Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Quyền lực chính trị và vai trò của Nhà nước đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.21 KB, 30 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình phát triển của mỗi quốc gia, tuỳ vào điều kiện cụ thể mà trải
qua các hình thái, giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên, q trình cơng nghiệp
hoá là yêu cầu tất yếu mà các nước, dù ở hình thức nào, mơ hình nào cũng
phải thực hiện để phát triển lực lượng sản xuất và kinh tế - xã hội. Trong
q trình này, với thể chế chính trị, đặc điểm kinh tế - xã hội sẽ quyết định
quyền lực chính trị của Nhà nước trong q trình cơng nghiệp hố.
Ở Việt Nam, cơng nghiệp hố được Đảng và Nhà nước đề ra từ những năm
sáu mươi của thế kỷ XX và nó đã được thực hiện trong những hoàn cảnh lịch sử
khác nhau. Trong mỗi giai đoạn, có thể ở những mức độ riêng nhưng quyền lực
chính trị để điều tiết và quản lý của Nhà nước ln mang tính quyết định trực tiếp
tới tiến trình cũng như thành cơng của sự nghiệp cơng nghiệp hố. Hiện nay nước
ta đang trong thời kỳ đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
có sự điều tiết của Nhà nước đã được thiết lập và từng bước hoàn thiện. Hơn nữa,
trên thế giới xu thế tồn cầu hố và cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ phát triển
vơ cùng mạnh mẽ, vì vậy q trình cơng nghiệp hố cũng như quyền lực của Nhà
nước đối với nó phải có những điều chỉnh để phù hợp với điều kiện khách quan.
Thực tế đó đặt ra yêu cầu quan trọng, cấp thiết là xác định đúng đắn và tìm ra các
giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao vai trị của Nhà nước ta đối với q trình cơng
nghiệp hố. Chun đề “Quyền lực chính trị và vai trị của Nhà nước đối với q
trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” được
viết với hy vọng sẽ trình bày một phần nhỏ ý kiến đề xuất để giải quyết vấn đề này.
Để phù hợp mục đích trên, bố cục của đề tài được chia làm hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quyền lực chính trị của Nhà nước đối
với q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Chương 2: Thực trạng và những giải pháp nhằm nâng cao vai trị cũng
như quyền lực chính của Nhà nước đối với q trình cơng nghiệp hố, hiện đại
hố trong thời gian tới.


NỘI DUNG


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ
CỦA NHÀ NƯỚC TRONG Q TRÌNH
CƠNG NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI HỐ
1.1. TÍNH CHẤT YẾU KHÁCH QUAN VỀ QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ CỦA
NHÀ NƯỚC TRONG Q TRÌNH CƠNG NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI HỐ

1.1.1 Quan điểm về cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Khái niệm cơng nghiệp hố hình thành từ cuộc cách mạng công nghiệp Anh
ở ở thế kỷ XVIII - cuộc cách mạng đầu tiên trên thế giới, đánh dấu một bước tiến
vượt bậc trong lịch sử phát triển nhân loại. Lúc này cơng nghiệp hố được hiểu là
q trình thay thế lao động thủ cơng bằng lao động sử dụng máy móc. Cùng với sự
phát triển của nền sản xuất xã hội của khoa học - công nghệ khái niệm này cũng
dần thay đổi. Ở các nước tư bản Châu Âu và Mỹ xem cơng nghiệp hố là q trình
phát triển khoa học - kỹ thuật và cơng nghệ. Cịn ở Liên Xơ thì đây được xem là
q trình xây dựng nền đại cơng nghiệp cơ khí, phát triển mạnh nền công nghiệp
nặng. Do hạn chế lịch sử, việc nhận thức khái niệm này nhiều lúc còn chưa đầy đủ
- điều đó dẫn đến sợ phát triển khơng đồng đều cũng như nảy sinh một số mâu
thuẫn trong đời sống xã hội. Việc nhận thức đúng đắn khái niệm cơng nghiệp hố
trong từng giai đoạn phát triển của xã hội thực sự có ý nghĩa rất to lớn cả về lý luận
và thực tiễn.
Kế thừa có chọn lọc và đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn của các nước trên
thế giới và ở nước ta trong thời kỳ đổi mới, hội nghị Ban chấp hành Trung ương
thế giới lần thứ bảy khoá VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng
Cộng sản Việt Nam đã xác nhận: Cơng nghiệp hố là q trình chuyển đổi căn
bản toàn diện và các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng sức lao động thủ cơng là chính sách sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên
tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghệ tăng ra năng suất lao động xã
hội cao. Như vậy cơng nghiệp hố ở nước ta là q trình xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, do giai cấp công nhân và nhân dân lao động thực

hiện dưới sự chỉ đạo và tổ chức của Nhà nước chun chính vơ sản, sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản. Q trình này có nhiệm vụ đưa nền kinh tế nước ta từ nền


sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội trở thành một nước cơng nghiệp hiện
đại, văn hố và khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh cuộc sống
ấm no hạnh phúc. Khái niệm cơng nghiệp hố trên đây được Đảng ta xác định
rộng lớn, toàn diện hơn và phù hợp với điều kiện nước ta hơn với các quan niệm
trước đó.
Hiện nay, trên thế giới cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang diễn ra
mạnh mẽ trên nhiều ngành, lĩnh vực, một số nước đã bắt đầu chuyển từ kinh tế
công nghiệp sang kinh tế tri thức. Nếu nước ta thực hiện cơng nghiệp hố từng
bước theo các nước trước đây thì sẽ khơng đáp ứng được yêu cầu phát triển của
xã hội, không thể theo kịp các nước phát triển trong khu vực và thế giới. Do đó
để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách tụt hậu, nước ta phải tranh thủ ứng dụng
những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, tiếp cận kinh tế tri
thức để hiện đại hoá những ngành, những khâu có điều kiện nhảy vọt. Hơn nữa
với nền kinh tế mở trong xu thế tồn cầu hố, khu vực hoá tạo điều kiện cho
nước ta dễ dàng, nhanh chóng tiếp cận, học hỏi những phát minh, sáng chế và
kinh nghiệm của các nước. Từ lý luận cũng như từ thực tiễn thực hiện thành
cơng q trình cơng nghiệp hoá trong những năm gần đây của một số nước, đặc
biệt là các nước đang phát triển, Đảng và Nhà nước đã khẳng định, cơng nghiệp
hố gắn liền với hiện đại hoá là tất yếu khách quan.
Như vậy, dựa trên đặc điểm cụ thể của nền kinh tế - xã hội, của thể chế
chính trị và những mục đích phát triển đất nước. Đảng ta đã xem xét một cách
tồn diện, sâu sắc khái niệm cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Đó là cơ sở để xác
định đúng đắn những bước đi và vai trò của các chủ thể đối với q trình cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, trong đó xác định quyền lực chính trị của Nhà nước có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
1.1.2. Sự cần thiết khách quan về quyền lực chính trị của Nhà nước

trong quá trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Trên quan điểm của Đảng về q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố rõ
ràng đây là một q trình mang tính tồn diện, phức tạp và kéo dài. Sự đan xen,
đấu tranh giữa các mặt luôn tồn tại đồng thời với nhau dù mối quan hệ đó bộc lộ
ra bên ngồi hay được ẩn dấu vào bên trong. Do đó một thành cơng hay hạn chế
ở mặt này có thể tác động ảnh hưởng tới mặt khác. Vì thì để q trình cơng
nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra liên tục và thành cơng địi hỏi phải xây dựng
được chiến lược đúng đắn, phương hướng cụ thể, biện pháp phù hợp trong từng
hoàn cảnh, giai đoạn. Nhiệm vụ này chỉ có Nhà nước mới đảm nhận được,


