thái: một hệ thống nơng nghiệp làm suy yếu, ô nhiễm, phá
vỡ cân bằng sinh thái của hệ thống tự nhiên một cách không cần thiết thì hệ thống
nơng nghiệp đó khơng bền vững.
Trên khía cạnh môi trường con người: một hệ thống nông nghiệp không cải
thiện được trình độ giáo dục, sức khỏe và dinh dưỡng của người nơng dân thì hệ thống
đó khơng được gọi là bền vững.
Năm 1987, Ủy ban phát triển về môi trường thế giới đưa ra định nghĩa: “Phát
triển bền vững là phát triển đáp ứng được những nhu cầu hiện tại nhưng không làm
tổn thương năng lực đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai”. Năm 1990, Pearce và
Turner cho rằng: “Phát triển nông nghiệp bền vững là tối đa hóa lợi ích của phát triển
kinh tế trên cơ sở ràng buộc về duy trì chất lượng của nguồn lực tự nhiên theo thời
gian”[3].
Qua ba quan điểm trên, chúng ta thấy rằng chưa có sự thống nhất về định nghĩa
của nông nghiệp bền vững giữa các nhà kinh tế học. Khái niệm được cho là hoàn chỉnh
và được nhiều nhà khoa học chấp nhận nhất là khái niệm được FAO đưa ra năm 1989:
“Phát triển bền vững là việc quản lý và bảo tồn cơ sở tài nguyên thiên nhiên, định hướng
thay đổi công nghệ và thể chế theo hướng một phương thức sao cho đạt đến sự thỏa mãn
một cách liên tục những nhu cầu của con người, của những thế hệ hôm nay và mai sau.

Sự phát triển như vậy trong lĩnh vực nông nghiệp (nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản)
chính là sự bảo tồn đất, nước các nguồn gen và thực vật, không bị suy thối mơi trường,
kỹ thuật thích hợp, sinh lợi kinh tế và chấp nhận về mặt xã hội” [3].
Như vậy, phát triển nơng nghiệp bền vững là mơ hình phát triển mà trong đó có
sự gắn kết giữa tăng trưởng nông nghiệp với môi trường tự nhiên và sự nghèo đói, mơi
trường con người ở nơng thơn. Do đó, để nắm được bản chất của phát triển nông nghiệp
bền vững, cần phải phân tích các mối quan hệ giữa nơng nghiệp với các yếu tố sau:
- Với môi trường tự nhiên
Sản xuất nông nghiệp lệ thuộc vào độ màu mỡ của đất đai, chất lượng của
nguồn nước và khí hậu…vì vậy sản xuất nông nghiệp bền vững phản ánh mong muốn
của xã hội về giữ gìn mơi trường tự nhiên và lợi ích của sản xuất nơng nghiệp. Vấn đề
quan trọng nhất là phải cân nhắc, lựa chọn phương án sao cho cân bằng được giữa lợi
ích kinh tế từ phát triển nơng nghiệp và lợi ích của mơi trường tự nhiên với chức năng
cân bằng sinh thái. Các nước phát triển đã và đang định hướng phát triển nông nghiệp
nhấn mạnh đến vấn đề sinh thái. Nguyên nhân không phải vì nhu cầu về nơng sản
giảm mà vì sản xuất nông nghiệp đã phá huỷ nghiêm trọng môi trường sinh thái: huỷ
diệt nhiều sinh vật, thay đổi về khí hậu, suy thối hệ thống đất, nguồn nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




Ngày nay, sự phát triển nông nghiệp không chỉ theo quảng canh (tăng sản lượng
bằng cách tăng diện tích canh tác) mà chủ yếu là theo thâm canh (tăng sản lượng từ
việc thâm canh trên một đơn vị diện tích và tăng vụ đối với diện tích được tưới tiêu
chủ động), do đó ngun nhân chính của sự mất cân bằng sinh thái là do phương thức
sản xuất chứ không phải do tốc độ phát triển trong nông nghiệp.
Do yêu cầu về nguyên liệu, lương thực và nhu cầu xuất khẩu ngày càng cao
trong tiến trình cơng nghiệp hố và nâng cao thu nhập cho người nông dân, tăng
trưởng nhanh và ổn định là cần thiết, tuy nhiên tăng trưởng nhanh cần phải đảm bảo ổn

