Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG CAMPUCHIA VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.93 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

KEO MENG HONG

PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG CAMPUCHIA VỚI
VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 603850

LUẬT VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
TIẾN SĨ TRẦN THỊ THÚY LÂM


HÀ NỘI – 2011

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới
cô giáo TS, Trần Thị Thùy Lâm về sự hướng dẫn tận tình và chủ đáo của cơ
trong suốt q trình hồn thành luận văn.
Tơi cũng xin chân thành cảm ơn tồn thể các thầy cơ giáo trường Đại
học Luật Hà Nội, Việt Nam đã tận tình giảng dậy, giúp đỡ tơi trong suốt q
trình tơi học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Bộ ngoại giao Vương


Quốc Campuchia đã tạo điều kiện thuận lợi, ủng hộ, giúp đỡ tôi để hoàn thành
luận văn này.
Hà Nội, ngày 15 tháng 02 năm 2011
TÁC GIẢ

KEO MENGHONG


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Tổ chức Lao động quốc tế

: ILO

Người lao động

: NLĐ

Người sử dụng lao động

: NSDLĐ

Pháp luật lao động

: PLLĐ


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
Chương 1...... MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI

ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG PHÁP
LUẬT LAO ĐỘNG.........................................................................................5
1.1. Khái niệm, vai trò của người sử dụng lao động và sự cần thiết phải
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NSDLĐ...........................................5
1.1.1. Khái niệm người sử dụng lao động.................................................5
1.1.2. Vai trò người sử dụng lao động.......................................................6
1.1.3. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử
dụng lao động trong pháp luật lao động....................................................8
1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
sử dụng lao động........................................................................................11
1.2.1 Nội dung bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao
động.........................................................................................................11
1.2.2. Biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao
động.........................................................................................................16
1.3. Sơ lược lịch sử pháp luật bảo vệ người sử dụng lao động ở
Campuchia..................................................................................................21
1.3.1. Từ 1953 đến năm 1997..................................................................21
1.3.2. Từ năm 1997 đến nay....................................................................22
Chương 2. PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG HIỆN HÀNH CỦA VƯƠNG
QUỐC CAMPUCHIA VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP
PHÁP CỦA SỬ DỤNG LAO ĐỘNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.........26


2.1. Quy định của pháp luật lao động Campuchia về bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong tuyển dụng lao động và
thực tiễn áp dụng........................................................................................26
2.2. Quy định của pháp luật lao động Campuchia về bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong quản lý lao động và thực
tiễn áp dụng................................................................................................33
2.3. Quy định của pháp luật lao động Campuchia về bảo vệ tài sản cho

người sử dụng lao động và thực tiễn áp dụng..........................................40
2.4. Quy định của pháp luật lao động Campuchia về các phương thức
bảo vệ NSDLĐ và thực tiễn áp dụng.........................................................46
Chương 3......... HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG CỦA VƯƠNG
QUỐC CAMPUCHIA VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP
PHÁP CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG............................................52
3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật lao động Vương Quốc
Campuchia với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NSDLĐ........52
3.1.1. Mở rộng hơn nữa việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NSDLĐ trong mối tương quan với việc bảo vệ quyền lợi của NLĐ......52
3.1.2. Đảm bảo việc hoàn thiện pháp luật lao động về bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của NSDLĐ trong giải pháp tổng thể với việc hoàn
thiện các quy định của pháp luât khác.....................................................55
3.1.3. Đảm bảo sự hội nhập kinh tế quốc tế và phù hợp với điều kiện
thực tế của thị trường lao động Campuchia............................................57
3.2. Những giải pháp để hoàn thiện pháp luật lao động Campuchia với
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp của NSDLĐ...........................................59
KẾT LUẬN....................................................................................................66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................67