khơng một cá nhân hay tổ chức nào có đủ trách nhiệm và khả năng làm được
điều đó. Nước ta xác định cơng nghiệp hố, hiện đại hố là sự nghiệp của tồn
dân, là sự nghiệp mang tính tự giác, sự nghiệp đó phải do Nhà nước quản lý và
Đảng lãnh đạo bởi đây là lực lượng đại diện cho quyền lực của nhân dân, có
kinh nghiệm và trung thành với lợi ích dân tộc. Mặt khác chỉ có Nhà nước mới
có thể huy động, phân bổ tập trung các nguồn lực cần thiết theo u cầu cơng
nghiệp hố, cân đối và tạo điều kiện thường xuyên cho quá trình cơng nghiệp
hố, hiện đại hố; đề ra các chính sách cần thiết, thực thi cơ chế kinh tế - xã hội.
Dựa trên đường lối của Đảng, Nhà nước sẽ đề ra những biện pháp cụ thể, những
chỉ tiêu quan trọng trong từng lĩnh vực. Có thể nói sự thành cơng của sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố trực tiếp phụ thuộc vào vai trò lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước. Con tàu cơng nghiệp hố, hiện đại hố phải có định hướng chính
xác và phải có tay lái thật quyết đoán giữa biển cả đầy biến động của nền kinh tế
thế giới hiện nay.
Nhiệm vụ cải biến nước nhà từ một xã hội nông nghiệp trở thành một xã
hội cơng nghiệp địi hỏi phải có một nguồn lực to lớn, toàn diện. Đối với các
nước phương Tây, với đặc điểm về kinh tế - chính trị riêng, các cá nhân, tổ chức
nắm trong tay những nguồn lực rất to lớn nhưng thực tế, q trình cơng nghiệp
hố vẫn dựa nhiều vào nguồn lực của Nhà nước. Điều này là do trong mục tiêu

cơng nghiệp hố, hiện đại hố phải thực hiện một số hoạt động mang lợi ích
kinh tế thấp cũng như nhiều nhiệm vụ địi hỏi phải có sự đầu tư quá lớn so với
tiềm lực cá nhân. Ở nước ta, nền sản xuất xã hội còn thấp. Hơn nữa với chế độ
xã hội chủ nghĩa, phần lớn sức mạnh các tiềm lực do Nhà nước quản lý và cũng
chỉ có Nhà nước mới đủ điều kiện để khai thác, huy động những nguồn lực rải
rác trong dân cư trở thành nguồn lực đủ lớn phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Ở tất cả các tiền đề nhằm thực hiện thành cơng q trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hố, Nhà nước ln có một quyền thế cũng như vai trị quan trọng ln
song hành.
Yếu tố đầu tiên mang tính quyết định của bất cứ một hoạt động nào trong
q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố là vốn - vốn để cơng nghiệp hố, hiện
đại hố có hai nguồn: Nguồn vốn trong nước là yếu tố nội lực, được tích luỹ từ
nội bộ nền kinh tế dựa trên hiệu quả sản xuất kinh doanh của tất cả các thành
phần kinh tế. Nó có thể tồn tại trong các các nhân, tổ chức và nằm ngoài ngân
sách Nhà nước. Thơng qua các nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí…, từ các hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước, chính sách được sử dụng để đầu tư


xây dựng cơ sở hạ tầng - Tiền đề để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh, kinh doanh dịch vụ, là cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nhưng do
đặc điểm lợi nhuận thấp, vòng hồn vốn chậm bởi đây thực chất là hàng hố
cơng cộng nên chỉ có Nhà nước mới có đủ kinh phí lớn và động lực đảm nhận
trách nhiệm xây dựng. Mặt khác để huy động nguồn vốn rải rác trong các tầng
lớp dân cư, Nhà nước thơng qua các chính sách tiết kiệm, lãi suất, vay vốn…, đề
ra các chính sách phù hợp trong từng giai đoạn có ý nghĩa to lớn trong việc huy
động và phát huy nguồn vốn trong các tầng lớp dân cư một cách có hiệu quả.
Tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu làm cho
việc tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế hết sức khó khăn, đặc biệt trong thời kỳ
đầu, để thốt khỏi vịng luẩn quẩn: vì nghèo nên tích luỹ thấp, tích luỹ thấp tăng
trưởng kinh tế chậm và khó thốt khỏi đói nghèo; Vì nghèo nên tích luỹ thấp…

Cần phải tận dụng mọi khả năng để thu hút nguồn vốn từ bên ngoài. Quy mô
huy động nguồn vốn này phụ thuộc rất lớn vào môi trường vĩ mô do Nhà nước
tạo ra. Môi trường vĩ mơ bao gồm sự ổn định về chính trị, sự nhất quán trong
chính sách đặc biệt là chính sách quyền sở hữu, tính khả thi, tính pháp chế của
hành lang pháp lý, sự gọn nhẹ, hiệu quả của hoạt động hành chính… Vai trị này
quyết định thời gian nhanh hay chậm của q trình cơng nghiệp hố, hiện đại
hố và nó phụ thuộc vào khả năng sáng tạo, nhanh nhạy của sự đổi mới tư duy
cũng như năng lực quản lý của Nhà nước.
Bên cạnh đó, cịn phải thấy rằng Nhà nước có vai trị chủ yếu trong việc
hạn chế, khắc phục mặt trái của nguồn vốn nước ngoài. Khi sử dụng nguồn vốn
này, chúng ta phải chấp nhận bị bóc lột, tài nguyên bị khai thác, nợ nước ngồi
tăng… Đặc biệt nền kinh tế có thể bị lệ thuộc một phần và bị thao túng bởi các
công ty lớn của nước ngồi. Vì vậy cần có sự xem xét, cân nhắc, lựa chọn và
kiểm soát sự hoạt động của nguồn vốn này bởi các cơ quan chức năng hay chính
là Nhà nước nhằm đảm bảo tính độc lập về kinh tế và giữ vững bản chất chính
trị xã hội chủ nghĩa của đất nước.
Q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố khơng chỉ địi hỏi vốn, kỹ thuật,
tài nguyên… mà còn đòi hỏi sự phát triển tương xứng về nguồn nhân lực để
quản lý, làm chủ được hệ thống hạ tầng kỹ thuật mới đồng thời phát huy được
hiệu quả của chúng phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn
nhân lực (con người) vừa là động lực vừa là mục tiêu của cơng nghiệp hố,
hiện đại hố. Đây là lực lượng duy nhất có trí tuệ, tư duy, ý chí và biết sử dụng
các nguồn lực khác, gắn kết chúng với nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp. Do đó


để thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, chúng ta
phải biết bồi dưỡng và khai thác nguồn nhân lực trên quy mô cả nước trong
mọi lĩnh vực. Nhưng muốn có nguồn nhân lực có chất lượng cao thì cơng tác
giáo dục đào tạo phải được đổi mới cho phù hợp với trình độ của thời đại. Giáo
dục đào tạo là một lĩnh vực đặc biệt, nó mang tính cộng đồng, xã hội, kinh tế.

Đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đào tạo đòi hỏi nguồn kinh phí cực lớn và dài
hơn cả về cơng sức và tiền bạc. Mặt khác kết quả mang lại chậm nên các cá
nhân, tổ chức không đủ khả năng đầu tư vào lĩnh vực này, hoặc có thì nhỏ lẻ
khơng đáp ứng được cho nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trước thực tế trên, cùng với nhận thức vai trò to lớn của nguồn nhân lực, Nhà
nước tất yếu trở thành chủ thể chủ yếu đầu tư cho sự nghiệp giáo dục đào tạo
của đất nước. Với lực lượng giáo viên lớn và lượng vốn lớn, Nhà nước thông
qua hệ thống giáo dục rộng rãi, các chính sách đầu tư hỗ trợ giáo dục, các
chính sách xã hội để kích thích việc học tập của nhiều tầng lớp dân cư. Đồng
thời do Nhà nước có khả năng sắp xếp, bố trí nguồn nhân lực đã được đào tạo
nên mới có thể sử dụng, phát huy đầy đủ khả năng, sở trường và sự sáng tạo
của lực lượng lao động lớn. Ngồi ra Nhà nước cịn sử dụng nguồn tài chính
cơng để xây dựng hệ thống y tế, cải thiện mơi trường sống… Nhằm chăm sóc
sức khoẻ và nâng cao thể lực cho người lao động và cộng đồng.
Trong cả q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố khoa học kỹ thuật ln là
yếu tố tiên phong. Hiện nay với thành tựu vĩ đại và kỳ diệu của khoa học công nghệ
nền kinh tế thế giới đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức. Đối với nước ta
khoa học công nghệ được xác định là động lực của sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố. Nó có vai trị quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển nền
kinh tế nói chung, cơng nghiệp hố, hiện đại hố nói riêng. Nước ta trong những
năm trước đây với nền sản xuất cũ, khơng khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển
nên đến nay đội ngũ cán bộ khoa học chủ yếu vẫn thuộc biên chế Nhà nước, đây
chính là đội ngũ có khả năng nghiên cứu, tiếp cận và ứng dụng các thành tựu khoa
học công nghệ triển khai chúng vào thực tế để nâng cao năng suất lao động. Hơn
nữa Nhà nước có nguồn vốn lớn để có thể đầu tư lâu dài cho các hoạt động nghiên
cứu và triển khai các thí nghiệm khoa học trên quy mơ rộng. Quyền lực chính trị
của Nhà nước đối với khoa học cơng nghệ cịn thể hiện ở việc xây dựng luật pháp,
bảo đảm thực hiện quyền sở hữu trí tuệ hoặc ban hành các chính sách khuyến
khích, ưu đãi, hỗ trợ nhân tài… Trên thực tế ở nước ta hầu như các doanh nghiệp



Nhà nước là lực lượng đi đầu, mang tính dẫn hướng trong việc áp dụng các thành
tựu khoa học kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh.
Quyền lực chính trị của Nhà nước trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại
hố còn biểu hiện ở việc hạn chế, khắc phục những nhược điểm của cơng nghiệp
hố, hiện đại hố diễn ra trong nền kinh tế thị trường mở. Với xu thế khu vực hố,
tồn cầu hố về kinh tế, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ vừa tạo
ra cho q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố nhiều thời cơ thuận lợi, đồng thời
cũng tạo ra những thách thức khó khăn. Chúng tác động, đan xen và ẩn dấu vào
nhau. Để khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phục vụ cơng nghiệp hố,
hiện đại hoá trong điều kiện nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường
Nhà nước phải khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển đồng thời tăng
cường mở rộng quan hệ đối ngoại… Vì thế những nhược điểm như bóc lột lao
động, phân phối bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường có cơ hộ gia tăng. Hơn nữa
song song với việc mở rộng hợp tác với nước ngồi, các luồng văn hố trong đó có
nhiều luồng văn hoá xấu dần dần du nhập vào nước ta, các luồng thơng tin và các
đối tượng phản động có điều kiện hoạt động chống đối đi ngược lại đường lối
chính trị của Đảng và Nhà nước; Đặc biệt nếu không có sự lãnh đạo sáng suốt về
đường lối và vững vàng về bản lĩnh chính trị thì cùng với các nguồn vốn nước
ngồi sẽ là tiền đề hình thành sự phụ thuộc về kinh tế và tất yếu sau đó là chính trị
của nước ta vào các nước tư bản chủ nghĩa . Như vậy q trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hố kéo theo những nguy cơ, thách thức khơng nhỏ đối với cả nền kinh tế xã hội nước ta. Với mỗi cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị
trường thường chỉ chạy theo lợi nhuận của hộ, do đó Nhà nước với nhiệm vụ quản
lý kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô phải thông qua các công cụ quản lý nhằm điều hồ
lợi ích giữa cá nhân, cá nhân với xã hội nhằm bảo vệ bản sắc văn hoá và truyền
thống dân tộc, giữ gìn nền độc lập của đất nước đồng thời đảm bảo tính định hướng
xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế - xã hội.
Sự cần thiết khách quan về quyền lực chính trị của Nhà nước trong sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố cịn được đúc rút, khẳng định từ kinh
nghiệm của các nước trên thế giới và chính tư thực tế của nước ta trong những

năm trước đây, khi xem xét sâu sắc q trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
một số nước thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố thành cơng trong thời gian
gần đây như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo… đều có thể nhận ra rằng Nhà nước
có vai trị rất quan trọng. Cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở các nước này gắn với
một Nhà nước hùng mạnh, gắn với Nhà nước Pháp quyền. Đặc biệt nhiều nước


còn đề xướng “Độc tài để phát triển” bởi họ coi rằng sự quản lý điều hành
quyết đoán của Nhà nước là điều kiện tiên quyết để các nước này thực hiện
thành cơng cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Ở nước ta, với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, q trình cơng
nghiệp hố, hiện đại hố trong thời kỳ đổi mới đã mang lại nhiều thành tựu
đặc biệt thể hiện ở việc định ra đường lối biện pháp phù hợp với thực tế của
đất nước. Điều đó càng khẳng định tính tất yếu, vai trị chủ đạo của Nhà nước
đối với sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố nói riêng và nền kinh tế nói
chung.
1.2 QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRỊ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG Q
TRÌNH CƠNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA.

Từ lý luận và kinh nghiệm thực tiễn đã khẳng định Nhà nước có vai trị
quyết định trong việc tổ chức thực hiện q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Ở nước ta vai trị đó được thể hiện cụ thể trên một số mặt chủ yếu:
- Trước hết là quyết định mục tiêu, chiến lược và kế hoạch thực hiện cơng
nghiệp hố, hiện đại hố trong từng giai đoạn. Điều này địi hỏi Nhà nước phải
nắm bắt được sự tác động khách quan của các quy luật kinh tế trong nền kinh tế
thị trường chịu ảnh hưởng của xu thế thời đại, để định hướng đúng đắn chiến
lược phát triển kinh tế và xây dựng được quy hoạch tổng thể của sự phát triển
kinh tế - xã hội.
- Tiếp theo, Nhà nước tạo môi trường vĩ mô thuận lợi. Cụ thể Nhà nước
phải có quy hoạch phát triển đồng bộ thị trường của cơng nghiệp hố, hiện đại