định môi trường sinh thái.
- Nghèo đói ở nơng thơn
Cùng với sự gia tăng của dân số và thất nghiệp, đói nghèo ngày càng trầm
trọng. Vấn đề đáp ứng nhu cầu thiết yếu hiện tại quan trọng hơn rất nhiều so với thoả
mãn nhu cầu trong tương lai. Để có thu nhập, người nơng dân sẵn lịng đáp ứng nhu
cầu của những người có thu nhập cao về những hàng hoá với nguyên vật liệu chính từ
tự nhiên (gỗ, da thú…) bằng cách khai thác nguồn lợi tự nhiên như săn bắn, phá rừng,
đánh bắt mọi loài sinh vật bất kể lớn nhỏ. Hệ quả là mơi trường tự nhiên bị suy thối,
thu nhập tiếp tục giảm và họ lại rơi vào cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo. Như vậy,
một hệ thống nơng nghiệp khơng đảm bảo được mức sống trên mức nghèo đói của
người dân nơng thơn thì khơng thể là một hệ thống nông nghiệp bền vững.
- Với con người ở nông thôn
Tăng trưởng nông nghiệp tạo ra việc làm và thu nhập, một tiền đề quan trọng để
cải thiện tình trạng sức khoẻ và dinh dưỡng của người nông dân. Khi sức khoẻ được
cải thiện sẽ góp phần tăng chất lượng và năng cao suất lao động, như vậy sẽ tác động
trở lại đối với tăng trưởng nông nghiệp. Nếu tăng trưởng nơng nghiệp làm suy thối
mơi trường tự nhiên thì dẫn đến kìm hãm tốc độ tăng trưởng, ảnh hưởng tình trạng cải
thiện sức khoẻ dinh dưỡng của người nơng dân.
Nông nghiệp bền vững là một nền nông nghiệp trong đó các hoạt động của các
tổ chức kinh tế từ việc lập kế hoạch, thực hiện và quản lý các q trình sản xuất, kinh
doanh nơng nghiệp đều hướng đến bảo vệ và phát huy lợi ích của con người và xã hội
trên cơ sở duy trì và phát huy nguồn lực, tối thiểu hố chi phí để sản xuất hiệu quả các
sản phẩm nông nghiệp và hạn chế tác hại của mơi trường, trong khi đó duy trì và
khơng ngừng nâng cao thu nhập cho người nông dân. Như vậy, nơng nghiệp bền vững
đề cập một cách tồn diện và tổng hợp đến cả khía cạnh là kinh tế - xã hội, mơi trường
và con người:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





- Khía cạnh kinh tế - xã hội của nơng nghiệp bền vững: là q trình giảm chi
phí đầu vào, nâng cao thu nhập cho người nông dân trên cơ sở thoả mãn tốt nhất nhu
cầu xã hội về nông sản.
- Khía cạnh mơi trường của nơng nghiệp bền vững: là quá trình tác động hợp lý của
con người đối với các yếu tố tự nhiên (đất đai, nguồn nước, năng lượng tự nhiên) nhằm
giảm thiểu tác hại của môi trường, bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên và đa dạng sinh học.
- Khía cạnh con người của nơng nghiệp bền vững: là quá trình xây dựng và
phát triển các giá trị như: mối quan hệ xã hội, vấn đề sức khoẻ, văn hoá, tinh thần của
con người.
Tuy nhiên, khi kinh tế ngày càng phát triển, q trình đơ thị hố nhanh làm cho
đất đai nơng nghiệp ven đơ bị thu hẹp, môi trường bị ô nhiễm trầm trọng. Mặt khác,
dân số ngày càng đông, mật độ đân số cao, nhu cầu của người dân đối với nông nghiệp
vốn đã cao lại càng cao theo tiêu chuẩn sinh thái nhân văn. Vì vậy, nơng nghiệp cần
phải chuyển theo hướng phát triển nơng nghiệp bền vững.
Nơng nghiệp bền vững có những đặc trưng, tiêu chí và nội dung riêng, do đó nó
có một q trình phát triển . Trong mỗi giai đoạn phát triển, tùy từng điều kiện phát
triển khác nhau, những đặc trưng, tiêu chí và nội dung phản ánh khác nhau mà xây
dựng chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững và hợp lý.
1.7.2. Sự cần thiết của nền sản xuất nông nghiệp bền vững
- Một là, tài nguyên đất vô cùng quý giá, bất kể nước nào đất đều là tư liệu sản
xuất nông - lâm nghiệp chủ yếu, cơ sở lãnh thổ để phân bố các ngành kinh tế quốc dân.
- Hai là, tài nguyên đất có hạn, Trái đất có diện tích 51 tỷ ha, tuy nhiên diện đất
có khả năng phát triển nơng nghiệp chỉ khoảng 3,3 tỷ ha, chiếm 22% diện tích đất liền.
Hiện nhân loại mới khai thác được khoảng 1.500 tỷ ha đất canh tác.
- Ba là, diện tích tự nhiên và đất canh tác trên đầu người ngày càng giảm do áp
lực tăng dân số lên dẫn đến nhu cầu lương thực tăng lên, trong khi diện tích đất sản
xuất nơng nghiệp giảm do nền khoa học kỹ thuật tiên tiến đã tác động vào sản xuất,
phá vỡ cân bằng sinh thái, dẫn đến mơi trường sản xuất bị suy thối; chất lượng sản

phẩm giảm. Ngồi ra đất nơng nghiệp bị chuyển sang các mục đích sử dụng khác như
đất đơ thị, dân cư, sản xuất công nghiệp và các hạ tầng kỹ thuật.
- Bốn là, do điều kiện tự nhiên, hoạt động tiêu cực của con người, hậu quả của chiến
tranh nên diện tích đất đáng kể của lục địa đã, đang và sẽ cịn bị thối hóa, hoặc ơ nhiễm
dẫn tới tình trạng giảm, mất khả năng sản xuất và nhiều hậu quả nghiêm trọng khác.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