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hệ thống pháp luật của bất kỳ một nước nào cũng phản ánh những chuẩn
mực, thông lệ và giá trị về kinh tế, chính trị, xã hội của nước đó tại thời điểm
luật pháp được ban hành. Ở Campuchia, trong giai đoạn nền kinh tế tập trung
thì người sử dụng lao động chỉ là người nhân danh Nhà nước trong quản lý tài
sản mà khơng có quyền quyết định bất cứ một vấn đề gì về tổ chức quản lý
doanh nghiệp. Vì vậy, vai trị của người sử dụng lao động rất mờ nhạt. Chính
sự bao bọc một cách toàn diện tuyệt đối của Nhà nước đối với quyền lợi của

người sử dụng lao động đã tạo ra sự trì trệ, thói quen ỷ lại, khơng phát huy
được năng lực tự chủ, tính năng động sáng tạo của bản thân người lao động
cũng như người sử dụng lao động. Thực tế, người ta thường quan tâm và bảo
vệ “quyền và lợi ích người lao động” hơn bởi quan niệm người lao động là
đối tượng yếu thế, dễ bị bất lợi hơn trong tương quan với người sử dụng lao
động. Trong những năm gần đây, các tranh chấp lao động xảy ra nhiều hơn,
thường xuyên hơn, trong đó quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao
động bị xâm hại cũng chiếm một phần tương đối lớn trong tổng số các vụ án
lao động. Đã đến lúc phải nhận thấy việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người sử dụng lao động cũng cần được coi trọng trong mối tương quan
với việc bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động. Trên thực tế, có những
tranh chấp lao động xảy ra mà nguyên nhân chủ yếu là do trình độ chun
mơn của người lao động kém, tính kỷ luật thấp và trình độ hiểu biết luật pháp
hạn hẹp dẫn đến việc gây thiệt hại không nhỏ cho người sử dụng lao động
trong việc ổn định và phát triển doanh nghiệp. Do đó việc nghiên cứu về vấn
đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động dưới góc độ
pháp luật lao động là hết sức cần thiết.


2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong pháp luật lao động, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người sử dụng lao động được thể hiện ở nhiều nội dung và khía cạnh khác
nhau. Tuy nhiên luận văn này chỉ đề cập đến các quyền và lợi ích hợp pháp
chính của người sử dụng lao động trong quan hệ lao động như quyền về tuyển
dụng lao động, quyền tổ chức quản lý và quyền được bảo vệ về tài sản.
Luận văn chủ yếu đề cập Bộ luật lao động Campuchia và một số văn bản
dưới luật về lao động liên quan trực tiếp đến vấn đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
a. Mục đích
Nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận cũng như các quy

định pháp lý về vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng
lao động. Đồng thời phân tích, đánh giá, nhìn nhận thực trạng và xu hướng
phát triển các quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng
lao động trong Luật lao động của Campuchia. Trên cơ sở đó đưa ra các giải
pháp, kiến nghị góp phần hồn thiện chính sách pháp luật của Nhà nước về
vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động nhằm
cải thiện môi trường lao động ở Campuchia.
b. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người sử dụng lao động.
- Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật của Vương quốc
Campuchia về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động
và thực tiễn áp dụng.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật lao động
Campuchia về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động.


4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật lao động về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
sử dụng lao động là vấn đề nóng bỏng đối với tất cả các nước đặc biệt là các
nước đang phát triển như Việt Nam và Campuchia. Do vậy, trong thời qua ở
Việt Nam cũng đã có một số cơng trình nghiên cứu về vấn đề này. Đã có một
số bài viết mang tính chất nghiên cứu một số nội dung của vấn đề bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động được đăng tải trên tạp
chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật … kể cả một số luận văn thạc sĩ
và luận văn tiến sĩ luật học nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Các cơng
trình trên chỉ tập trung nghiên cứu trong phạm vi pháp luật lao động Việt Nam.
Tuy nhiên tại Vương quốc Campuchia, vấn đề này chưa được quan tâm
cũng như tập trung nghiên cứu một cách thích đáng. Ngồi dự án xây dựng và
sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật nói chung và các văn bản pháp luật lao

động nói riêng, hầu như chưa có bài viết hoặc cơng trình nghiên cứu nào đề
cập tới vấn đề này một cách đầy đủ, toàn diện, mặc dù Campuchia cũng đã là
thành viên của tổ chức lao động quốc tế International Labor Organization
(ILO) và cũng đã tham gia ký kết một số Công ước quốc tế.
Vì vậy, đây là Luận văn đầu tiên ở cấp Thạc sĩ nghiên cứu về pháp luật
lao động Campuchia với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử
dụng lao động.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp luận sử dụng chung cho mọi đề tài khoa học là phương
pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và luận văn này cũng
khơng nằm ngồi thơng lệ đó. Đồng thời, tác giả cịn sử dụng các phương
pháp bổ trợ như phương pháp so sánh, tổng hợp, đối chiếu, lịch sử để nhằm
đánh giá vấn đề một cách khách quan, toàn diện nhất.