hố, hình thành mơi trường pháp lý cần thiết cho thị trường phát triển và phát
triển đúng hướng. Nội dung trọng tâm là phát triển hệ cung cầu, môi trường
cạnh tranh lành mạnh để nền sản xuất hàng hố phát triển có hiệu quả, khai thác
tối đa mọi tiềm năng trong xã hội. Đồng thời phát triển thị trường lao động, vốn,
công nghệ.
- Nhà nước còn là chủ thể quyết định việc tổ chức và phối hợp các lực
lượng kinh tế để thực hiện chiến lược, kế hoạch cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Huy động và phân bổ tập trung các nguồn lực cần thiết. Cân đối và điều chỉnh
thường xuyên quá trình thực hiện. Để làm được điều đó, trước tiên Nhà nước
phải xây dựng và ban hành các chính sách cần thiết để khai thác mọi tiềm năng,
nguồn lực trong nước và ngoài nước.
Bên cạnh đó Nhà nước tổ chức lại, xây dựng lại bộ máy quản lý đủ mạnh
về số lượng và chất lượng để quản lý có hiệu lực, lựa chọn những cán bộ có khả


năng, trình độ, kinh nghiệm để đưa đất nước nhanh chóng tiến lên hiện đại hố
hệ thống quản lý Nhà nước theo u cầu của cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Cuối cùng Nhà nước tổ chức kiểm tra q trình thực hiện cơng nghiệp
hố, hiện đại hố nền kinh tế để phát triển kịp thời những khó khăn, trục trặc, sai
sót, lệch lạc, mất cân đối. Quyết định điều chỉnh một cách hợp lý q trình thực
hiện.
Để hồn thành được quyền lực chính trị cũng như vai trị của mình, trong
q trình thực hiện địi hỏi Nhà nước phải lựa chọn, sử dụng các cơng cụ quản lý
có hiệu lực như hệ thống pháp luật, các chính sách kinh tế - xã hội và cả lực lượng
kinh tế Nhà nước - được xem như lực lượng có tính hướng dẫn tiên phong cho
thành phần kinh tế khác. Mặt khác vai trò quản lý, quyết định của Nhà nước còn
thể hiện ở việc lựa chọn tối ưu các phương pháp như phương pháp giáo dục,
thuyết phục và động viên, phương pháp tổ chức - hành chính, phương pháp kinh
tế. Mỗi phương pháp có vị trí quan trọng khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ
với nhau, tạo điều kiện cho nhau, vì vậy việc kết hợp hài hồ phương pháp là rất

cần thiết. Trong đó cần nhấn mạnh vai trị của phương pháp kinh tế. Nhà nước
cũng phải không ngừng đổi mới hồn thiện các cơng cụ cần thiết và cịn non trẻ ở
nước ta theo cơ chế thị trường như thống kê, kế tốn và kiểm tốn, chế độ tài
chính và báo cáo tài chính cơng khai…
Có thể thấy rằng quyền lực chính trị cũng như vai trị của Nhà nước đối
với q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta rất rộng lớn và nặng nề và
toàn diện địi hỏi sự tập trung trí tuệ “Những cơng trình sư” tài năng và đặc biệt
là sự đồng tâm giúp đỡ của mọi tầng lớp nhân dân.
1.3 KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC VÀ HÀN QUỐC VỀ QUYỀN LỰC
CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRỊ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI Q TRÌNH CƠNG NGHIỆP
HỐ, HIỆN ĐẠI HỐ.

1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc.
Để đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta mà có thể
tránh được những sai lầm khơng đáng có thì việc xem xét, nghiên cứu kinh
nghiệm của các nước có nhiều điểm tương đồng với ta về kinh tế, văn hố, địa
lý…, có những thành cơng đáng kể trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị
trường và thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước như Trung Quốc là
những công việc rất bổ ích và có ý nghĩa thiết thực. Những thành cơng to lớn
của Trung Quốc trong hơn 20 năm qua thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố
có vai trị rất lớn của Nhà nước.


Để thực hiện có kết quả vai trị định hướng cho q trình cơng nghiệp
hố, khác với các nước Tây Âu, Nhà nước Trung Quốc đã không dùng giải pháp
sốc mà tiến hành cải cách từng bước thông qua thử nghiệm. Phương châm này
được áp dụng trên nhiều lĩnh vực: Nông nghiệp, công nghiệp, đối ngoại…
Thành công ở Trung Quốc trong 20 năm qua đã chỉ ra cho Đảng và Nhà nước,
các cấp lãnh đạo của ta rằng: Trong khi chưa biết làm gì, nên làm thế nào nhưng
việc cần làm thì cứ làm và phải làm từ từ vừa làm, vừa nghe, vừa xem xét, bàn

bạc, rồi đúc kết kinh nghiệm, sau đó tổng kết, đáng giá chỉ ra đâu đúng đâu sai,
khái quát thành bài học rồi nhân rộng ra. Cách đi theo kiểu “dị đá qua sơng” –
Giống như người ta muốn qua sông mà không biết sơng nơng hay sâu, phải dị
dẫm để đo và tránh mạo hiểm, từng bước ắt sẽ sang được bên kia là bài học quý
báu cho chúng ta trong việc hình thành phương pháp xây dựng chiến lược,
đường lối của Đảng và Nhà nước.
Vai trị tạo mơi trường vĩ mơ cho cơng nghiệp hố, hiện đại hố thành
cơng nhất, sáng tạo nhất của Nhà nước Trung Quốc thể hiện ở việc lựa chọn
thành lập bốn đặc khu kinh tế đầu tiên là Thẩm Quyến, Chu Hải, Sán Dầu và Hạ
Môn nơi tiếp giáp với Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao - Là quê hương của nhiều
triệu Hoa kiều. Đây là bài học về việc khéo léo dựa vào nguồn lực bên ngoài, lợi
dụng và khai thác tổng hợp các yếu tố địa lý và dân tộc để phát triển kinh tế và
công nghiệp trong nước. Để thu vào đầu tư nước ngoài, Nhà nước Trung Quốc
với quan điểm “Làm tổ cho chim phượng hoàng đẻ trứng” đã xây dựng cơ sở hạ
tầng mạng lưới điện - nước, đường xá, cầu cống… và phát triển đô thị trong các
đặc khu kinh tế như nhà ở, trường học, bệnh viện, trung tâm công cộng…
Nhưng phải chú ý rằng việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng là do Nhà nước
bỏ kinh phí cịn cơng ty nước ngồi cung cấp thiết bị hiện đại.
Chính phủ Trung Quốc cũng thực hiện chủ trương “Chính phủ chỉ cho
chính sách, khơng cho tiền”. Trung Quốc đã ban hành rất nhiều chính sách ưu
đãi tại các đặc khu kinh tế so với chính sách đầu tư nước ngoài chung cho cả
nước như: Ưu đãi về thuế, đất đai, quản lý ngoại hối, tiêu thụ sản phẩm… Tính
đến đầu năm 1997, các khu kinh tế có 40.000 xí nghiệp dùng vốn nước ngồi và
thu hút được hơn 50 tỷ USD.
Để đẩy mạnh hiệu quả hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp, Nhà
nước đã từng bước nới rộng cho tới tách hẳn quyền sở hữu và chức năng kinh
doanh trong doanh nghiệp, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh cho nền
kinh tế với phương châm “nắm lớn bỏ nhỏ”.