- Năm là, do điều kiện khí hậu tồn cầu và tiểu khí hậu từng khu vực biến đổi
lớn đã gây nên những hiểm họa thiên tai tác động trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp
của các Quốc gia trên tồn cầu [3].
1.7.3. Mục tiêu của sản xuất nơng nghiệp bền vững
Mục tiêu của sản xuất nông nghiệp bền vững hướng tới 3 mục tiêu:
- Năng suất/sản lượng nông phẩm cao và ổn định;
- Hiệu quả kinh tế: Tăng thu nhập cho người sản xuất, thay đổi môi trường kinh
tế và xã hội cộng đồng nơng thơn, góp phần phát triển kinh tế xã hội Quốc gia;
- Duy trì và bảo tồn môi trường tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên (đất, nước, sinh
vật, cảnh quan, v.v...).
Mục tiêu của nông nghiệp bền vững là xây dựng một hệ thống ổn định về mặt
sinh thái, có tiềm lực về mặt kinh tế, có khả năng thỏa mãn những nhu cầu của con
người mà khơng bóc lột đất, ơ nhiễm mơi trường [3].
1.7.4. Ngun tắc, tiêu chí đánh giá sử dụng đất nơng nghiệp bền vững
- Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp bền vững: Sử dụng đất bền vững là sử
dụng đất với tất cả những đặc trưng vật lý, hóa học, sinh học có ảnh hưởng đến khả
năng của đất vẫn đảm bảo sự bền vững hệ sinh thái và tài nguyên đất [6].
- Tiêu chí đánh giá sử dụng đất nơng nghiệp bền vững:
Theo FAO tiêu chí đánh giá sử dụng đất bền vững bao gồm: Bền vững về mặt

kinh tế, bền vững về mặt xã hội và bền vững về mặt môi trường.
 Bền vững về mặt kinh tế:
Tổng giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích là thước đo quan trọng của hiệu quả
kinh tế đối với một hệ thống sử dụng đất.
 Bền vững về mặt xã hội
- Hệ thống sử dụng đất phải thu hút được lao động, đảm bảo đời sống và phát
triển xã hội. Đáp ứng nhu cầu của nông hộ là điều quan tâm trước, nếu muốn họ quan
tâm đến lợi ích lâu dài (bảo vệ đất, môi trường,…). Sản phẩm thu được cần thỏa mãn
cái ăn, cái mặc và nhu cầu cuộc sống hàng ngày của người dân.
Loại hình sử dụng đất phải phù hợp với năng lực của nông hộ về đất đai, nhân
lực, vốn, kỹ năng, có khả năng cung cấp sản phẩm hàng hóa, phù hợp với mục tiêu
phát triển của địa phương khu vực.
 Bền vững về mặt mơi trường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




- Hệ thống sử dụng đất phải đảm bảo hạn chế ô nhiễm môi trường đất, nước.
- Hệ thống sử dụng đất phải đảm bảo hạn chế các quá trình thối hóa đất do tác động
tự nhiên như q trình xói mịn, rửa trơi, hoang mạc hóa, mặn hóa, phèn hóa, lầy hóa.
- Hệ thống sử dụng đất phải đảm bảo ngăn ngừa các tác nhân gây ô nhiễm do
hoạt động của con người: sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, sử dụng phân vơ cơ khơng
hợp lý.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





CHƯƠNG 2:
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung vào các đối tượng nghiên cứu sau:
+ Các loại đất trên địa bàn huyện
+ Các loại hình sử dụng đất nơng nghiệp đang được sử dụng phổ biến trên địa
bàn huyện Phú Bình.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu: Bên cạnh những nghiên cứu tổng quát về điều kiện
tự nhiên, kinh tế - xã hội có liên quan đến sử dụng đất nói chung. Đề tài tập trung
nghiên cứu: Đất phục vụ sản xuất nông nghiệp và các loại hình sử dụng đất trong nơng
nghiệp; nghiên cứu đề xuất sử dụng đất nông nghiệp bền vững. Trong đề tài chỉ nghiên
cứu cây trồng nông nghiệp.
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên
- Về thời gian: Số liệu thu thập, xử lý, phân tích trong giai đoạn 2015-2018 và
những biện pháp được đề xuất đến năm 2030.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
+ Vị trí địa lý, địa hình, khí hậu, thủy văn, tài nguyên đất…;
+ Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội, tình hình dân số, lao động
- Hiện trạng phát triển nơng nghiệp huyện Phú Bình
+ Hiện trạng sử dụng đất qua các năm
+ Hiện trạng sử dụng đất nơng nghiệp
+ Các loại hình sử dụng đất.
- Đánh giá tiềm năng đất đai huyện Phú Bình
+ Điều tra, phân loại đất
+ Đất giá thích hợp đất đai với các loại hình sử dụng đất
- Đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất nơng nghiệp.
+ Đánh giá hiệu quả kinh tế
+ Đánh giá hiệu quả xã hội

+ Đánh giá hiệu quả mơi trường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




×