6. Cơ cấu luận văn
Luận văn gồm lời nói đầu, 3 chương và kết luận:
Chương I: Một số vấn đề chung về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người sử dụng lao động trong pháp luật lao động.
Chương II: Pháp luật lao động hiện hành của Vương quốc Campuchia
với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động và thực
tiễn áp dụng.
Chương III: Hoàn thiện pháp luật lao động của Vương quốc Campuchia
với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH
HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG PHÁP
LUẬT LAO ĐỘNG

1.1. Khái niệm, vai trò của người sử dụng lao động và sự cần thiết phải
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NSDLĐ
1.1.1. Khái niệm người sử dụng lao động.
Người sử dụng lao động là một khái niệm hết sức quan trọng, được đề
cập đến trong mọi Luật lao động tại bất kỳ quốc gia nào.Theo Luật Các tiêu
chuẩn lao động của Hàn Quốc thì:“NSDLĐ là người chủ sở hữu doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất, có trách nhiệm quản lý doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
đó. Hay người thay mặt cho chủ sở hữu doanh nghiệp, cơ sở sản xuất quản lý
các vấn đề liên quan tới NLĐ”. Như vậy, theo khái niệm này thì NSDLĐ là
những người sở hữu đơn vị sản xuất, kinh doanh hoặc là người có đủ năng lực
hành vi dân sự, có đủ tư cách pháp lý để có thiết lập ra quan hệ lao động, tức
là có thể tạo việc làm cho người lao động khác.
Ở Việt Nam NSDLĐ là các cơ quan nhà nước, các tổ chức, các đơn vị
kinh tế thuộc mọi thành phần, các hợp tác xã, các cơ quan tổ chức nước
ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, các cá nhân và hộ gia đình các cơ quan, tổ
chức có nhu cầu sử dụng lao động cũng đều có thể trở thành chủ sử dụng lao
động. Điều 57 và Điều 58 của Hiến pháp Việt Nam quy định: “Cơng dân có
quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” và “Cơng dân có quyền
sở hữu tư liệu sản xuất, vốn và tài sản trong doanh nghiệp”. Pháp luật Lào
cùng có quy định về vấn đề này, theo khoản 5, điều 2 của Bộ luật lao động
nước Lào thì: “NSDLĐ có nghĩa là một cá nhân hoặc tổ chức sử dụng lao
động cho các hoạt động của mình bằng cách trả lương hoặc tiền lương, và


cung cấp các lợi ích và các chính sách khác cho nhân viên theo quy định của
pháp luật, quy định và hợp đồng việc làm”. Vì vậy, họ có quyền trở thành
NSDLD trong quá trình tự do kinh doanh của mình.
Điều 2 Luật Lao động Campuchia thì quy định: “NSDLĐ có nghĩa là
tất cả các cá nhân, pháp nhân, cơng cộng hay tư nhân được coi là sử dụng
lao động khi người đó tạo nên một doanh nghiệp và sử dụng một hoặc nhiều

cơng nhân, thậm chí khơng liên tục”.
Như vậy, dù theo khái niệm nào, đứng trên quan điểm nào thì NSDLĐ
được hiểu là tổ chức, đơn vị cá nhân có nhu cầu sử dụng lao động, có thể đảm
bảo các điều kiện lao động và điều kiện sử dụng lao động và thực hiện nhiệm
vụ đối với người lao động.
1.1.2. Vai trò người sử dụng lao động
Trong bất kỳ giai đoạn nào thì lao động vẫn ln là một nhân tố quyết
định sự tồn tại và phát triển kinh tế - xã hội ở giai đoạn đó. Tuy nhiên, chỉ có
người lao động khơng thì khơng đủ, vì khi đó sẽ dẫn đến tình trạng hoạt động
sản xuất và kinh doanh diễn ra một cách tự phát, không có khoa học, khơng
được chun mơn hóa và rất khó khăn trong việc tiêu thụ hàng hóa được sản
xuất ra do sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, khối lượng ít, không đủ để xuất khẩu
hay đáp ứng các đơn đặt hàng lớn.
Mặt khác, hầu hết NLĐ thường hạn chế về hiểu biết pháp luật trong việc
tổ chức sản xuất, kinh doanh, nên chưa biết tự tạo cho mình một việc làm,
chưa có sự “động não” một cách thực sự trong khi làm việc, điều đó dẫn đến
một nghịch lý rằng, nguồn lao động tuy nhiều nhưng khơng biết làm gì cho
hiệu quả và ổn định. Thêm vào đó sẽ tồn tại sự di chuyển lao động từ miền
này sang miền khác, từ nông thôn lên thành thị, từ miền núi xuống đồng bằng,
từ đó sẽ tạo ra làn sóng quá tải lao động ở một số nơi, nhưng lại thưa thớt lao
động ở một số nơi khác mà ở đó sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn.