Trong nông thôn, Nhà nước thúc đẩy phát triển các xí nghiệp hương trấn với
sự giúp đỡ về chính sách của Nhà nước như hạ thấp mức thuế, miễn thuế 3 năm
đầu cho xí nghiệp mới thành lập, thu hẹp phạm vi quản lý giấy phép…
Trong việc phát triển khoa học - công nghệ, Nhà nước thực hiện cải cách hệ
thống tổ chức khoa học - kỹ thuật; Thực hiện chương trình “đốm lửa”, “bó đuốc”…
Đồng thời, cơng cuộc cải cách thể chế chính trị diễn ra rất mạnh mẽ, Trung
Quốc khơng ngừng kiện tồn chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp
chế, phân định chức năng lãnh đạo của Đảng và công nghiệp thực hiện của Nhà
nước, tinh giản bộ máy quản lý. Trong xây dựng đội ngũ cán bộ, tiêu chuẩn về
phẩm chất và năng lực của họ được đánh giá bằng lòng nhiệt thành, quyết tâm và
những hành động có hiệu quả trong cải cách kinh tế.
Nhà nước rất coi trọng việc kiểm tra, kiểm soát đặc biệt vấn đề chống tham
nhũng đã được Trung Quốc coi trọng nhằm làm trong sạch và lành mạnh bộ máy
Nhà nước, bảo vệ quyền lợi của nhân dân. Biện pháp thực hiện của Trung Quốc là
củng cố kỷ luật Đảng, tăng cường kỷ cương phép nước “tất cả những ai vi phạm
kỷ luật đều bị trừng trị nghiêm khắc”, tăng cường sự tham gia của mọi người dân
vào cơng tác này.
Vấn đề vai trị của Nhà nước trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố
ở Trung Quốc - một điểm nóng trong khu vực năng động Châu Á - Thái Bình
Dương chắc chắn sẽ có nhiều diễn biến mới mẻ có ý nghĩa cho những kinh
nghiệm, giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước trong cơng nghiệp hố,
hiện đại hố cần được tiếp tục nghiên cứu.
1.3.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc.
Hàn Quốc một trong ít nước gần đây thực hiện thành cơng cơng nghiệp
hố, hiện đại hố, nó lại gần nước ta, vì vậy xem xét Hàn Quốc cũng sẽ có
những đóng góp cho q trình nâng cao vai trị của Nhà nước ta trong q
trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Nhiều người biết rằng thành công của
nền kinh tế Hàn Quốc phần lớn là nhờ nó có một “Nhà nước mạnh”và nhờ
năng lực của nó trong việc đưa nguồn nhân lực cơng cộng và tư nhân vào việc
cải cách tạo ra những khu vực công nghiệp năng động. Đứng trên Nhà nước

này là Park chung - Hec, là một lãnh tụ mạnh, độc đốn. Ơng đã xây dựng
một “Nhà nước phát triển” đủ “độc lập” và “mạnh mẽ” để chỉ huy các
chương trình phát triển theo những nguyên tắc và những ưu tiên do Nhà nước
quy định.


Thể chế hoạch định chính sách ở Hàn Quốc lúc đó rất mạnh mẽ và hồn tồn
riêng biệt. Trong đó bao gồm các cán bộ cốt án am hiểu và thành thạo nghiệp vụ,
loại trừ dứt khoát các cán bộ quan liêu. Ban kế hoạch hoá kinh tế (EPB) trở thành
“trái tim” của việc hoạch định chính sách là “cơ quan phối hợp trung ương” về kế
hoạch hoá kinh tế quốc gia. Trên thực tế Nhà nước trở thành nhân tố chi phối hầu
hết các mặt ở phía Nam Triều Tiên.
Tuy nhiên do thị trường quốc tế lớn, trong xu thế tất yếu là mở cửa đã quy
định một giới hạn cho sức mạnh của Nhà nước. Đồng thời do nền kinh tế lớn lên về
quy mô và không ngừng trở thành phức tạp về cấu trúc nên sức mạnh và tính độc
lập của Nhà nước đối với các nhóm kinh tế cũng thay đổi. Nền kinh tế Hàn Quốc
mang đặc trưng cơng nghiệp hố hướng về xuất khẩu (EOI) do đó sức mạnh thị
trường quốc tế ảnh hưởng lớn đến phương thức và cung cách can thiệp kinh tế của
Nhà nước. Cơng nghiệp hố càng được đẩy sâu thì khả năng và những ảnh hưởng
của tổ chức thuộc khu vực tư nhân cũng sẽ tăng lên đối với Nhà nước. Điều này
cũng sẽ làm giảm sự can thiệp và hiệu lực của Nhà nước trong việc thực thi quyền
lực. Cuối cùng Nhà nước phải thực hiện chiến lược dân chủ hoá để tránh sự xung
đột giữa Nhà nước và xã hội cơng dân.
Từ kinh nghiệm q trình cơng nghiệp hố của Hàn Quốc chúng ta có thể
nói rằng: Có thể khởi đầu cơng nghiệp hố trong điều kiện một chế độ quyết đốn,
hành động độc lập nhưng khơng thể đẩy tới và hồn tất sự nghiệp cơng nghiệp hố
bằng chế độ ấy. Hàn Quốc thành công (cũng như một số nước công nghiệp mới ở
Châu Á) trước hết và phụ thuộc vào vai trò hoạch định chiến lược của Nhà nước.
Muốn nâng cao vai trò này và đòi hỏi một sự tập trung trí tuệ được thực hiện càng
sớm thì thành cơng càng được đảm bảo.

Nếu xem xét một cách sâu sắc hơn về diễn biến, biến đổi vai trị của Nhà
nước ở Hàn Quốc có thể khẳng định rằng q trình cơng nghiệp hố ở nước này về
khách quan gắn liền với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền và dân chủ hoá
từng bước đời sống nhân dân.


Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRỊ
QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI Q TRÌNH
CƠNG NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI HỐ Ở NƯỚC TA
2.1. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRỊ
QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI Q TRÌNH CƠNG NGHIỆP
HỐ, HIỆN ĐẠI HỐ Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA.

2.1.1. Về đánh giá tình hình, xác định mục tiêu và bước đi của q trình
cơng nghiệp hố, hiện đại hoá.
2.1.1.1. Giai đoạn trước đổi mới(1960 - 1986).
Nhằm xây dựng bước đầu cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội chủ nghĩa,
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9/1960) đã đề ra chủ trương công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta “xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp và nông nghiệp,
lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý…”. Chủ trương này đã được nhân dân miền Bắc thực hiện một
cách hồ hởi, nhiệt tình trong niềm vui xây dựng xã hội mới và để phục vụ cho
cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam ruột thịt chống lại đế quốc Mỹ. Sau
một thời gian gián đoạn do đế quốc mỹ leo thang phá hoại miền Bắc, đến năm
1976 cả nước cùng tiến lên xã hội chủ nghĩa. Tháng 12/1976 Đại hội IV của
Đảng nêu lên đường lối xây dựng nền kinh tế - xã hội mà về cơ bản vẫn là
tiếp tục “xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thơng qua cơng nghiệp hố xã hội
chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý
trên cơ sở phát triển nhiệm vụ và công nghiệp nhẹ”. Nhưng sau những nỗ lực