Tuy nhiên, khi có NSDLĐ phân bố lao động sẽ hợp lý hơn bởi NSDLĐ tạo ra
việc làm cho người lao động. Thêm vào đó con người và xã hội được hình
thành, tồn tại và phát triển nhờ quá trình hoạt động sản xuất và nhất là sản
xuất vật chất {20, tr.36}. Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng
công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên, nhằm cải biến các dạng vật chất
trong giới tự nhiên để tạo ra các loại sản phẩm. Như vậy, xã hội tồn tại và
phát triển trước hết là nhờ sản xuất vật chất. C. Mác viết “Những thời đại kinh

tế - xã hội khác nhau không phải ở chỗ chúng ta sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ
chúng ta sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”, đó chính là
sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong đó, lực
lượng sản xuất cơ bản là tồn bộ nhân loại, là cơng nhân, là người lao động có
vai trò quyết định, còn quan hệ sản xuất là quan hệ lao động do NSDLĐ tạo
ra. Như vậy, nếu không có NSDLĐ thì sẽ khơng có quan hệ sản xuất hiện đại
và như vậy sẽ làm cho xã hội không phát triển được.
Trải qua các cuộc cách mạng khoa học, cùng với sự phát triển của sản xuất,
khoa học ngày càng đóng vai trị quan trọng trong sản xuất kinh doanh. Sự phát
triển của khoa học công nghệ này thường được những NSDLĐ nắm bắt nhanh
và rất tốt, họ biết cách vận dụng một cách khéo léo vào thực tế hoạt động của
cơng ty mình và truyền tải tới người lao động. NSDLĐ là người quản lý và sử
dụng các máy móc, thiết bị và cơng nghệ hiện đại ấy để có thể đảm bảo hiệu quả
cao về kinh tế, kể cả việc sửa chữa, chăm sóc và bảo dưỡng chúng.
Cùng với điều kiện về tài chính và trách nhiệm với khối tài sản đầu tư
vào kinh doanh, NSDLĐ có sức mạnh, sự hiểu biết, kỹ năng lao động và ngày
càng trở nên có trí tuệ. Trí tuệ của NSDLĐ là sản phẩm tự nhiên của lao động
và ngày càng phát triển nhờ kinh nghiệm quản lý và điều hành lao động.
Trong điều kiện của khoa học công nghệ hiện đại đã làm cho NSDLĐ càng
trở thành một nguồn lực đặc biệt của sản xuất {12, tr.10}. Bởi để đáp ứng


được nhu cầu phong phú và vô tận của con người trong sự phát triển đời sống
kinh tế - xã hội, thì bản thân các nguyên vật liệu tự nhiên chưa thể đáp ứng
được mà cần có sự kết tinh của lao động. Với việc đầu tư tài chính máy móc,
cơng nghệ, thơng qua sản xuất, với việc sử dụng sức lao động của NLĐ,
NSDLĐ và tạo ra sản phẩm có giá trị sử dụng tăng lên như: giá trị thẩm mỹ,
sử dụng, các tính năng…
Như vậy, NSDLĐ có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển
kinh tế - xã hội, họ là những người am hiểu luật pháp, ln tìm ra các phương