phát triển kinh tế theo đường lối trên nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng rất
chậm chạp, thậm chí đến cuối những năm 70 đã bước vào khủng hoảng trì trệ,
giá cả tăng nhanh. Cịn công nghiệp trong những năm 1976 – 1980, mặc dù
đầu tư của Nhà nước cho công nghiệp rất lớn, chiếm 35,5% tổng số vốn đầu
tư xây dựng cơ bản và tăng lên không ngừng qua các năm nhưng sản xuất
công nghiệp tăng lên rất chậm, giá trị sản lượng công nghiệp tăng 2,5 %, bình
qn chỉ tăng 0,6/năm, thậm chí có chiều hướng giảm sút (năm 1977 tăng
10,8%, năm 1982 tăng 8,2%, năm 1979 giảm 4,7%, năm 1980 giảm 10,3%).
Tình trạng trên một phần do những nhân tố khách quan như: Nền kinh tế
chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, chưa có tích luỹ đáng kể từ nội bộ, nguồn lực từ


bên ngoài giảm dần. Mặt khác, chiến tranh biên giới Tây Nam và chính sách bao
vây cấm vận từ nước ngồi. Song những khuyết điểm về phía chủ quan cũng rất
lớn mà chủ yếu là do những sai lầm về xác định mục tiêu, bước đi của Đảng và
Nhà nước. Cụ thể là chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hố theo hướng ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng, đầu tư lại dàn trải qua nhiều cơng trình xây dựng
vẫn dở dang chưa đưa vào hoạt động trong khi công nghiệp nhẹ chưa được chú ý
đúng mức; Nóng vội trong cải cách xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ kinh tế tư nhân ở
miền Nam đã cắt đứt nguồn vốn, vật tư và thị trường mà các xí nghiệp này vốn
có mối liên hệ nước ngoài…
Nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém trong vai trò xác định mục tiêu,
các bước đi phù hợp cho cơng nghiệp hố của Nhà nước là nhìn nhận khơng sát
thực tế, trong khi chưa có đủ tiền để cần thiết nhưng đã đẩy mạnh công nghiệp
nặng. Việc rập khn máy móc theo mơ hình cơng nghiệp hố ở Liên Xơ trong
lúc hồn cảnh, nguồn lực nước ta hoàn toàn khác, bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức
lý luận và vận dụng các quy luật khách quan và bệnh duy ý chí, giản đơn hố,
muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện nước ta mới ở chặng đường đầu. Và trên thực tế, đã có những thành kiến
khơng đúng về thành phần kinh tế tư nhân và sản xuất hàng hố. Đây là nhiệm

vụ cịn mới mẻ, ít kinh nghiệm với nước ta nhưng chúng ta lại chưa chú ý đầy
đủ việc tổng kết thực tiễn để vận dụng phù hợp.
Tất nhiên chúng ta cũng nhận thấy rằng có những thành công nhất định
của Nhà nước đối với quá trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố, đặc biệt trong
giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Đánh giá thành tựu của giai đoạn 1961 - 1965
báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá III (8/4/1965) đã ghi
nhận: “Qua việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, tiềm lực kinh tế của
miền Bắc tăng lên rõ rệt”. Trong sự nghiệp bước đầu công nghiệp xã hội chủ
nghĩa, chúng ta đã làm được: Tổng sản phẩm xã hội bình quân hàng năm tăng
9,5%, giá trị sản lượng cơng nghiệp bình qn tăng 13,4%, kim ngạch xuất khẩu
bình quân tăng 12,6%. Kết quả này chứng tỏ những thành công của nhà nước
trong việc định hướng đúng từng bước cho cơng nghiệp hố mà quan trọng nhất
là những thành tựu này đã góp phần lớn ủng hộ miền Nam đánh thắng Mỹ.
Trong giai đoạn này việc định hướng phát triển cơng nghiệp hố như trên đã tập
trung được các nguồn lực của toàn thể nhân dân tạo nên sức mạnh to lớn, tổng
thể của toàn dân tộc.


Trong giai đoạn 1981 - 1985 chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước đã có những điểm mới nhằm khắc phục những trì trệ của q trình cơng
nghiệp hố và nền kinh tế: điều chỉnh mối quan hệ giữa công nghiệp với nông
nghiệp, giữa công nghiệp nặng với công nghiệp nhẹ trong nội dung cơng nghiệp
hố. Nhưng về cơ bản vẫn chưa thay đổi. Thực tế vai trò định hướng của Nhà
nước trong giai đoạn này có những thay đổi nhưng cịn mang tính bị động do
sức ép của những hoạt động kinh tế ngầm trong nhân dân chứ chưa thực sự là sự
chủ động, sáng tạo của các cấp lãnh đạo nên việc định hướng còn thiếu nhất
quán, toàn diện.
2.1.1.2. Giai đoạn sau đổi mới (từ 1986 đến nay).
Qua các kỳ Đại hội VI (12/1986, Đại hội VII (6/1991, Đại hội VII(6/1996),
Đại hội IX (4/2001) đã đề ra, khẳng định, bổ sung và hồn thiện các chủ trương,

chính sách đổi mới kinh tế trong cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Đảng và Nhà nước
chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá phấn đấu đến 2020 đưa nước
ta cơ bản thành một nước công nghiệp. Cụ thể, cơng nghiệp hố, hiện đại hố được
xác định coi trọng cơng nghiệp hố nơng nghiệp và nơng thơn, phát triển công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nội dung của cơng nghiệp hố,
hiện đại hố trong thời kỳ này là xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp
nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết, có điều kiện về vốn, cơng nghiệp, thị trường
như: năng lượng, nhiên liệu, vật liệu xây dựng, luyện kim, hố chất…
Những kết quả đầu tiên có thể thấy đó là: GDP trong 10 năm (1991 2000) tăng bình quân 7,56%; sản xuất không chỉ đáp ứng được tiêu dùng mà cịn
dành một phần để tích luỹ (năm 1991:10.12%, năm 1995: 20%, năm 2000: 27%
GDP); Sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục, bình quân thời kỳ 1991 –
1995 tăng 13,7%, thời kỳ 1996 – 2000 tăng 13,2%,… Những thành tựu ban đầu
vô cùng quan trọng đã chứng tỏ vai trị định hướng của Nhà nước đối với q
trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố có bước tiến bộ vượt bậc so với giai đoạn
trước đó. Mục tiêu và các bước đi của cơng nghiệp hố, hiện đại hố đã phù hợp,
toàn diện hơn. Điều này là do Đảng và Nhà nước đã đổi mới tư duy, không
ngừng đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn, nhanh chóng nắm bắt, vận dụng những
cái mới.
Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề trong công tác định hướng của Đảng và
Nhà nước cần tiếp tục hồn thiện. Đó là tiến trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá
chưa được Nhà nước định ra cụ thể. Về tổng qt, q trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hoá sẽ tiếp tục được thực hiện mà trước mắt là tới năm 2020 nhưng các


bước cụ thể chưa được xác định rõ ràng.Do đó trong quá trình thực hiện các mục
tiêu phát triển đã nảy sinh một số vấn đề như thực phát triển công nghiệp chế biến
như thế nào?... Nguyên nhân khách quan cơ bản, quá trình đổi mới của nước ta là
quá trình mới mẻ, vì vậy việc xác định những bước đi cụ thể cho cơng nghiệp hố,
hiện đại hố trong hồn cảnh này cịn nhiều bỡ ngỡ, phải từ từ tránh sự nóng vội
như trước đây.