hướng, lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới nhằm tạo ra nhiều việc làm cho
người lao động, để từ đó tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội và nâng dần mức
sống của NLĐ góp phần vào sự tồn tại và phát triển, ổn định của một quốc gia
dân tộc {13, tr.31}. Ở đâu có lực lượng NSDLĐ hùng mạnh, thì ở đó NLĐ có
nhiều việc làm, có thu nhập cao và ở đó kinh tế và xã hội được đảm bảo phát
triển một cách ổn định và thịnh vượng.
1.1.3. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử
dụng lao động trong pháp luật lao động.
Quan hệ lao động được hình thành trên cơ sở sự thương lượng thỏa thuận
giữa hai bên, NLĐ và NSDLĐ. Trong quan hệ này, NSDLĐ thường ở vị thế
mạnh hơn so với NLĐ bởi họ là người có tài sản, có quyền sở hữu đối với tài
sản trong doanh nghiệp. Thêm vào đó họ lại là người có quyền tổ chức và
quản lý lao động, có quyền kiểm tra giám sát q trình lao động của người lao
động. Vì thế, trong luật lao động, bảo vệ NLĐ là nguyên tắc được đặt lên
hàng đầu. Song bên cạnh đó, pháp luật lao động cũng phải bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của NSDLĐ. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NSDLĐ xuất pháp từ một số lý do sau:
- Một là, trong quan hệ pháp luật, khi đứng trước pháp luật không có chủ
thể nào mạnh hơn hay yếu hơn mà họ đều phải chịu sự điều chỉnh đã được quy


định của pháp luật. Do vậy, với tư cách là một bên chủ thể trong quan hệ pháp
luật lao động, NSDLĐ cũng cần phải được bảo đảm những quyền và lợi ích
chính đáng. Theo điều 75 của bộ luật lao động nước Campuchia về các biện
pháp xử lý vi phạm: “Bất kỳ cá nhân, thể nhân hoặc pháp nhân vi phạm pháp
luật này sẽ được tái đào tạo, cảnh cáo, phạt tiền, phải tạm đình chỉ kinh doanh”.
Như vậy, có thể nói, khi có sự vi phạm trong quan hệ lao động, bất kỳ bên nào
khi có sự vi phạm cũng đều bị áp dụng những biện pháp xử lý thích đáng.
Ngược lại, quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi bên cũng sẽ luôn được bảo vệ.
- Hai là, việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của NSDLD là tiền đề,

điều kiện để đảm bảo quyền và lợi ích của NLD. Trong QHLD, quyền của
chủ thể bên này bao giờ cũng tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể bên kia tạo
thành mối liên hệ pháp lý thống nhất {22, tr.41}. Chính vì vậy, khơng có chủ
thể nào chỉ có quyền hoặc chỉ có nghĩa vụ. Nhiều khi, chúng ta có quan niệm:
quyền của chủ thể bên này và nghĩa vụ của chủ thể bên kia là hai mặt đối lập,
mâu thuẫn. Sự suy nghĩ, nhận định như vậy là phiến diện, thiếu cái nhìn biện
chứng. Thực ra, quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ đó là quan hệ của một thể
thống nhất, quan hệ khép kín khơng thể chia tách của “một phương trình có
hai vế” mà nếu thiếu một vế thì khơng giải mã được bài tốn đó.
Hơn nữa, quyền lợi của NLĐ là do NSDLĐ đảm bảo thực hiện vì vậy khi
người sử dụng lao động được đối xử công bằng, quyền và lợi ích trong doanh
nghiệp được bảo vệ thì họ mới có thể tạo ra môi trường lao động đảm bảo mọi
điều kiện tốt nhất cho người lao động.
- Ba là, khi quyền và lợi ích hợp pháp của NSDLĐ được bảo vệ thì sẽ tạo
điều kiện ổn định, hài hịa mối quan hệ lao động, thúc đẩy sản xuất, kinh
doanh, khi đó sẽ làm phát triển thị trường lao động. Một thị trường lao động
được coi là phát triển và ổn định khi có sự cân bằng giữa cung lao động và
cầu lao động. Nếu cung về lao động thừa sẽ gây ra tình trạng dư thừa lao