Từ thực tiễn giai đoạn vừa qua có thể nhận thấy vai trị đánh giá tình hình cụ
thể, xác định mục tiêu, định hướng bước đi cho q trình cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đã được Nhà nước thay đổi nhằm làm cho càng ngày càng hiệu quả hơn. Cũng
vì thế q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố cũng càng ngày càng có bước tiến bộ
rõ rệt. Bên cạnh những bước phát triển đáng hoan nghênh cũng còn những hạn chế
mà Nhà nước ta phải nhanh chóng sửa đổi, bổ sung cho hợp lý. Như vậy vai trị của
Nhà nước trong cơng nghiệp hố, hiện đại hố tuy có được nâng cao lên nhiều
nhưng vẫn chưa tương xứng với yêu cầu.
2.1.2. Về vấn đề tạo mơi trường vĩ mơ cho q trình cơng nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
2.1.2.1. Giai đoạn trước đổi mới.
Cùng với chủ trương cơng nghiệp hố, Nhà nước ta cũng đẩy mạnh cải
tạo xã hội chủ nghĩa mà thực chất là xoá bỏ thành phần kinh tế tư nhân, tư bản chủ
nghĩa chỉ cho phép tồn tại thành phần kinh tế quốc doanh và hợp tác - xã tập thể.
Quá trình thực hiện mang tính chủ quan nóng vội, gị ép, áp dụng những hình thức
quản lý máy móc và chạy theo số lượng, hiệu quả. Với nền kinh tế chỉ có hai thành
phần Nhà nước và tập thể nên mất đi môi trường cạnh tranh và động lực phát triển
công nghiệp hố cũng khơng cịn. Các cá nhân khơng thấy được nguồn vốn trong
dân, khơng kích thích được việc áp dụng khoa học kỹ thuật cũng như các sáng tạo
nhằm nâng cao năng suất lao động. Chính vì vậy các doanh nghiệp Nhà nước và
các hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả.
Về cơ chế quản lý kinh tế tồn tại nhiều nhược điểm. Nhà nước quản lý
kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh
chi tiết từ trên xuống. Do đó hoạt động của các doanh nghiệp đều do Nhà nước
quyết định từ đầu vào đến đầu ra. Mặt khác các cơ quan hành chính kinh tế can
thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, những thiệt
hại do những quyết định khơng đúng thì do ngân sách Nhà nước gánh chịu,
chính sách quản lý này đã làm cho các doanh nghiệp khơng có quyền tự chủ
đồng thời ỷ lại vào cấp trên vì khơng phải chịu trách nhiệm với kết quả sản xuất



kinh doanh chính vì vậy mà cơng tác quản lý tại các doanh nghiệp bị buông lỏng
dẫn tới sự vi phạm pháp luật diễn ra phổ biến.
Trong thời kỳ này quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị coi thường, Nhà nước
quản lý nền kinh tế bằng kế hoạch và chế độ cấp phép theo chỉ tiêu.
Bên cạnh đó bộ máy quản lý lai cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và
kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ có phong cách làm việc quan
liêu, cửa quyền, kém năng động.
Hệ thống công cụ quản lý như pháp luật, chính sách thiếu đồng bộ. Đặc
biệt các chính sách về các thành phần kinh tế thiếu nhất quán, thay đổi đột ngột
đã làm cho các cá nhân, tổ chức trong và ngồi nước khơng dám đầu tư phát
triển.
Nhà nước chưa mở rộng quan hệ đối ngoại nên việc tiếp cận những thành
tựu mới của thế giới cũng như huy động nguồn lực bên ngồi gặp nhiều khó
khăn.
Hệ quả tất yếu là môi trường vĩ mô cho công nghiệp hố, hiện đại hố gần
như khơng có, cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu. Hệ thống thị trường không có, tài
chính tiền tệ khơng ổn định, ngân sách Nhà nước thường xuyên bị bội chi (năm
1980 là 18,1%, năm 1985 là 36,6%,) lạm phát tăng mạnh làm rối loạn nền kinh
tế. Nếu lấy chỉ số giá năm 1975 là 1 thì năm 1980 là 2,5 lần và năm 1985 là 38,5
lần. Đồng thời nó làm triệt tiêu tính năng động sáng tạo của doanh nghiệp, của
từng người dân, kìm hãm sự nghiệp phát triển của khoa học kỹ thuật.
2.1.2.2. Giai đoạn sau đổi mới.
Nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước với nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại
và phát triển. Quan điểm của Đảng và Nhà nước là cho phép phát nhiều hình
thức sản xuất kinh doanh theo quy mơ thích hợp nhằm khai thác mọi khả năng
của các thành phần kinh tế. Tính đến năm 2000, riêng trong cơng nghiệp đã có
1.063 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi và 2.787 doanh nghiệp đầu tư hỗn
hợp.

Đồng thời với cơ chế quản lý đổi mới, các công cụ quản lý như chính
sách, luật pháp cũng được đổi mới. Cơng cụ kế hoạch trước đây được sử dụng từ
tầm vĩ mô đến vi mơ thì nay chỉ sử dụng các chiến lược dài hạn, trung hạn để
đảm bảo cho các quan hệ cân đối tổng hợp trong nền kinh tế. Hệ thống pháp
luật, chính sách càng ngày càng hồn thiện.


Nhà nước xoá bỏ bao cấp, tự do hoá giá cả, khơi phục các quan hệ hàng
hố - tiền tệ các thành phần kinh tế sản xuất, kinh doanh tuân theo quy luật cung
cầu của thị trường, hệ thống ngân hàng cũng được chia thành 2 cấp với chức
năng riêng biệt và hoạt động của ngân hàng cũng dựa vào cơng cụ lãi suất tạo ra
tính linh hoạt, phù hợp với thị trường.
Nhà nước cũng ban hành nhiều chính sách để tạo lập tính đồng bộ của các
yếu tố thị trường, phục hồi và phát triển các loại thị trường. Thị trường hàng hố
dịch vụ được khơi phục và mở rộng nhanh chóng cùng với q trình giảm dần
và tiến tới xoá bỏ bao cấp của Nhà nước qua giá; Thị trường lao động ra đời
cùng với khu vực kinh tế tư nhân và quan hệ cung cầu trên thị trường này, được
thể chế hoá qua luật lao động năm 1994 và các nghị định của chính phủ; Thị
trường tài chính tiền tệ bao gồm: thị trường tín dụng ngắn hạn, thị trường nội,
ngoại tệ, thị trường tín phiếu kho bạc, thị trường chứng khốn tuy cịn sơ khai
nhưng đã có tác dụng tích cực, bước đầu trong việc huy động vốn, giao lưu và
cung ứng vốn; Thị trường bất động sản, khoa học - công nghệ cũng được Nhà
nước quan tâm và phát triển.
Trong chính sách đối ngoại, Nhà nước đã mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế
với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, đa phương hoá, đa dạng hố các quan hệ
trên tinh thần đơi bên cùng có lợi, tơn trọng độc lập chủ quyền khơng can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau. Nhà nước cũng tạo môi trường thuận lợi cho các
nhà đầu tư nước ngồi như: đơn giản thủ tục hành chính, xây dựng các khu chế
xuất, mở rộng lĩnh vực đầu tư.
Kết quả sau 20 năm đổi mới, môi trường vĩ mô ngày càng hoàn thiện và