động, tăng tỷ lệ thất nghiệp của NLĐ, làm thị trường lao động bị mất sự ổn
định và cân đối. Nhưng nếu cầu lao động thừa sẽ gây ra tình trạng thiếu lao
động, làm giá lao động lên cao, có nhiều ngành nghề, lĩnh vực khan hiếm lao
động, khơng có lao động vào sản xuất, khi đó sẽ khơng tạo ra của cải cho xã
hội. Mặt khác, khi cầu lao động tăng nhanh mà thiếu lao động giỏi thì thị
trường lao động cũng không thể ổn định, phát triển được. Đó là điều chắc
chắn vì cung và cầu chỉ có thể nằm trong một thể thống nhất của thị trường
lao động.
Như vậy, trong mối quan hệ với NLĐ thì NSDLĐ có một vai trị hết sức
quan trọng. Nếu khơng có sự tổ chức, quản lý và điều hành tốt của NSDLĐ

thì NLĐ chỉ là những cá nhân riêng lẻ, khơng có mơi trường làm việc trong
một tập thể có phân cơng lao động ở trình độ cao. Khi đó, hoạt động của mỗi
người mang tính tự phát, thiếu chuyên nghiệp, khơng thể tạo ra được những
dây chuyền sản xuất có hiệu quả. Thực tế đã chứng minh, nếu nơi nào mà có
một mơi trường lao động được tổ chức tốt, quản lý của NSDLĐ tốt, tính kỷ
luật cao thì NLĐ sẽ làm việc hết năng suất, tạo ra nhiều sản phẩm, của cải.
Khi đó lợi ích của NSDLĐ cũng được tăng lên và họ sẽ có điều kiện trả cơng
cho NLĐ cao hơn, đảm bảo cho NLĐ làm việc trong điều kiện tốt hơn.
Lợi ích của NLĐ và NSDLĐ vừa mâu thuẫn nhau cũng vừa thống nhất
với nhau. Sự mâu thuẫn nhau thể hiện ở việc NLĐ bao giờ cũng muốn lương
cao, thời gian làm việc ít điều kiện lao động thuận lợi. Cịn NSDLĐ, do muốn
có nhiều lợi nhuận nên tìm cách tiết kiệm chi phí trong đó có chi phí cho
NLĐ . Lợi ích của hai chủ thể này hướng tới là khác nhau, đối lập nhau,
nhưng xét về căn ngun thì nó lại có quan hệ tương hỗ. Khơng có lợi ích của
NSDLĐ thì cũng khơng có lợi ích của NLĐ. Cụ thể là: Khi NLĐ khơng tăng
năng suất, tạo ra nhiều sản phẩm tốt trong quá trình sản xuất, khi đó NSDLĐ
sẽ khơng có thu nhập và lợi nhuận sẽ khơng có hoặc khơng cao. Trong trường


hợp đó, NSDLĐ cũng khơng có nguồn tài chính để có thể trả cơng cao cho
người lao động và tạo ra các điều kiện tốt cho người lao động. Như vậy, trong
trường hợp này thì tiền cơng của NLĐ và lợi nhuận của NSDLĐ đều giảm sút.
Từ những phân tích ở trên cho thấy: Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp của
NSDLĐ là hết sức cần thiết và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người sử
dụng lao động sẽ khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất, phát triển thị trường
lao động, tạo nhiều việc làm cho NLĐ và nguồn thu thuế cho Nhà nước, thông
qua đó, có thể đảm bảo lợi ích cho NLĐ và phát triển kinh tế xã hội.
1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
sử dụng lao động
1.2.1 Nội dung bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao

động.
Trên cơ sở phân tích sự cần thiết phải bảo đảm các quyền và lợi ích của
người sử dụng lao động, xuất phát từ nhu cầu của người sử dụng lao động,
theo thông lệ quốc tế (theo quan điểm của Tổ chức Lao động quốc tế và quan
điểm của một số nước), việc bảo vệ các quyền và lợi ích của người sử dụng
lao động thể hiện ở các nội dung sau:


NSDLĐ được quyền tuyển dụng lao động, sử dụng lao động

theo nhu cầu SXKD
Đây là một trong những quyền phổ biến của NSDLĐ, vì khi NSDLĐ có
được quyền này, họ mới chủ động được trong việc tuyển dụng lao động nhằm
đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuyển dụng lao
động là một hiện tượng xã hội phát sinh từ sự mua bán một loại hàng hóa đặc
biệt trong xã hội, đó là hàng hóa sức lao động. NLĐ (người bán) sẽ bán sức lao
động mà họ có, cịn NSDLĐ (người mua) sẽ mua sức lao động của NLĐ để tiến
hành SXKD. Sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt khơng thể mua ngay và
sử dụng ngay trong một lần mua, bán, mà nó địi hỏi phải có một q trình, một


thời gian nhất định. Chính vì vậy, q trình sử dụng lao động được diễn ra, đây
là khâu quan trọng để tồn tại quan hệ lao động. Việc tuyển dụng rất có ý nghĩa
đối với NSDLĐ, vì NSDLĐ có được một số lượng và chất lượng NLĐ tốt thì sẽ
đảm bảo cho sự phát triển của doanh nghiệp, đồng thời nó cũng tạo cho NLĐ có
việc làm ổn định, góp phần giải quyết sự thất nghiệp trong xã hội, làm giảm bớt
sự nghèo đói và tệ nạn xã hội. Mặt khác, khi được quyền tuyển dụng lao động
vào hoạt động sản xuất, kinh doanh thì NSDLĐ cần phải có quyền được sử
dụng lao động sao cho hợp lý nhất để phù hợp với công việc hiện tại của đơn
vị, sắp xếp được đúng người, đúng việc nhằm phát huy cao nhất năng suất lao

động của mỗi người lao động. Khi doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh
thì sẽ cần sử dụng thêm lao động, ngược lại khi doanh nghiệp làm ăn kém
hiệu quả thì khi đó doanh nghiệp có thể phải giảm bớt lao động… Chính vì
vậy, NSDLĐ cần có quyền tuyển chọn, sử dụng lao động theo nhu cầu sản
xuất, kinh doanh. Bộ luật lao động của Việt Nam quy định: NSDLĐ có quyền
tuyển dụng lao động, bố trí điều hành lao động theo nhu cầu sản xuất kinh
doanh (khoản 1 Điều 8). Luật lao động của hầu hết các nước cũng đều có quy
định tương tự.


NSDLĐ có quyền quản lý lao động

Quản lý và điều hành lao động là hình thức mà NSDLĐ có thể bố trí lao
động làm việc theo một mơ hình mà NSDLĐ đã thiết lập, nhằm mục đích phù
hợp với sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc điều hành này có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc sử dụng lao động. Vì, NSDLĐ quản lý
và sử dụng sức lao động của con người, chứ không phải quản lý một vật dụng
nào khác. Mặt khác, trong một tổ chức phải có nội quy, quy định cụ thể, nó
được xem như là chuẩn mực trong hoạt động để NLĐ vào nề nếp. Trong một
đơn vị, nhiều người cùng thực hiện một kế hoạch sản xuất, kinh doanh thống


nhất, nên cần phải có người quản lý để hướng hoạt động của nhiều người vào
kế hoạch chung.
Vị trí quản lý phải là NSDLĐ vì họ là người sở hữu hoặc quản lý tài sản
của đơn vị (ở đây thể hiện quan hệ sở hữu chi phối quan hệ quản lý và quan
hệ phân phối), do đó họ có trách nhiệm sử dụng hiệu quả khối tài sản đó. Việc
thực hiện quyền quản lý phải tuân thủ pháp luật, các quy định, quy chế mới
đảm bảo tính cơng bằng và tinh thần trách nhiệm trong quan hệ lao động. Do
vậy, trong quản lý, điều hành NSDLĐ có quyền điều chuyển NLĐ, có quyền

đưa ra những chế độ khen, thưởng và kỷ luật một cách đúng mức nhằm khích
lệ người lao động làm việc. Khoản 1, Điều 8 bộ luật lao động nước Việt Nam
có quy định: “Người sử dụng lao động có quyền tuyển chọn lao động, bố trí,
điều hành lao động theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh; có quyền khen thưởng
và xử lý các vi phạm kỷ luật lao động theo quy định của pháp luật lao động”.
Pháp luật hầu hết các nước cũng đều quy định vấn đề này.
NSDLĐ có thể phối hợp với tổ chức cơng đồn trong quản lý lao động
và kí kết thoả ước lao động tập thể phù hợp với điều kiện của đơn vị.
Tổ chức cơng đồn là một tổ chức được thành lập khi có quan hệ lao
động được thiết lập, lãnh đạo của tổ chức cơng đồn là do người lao động bầu ra,
hoạt động của tổ chức cơng đồn là chăm lo đời sống của người lao động (tức
chia sẻ lúc hoạn nạn, ốm đau..), là cơ quan đại diện cho NLĐ để bảo vệ quyền
lợi cho NLĐ khi NSDLĐ xâm phạm quyền và lợi ích của NLĐ. Tuy nhiên,
khơng chỉ thế, tổ chức cơng đồn cịn tham gia hịa giải khi có tranh chấp lao
động xảy ra. Tổ chức cơng đồn cịn động viên, khích lệ NLĐ làm việc sao cho
có năng suất và hiệu quả. Do vậy, nếu cơ sở nào biết phát huy hết tác dụng của
tổ chức cơng đồn thì sẽ góp phần giải quyết và làm hạn chế các tranh chấp lao
động có thể xảy ra. Vì vậy, pháp luật cần phải bảo đảm để NSDLĐ có thể phối
hợp với tổ chức cơng đồn trong quản lý lao động và kí kết thoả ước lao động


tập thể phù hợp với điều kiện của đơn vị. Nhiều nước đã quy định về vấn đề này,
cụ thể tại khoản 1, Điều 52 của Bộ luật lao động Việt Nam có quy định: “Trong
trường hợp sát nhập, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, chuyển quyền sở hữu,
quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp thì NSDLĐ và Ban chấp hành Cơng
đồn cơ sở căn cứ vào phương án sử dụng lao động để xem xét việc tiếp tục thực
hiện, sửa đổi, bổ sung hoặc ký thỏa ước lao động mới”.




NSDLĐ có quyền được bảo vệ về tài sản

Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, NSDLD sở hữu rất nhiều loại tài
sản. Từ những tài ản vật chất ban đầu mà họ đầu tư như thiết bị, máy móc,
nhà xưởng đến những tài sản phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh,
và thậm chí là cả những loịa tài sản phi vật chất khác. Đối với những tài sản
mà NSDLD đã đầu tư, đương nhiên thuộc sở hữu của họ và được Hiến pháp
cũng như pháp luật dân sự ghi nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, do đặc thù của
quan hệ lao động, trong quá trình sản xuất kinh doanh sẽ phát sinh thêm một
loại tài sản thuộc sở hữu của NSDLD, đó chính là những lợi nhuận thu được
từ chính hoạt động sản xuất kinh doanh đó. Đây là một loại tài sản có thể nói
là quan trọng nhất của NSDLD cần được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong
Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam có quy định về quyền sở hữu tài sản của
cơng dân tại Điều 58 "Cơng dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của
cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác
trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà
nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18...". Hay tại Bộ
luật dân sự 2005 của Việt Nam cũng quy định: "Điều 170. Quyền sở hữu
được xác lập đối với tài sản trong các trường hợp sau đây:
+ Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp;
+ Được chuyển quyền sở hữu theo thoả thuận hoặc theo quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền;


+ Thu hoa lợi, lợi tức;
+ Tạo thành vật mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến;
+ Được thừa kế tài sản;
+ Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô
chủ, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật
nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên;

+ Chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục,
cơng khai phù hợp với thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều 247 của Bộ luật này;
Người sử dụng lao động còn được đảm bảo bồi thường thiệt hại nếu bị người
lao động hoặc các chủ thể khác xâm hại lợi ích hợp pháp
+ Các trường hợp khác do pháp luật quy định, Điều 169. Bảo vệ quyền
sở hữu
- Quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác được pháp luật
công nhận và bảo vệ.
- Khơng ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu đối
với tài sản của mình.
Chủ sở hữu có quyền tự bảo vệ, ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi
xâm phạm quyền sở hữu của mình, truy tìm, địi lại tài sản bị người khác
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt khơng có căn cứ pháp luật.
- Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh và vì lợi
ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của
cá nhân, pháp nhân hoặc của chủ thể khác theo quy định của pháp luật.".
Như vậy, có thể nói lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh
của NSDLD cũng là một loại tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của NSDLD,
được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong trường hợp, NSDLĐ là người nước
ngoài, những tài sản là lợi nhuận này không những chỉ được ghi nhận và bảo
vệ tại quốc gia sở tại mà còn được chuyển về quốc gia của họ.



×