hợp lý tạo điều kiện cho cơng nghiệp hố, hiện đại hố có những thành cơng to
lớn.
Tuy nhiên môi trường vĩ mô của Nhà nước vẫn tồn tại nhiều bất cập Nhận xét về môi trường đầu tư ở Việt Nam dư luận nước ngoài đã có nhận xét:
“Hệ thống pháp lý của Việt Nam thiếu những đảm bảo về tài sản, khơng sẵn
lịng cho phép các liên doanh mở tài khoản ở nước ngoài, đánh thuế quá mức, tệ
quan liêu, các thủ tục phiền hà; hệ thống pháp lý một mặt còn chưa đầy đủ, mặt
khác lại thay đổi nhanh chóng”. Chính bản thân nhiều văn bản Nhà nước cũng
khẳng định “Chính sách quản lý vĩ mơ cịn nhiều thiếu sót và sơ hở” và “Kỷ
luật, phép nước khơng nghiêm”. Ngồi ra với đội ngũ cán bộ quản lý cũ vẫn
chưa hồn tồn thốt khỏi tư duy trước đây cũng tạo ra những bất cập không nhỏ
cho môi trường vĩ mô. Đặc biệt là hệ thống các loại thị trường mới chỉ hình


thành ở giai đoạn đầu, còn sơ khai, chưa phát huy được khả năng tự điều chỉnh
theo cơ chế thị trường một cách hoàn hảo. Nhà nước cũng chưa tổ chức tốt hệ
thống thông tin thị trường bao gồm việc nghiên cứu, điều tra, thăm dò, dự báo
thị trường trong và ngồi nước.
Nhìn chung từ năm 1986 tới nay vai trị mơi trường vĩ mơ cho q trình
cơng nghiệp hố, hiện đại hố của Nhà nước ta ngày càng có hiệu quả, điều đó
đã tạo động lực cho sự tăng trưởng ngoạn mục nền kinh tế nửa đầu thập kỷ 90.
Tuy nhiên việc hồn thiện các chính sách và cơng cụ quản lý, nâng cao hiệu lực
của bộ máy Nhà nước và phát triển đồng bộ các loại thị trường vẫn là vấn đề nổi
cộm hiện nay. Một mặt do quá trình đổi mới của ta diễn ra từng bước theo
hướng vừa làm vừa thử nghiệm, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực trạng,
bối cảnh của đất nước nên môi trường vĩ mô phát triển chậm, mặt khác những
tàn tích trước đây chưa hết hẳn nên năng lực của bộ máy điều hành còn nhiều
hạn chế.
2.1.3. Về phối hợp, điều hoà các nguồn lực và sử dụng đội ngũ cán bộ
trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá.
Trong giai đoạn trước đổi mới việc phối hợp, điều hồ các nguồn lực đều

được kế hoạch hố chi tiết - Hoạt động kế hoạch lại dựa trên ý muốn chủ quan là
cơ bản vì vậy sự phối hợp, điều hoà các nguồn lực được thực hiện một cách
cứng nhắc, không cân đối và không hiệu quả. Cụ thể: trong nông nghiệp Nhà
nước tăng cường đầu tư từ 2.5691 triệu đồng năm (năm 1976) lên 3.038 triệu
(năm 1980) nhưng trong giai đoạn 1976 – 1980 nơng nghiệp cả nước nói chung,
miền Bắc nói riêng chẳng những khơng tăng mà cịn giảm. Điển hình là sản
lượng lương thực miền Bắc từ 6,407 triệu tấn giảm xuống 5,997 triệu tấn; Trong
công nghiệp Nhà nước đầu tư rất lớn (1976 - 1980) chiếm trên 35% tổng số vốn
xây dựng cơ bản và tăng không ngừng qua các năm nhưng sản xuất công nghiệp
tăng rất bình chậm bình qn tăng 6% năm, thậm chí có chiều hướng giảm sút
(1977 tăng 10,8%, 1978 tăng 8,2%, năm 1979 tăng 4,7%). Trong những năm
1981 – 1985 công nghiệp chiếm 41% giá trị tài sản cố định của nền kinh tế
nhưng chỉ thu hút được 10,7% tổng số lao động xã hội và chỉ tạo ra 28,2% thu
nhập quốc dân. Tuy nhiên trong thời gian tồn tại cơ chế tập trung, bao cấp sự
nghiệp cơng nghiệp hố cũng đạt được những thành tựu đáng trân trọng để tạo
tiền đề cho sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố trong thời kỳ đổi mới như:
Xây dựng nhà máy nhiệt điện Phả Lại, thuỷ điện Hồ Bình, thuỷ điện Trị An,
khu dầu khí Vũng Tàu, các nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch…


Về nguồn lực con người, Nhà nước chưa tạo điều kiện cho tài năng phát
triển mà vẫn dựa trên chuẩn mực đạo đức, tiền lương không phản ánh được năng
suất và hiệu quả lao động dẫn đến từng cá nhân khơng phát huy được năng lực
của mình.
Nói chung việc huy động các nguồn lực, phân phối, điều hồ chúng cịn
nhiều hạn chế nên làm chậm q trình cơng nghiệp hố góp phần khơng nhỏ vào
việc kinh tế xã hội vào khủng hoảng.
Sang giai đoạn đổi mới, với nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước, vai trị phối hợp, điều hoà các nguồn lực chỉ nằm ở tầm vĩ mơ cịn chủ yếu
được thị trường điều chỉnh theo quy luật khách quan. Thơng qua các chính sách

mở cửa, khai thác nguồn vốn nước ngồi có những bước tiến bộ rõ rệt: Năm
1998 có 37 dự án đầu tư với tổng vốn 371 triệu USD thì đến năm 2000 đã có tới
3209 dự án với tổng số vốn 39,4 tỷ USD và đến nay nguồn vốn có nguồn gốc
nước ngoài ngày càng tăng về số lượng và phong phú hơn về lĩnh vực đầu tư.
Tuy nhiên cơ cấu đầu tư còn mất cân đối chỉ thường tập trung vào các lĩnh vực
như: Du lịch, khách sạn, dầu khí, chế biến hải sản… Đầu tư cho cơ sở hạ tầng
như: giao thơng, vận tải, cơng nghiệp nặng cịn q ít. Sự phân bố vốn đầu tư
vào các tỉnh phía Nam cịn chiếm tỷ trọng lớn. Ngồi ra nguồn vốn vay của Nhà
nước thì đầu tư chủ yếu cho khu vực doanh nghiệp Nhà nước trong khi hoạt
động của doanh nghiệp này hiệu quả còn chưa cao đồng thời cơ chế còn nhiều
bất cập chưa rõ ràng. Nguồn vốn trong nước cịn khó huy động thị trường vốn
mới hình thành, hoạt động chưa hiệu quả (thị trường trái phiếu, tín phiếu kho
bạc, thị trường chứng khoán). Hệ thống ngân hàng tư nhân cịn ít và chưa gây
được niềm tin trong nhân dân. Ngân hàng Nhà nước khi cho vay vốn cơng cụ
điều phối vốn của Nhà nước cịn hạn chế tác dụng. Tuy nhiên với việc đổi mới
tư duy kinh tế những năm gần đây Nhà nước đã ban hành nhiều các chính sách
vĩ mơ để khắc phục các hạn chế kể trên và hiệu quả là nền kinh tế đất nước đang
dịch chuyển theo hướng tích cực dần hồ nhập với nền kinh tế khu vực và thế
giới.
Về nguồn lực khoa học - công nghệ bên cạnh cơ chế quản lý mới Nhà
nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm kích thích đổi mới, nâng cao trình độ
khoa học - cộng nghệ. Với luật đầu tư nước ngoài; Luật bào hộ quyền sở hữu
công nghiệp, pháp lệnh chuyển giao cơng nghệ nước ngồi vào Việt Nam và
một loại các thông tư, quyết định cụ thể khác Nhà nước đã tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp nhanh chóng đổi mới công nghệ trong sản xuất nâng



×