Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta - tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.21 KB, 30 trang )

A – MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Quyền lực chính trị là vấn đề quan trọng nhất trong đời sống chính trị
xã hội. Khi xã hội đã xuất hiện giai cấp và Nhà nước thì cái cơ bản nhất trong
đời sống chính trị xã hội là vấn đề quyền lực. Vì vậy, các giai cấp thường tìm
cách nắm lấy quyền lực hoặc tham gia thực hiện quyền lực. Không nắm được
quyền lực Nhà nước và không tham gia thực hiện quyền lực Nhà nước thì
không một giai cấp nào có thể thực hiện và bảo vệ quyền lực của mình. Lịch
sử loài người đã chứng kiến nhiều cuộc đấu tranh gau gắt nhằm giành chính
quyền và ngay cả trong tổ chức thực hiện quyền lực.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa nói chung thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
ở nước ta nói riêng vấn đề quyền lực chính trị (QLCT) được giải quyết như
thế nào? Quyền lực thuộc về ai? Tổ chức thực hiện quyền lực như thế nào?
Đó là một trong những vấn đề quan trọng, phức tạp nhất của hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa.
Để góp phần giải đáp cho những câu hỏi đó, em đã chọn đề tài “ Quyền
lực chính trị của nhân dân lao động trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa
ở nước ta”.
II. Mục tiêu của đề tài:
Như tên gọi của đề tài bài tiểu luận của em nhằm làm sáng tỏ chủ thể
quyền lực chính trị ở nước ta là nhân dân lao động. Qua việc tìm hiểu nội
dung vai trò QLCT của nhân dân lao động và cơ chế thực thi quyền lực ấy;
em đưa ra những giải pháp thiết thực nhất đảm bảo thực hiện QLCT của nhân
dân ta.
III. Phương pháp nghiên cứu của đề tài:
Do đặc trưng của môn học - với đề tài này đòi hỏi nghiên cứu nhiều tài
liệu.

1



Trước hết, em sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu. Bằng
cái nhìn khách quan của chủ nghiax duy vật biện chứng tìm hiểu và đánh giá
nhận xét để có cái nhìn toàn diện nhất về vấn đề nhạy cảm này.
IV. Cấu trúc của đề tài:
Bài tiểu luận của em gồm ba phần chính:
A. Mở đầu
B. Nội dung
C. Kết luận
Trong đó phần nội dung chú trọng giải quyết các vấn đề sau:
I. Nhận thức chung về quyền lực và QLCT
II. Quyền lực chính trị trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở nước
ta.
III. Những giải pháp đảm bảo thực thi và phát huy quyền lực chính trị
của nhân dân lao động ở nước ta.

2


B - NỘI DUNG
I. NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUYỀN LỰC VÀ QUYỀN LỰC CHÍNH
TRỊ:
1. Những quan điểm phi Macxit về quyền lực và QLCT:
Có thề nói “quyền lực” là phạm trù cơ bản nhất của chính trị của mọi
giai cấp, đảng phái trong xã hội có giai cấp. Vậy nên vấn đề này được các nhà
tư tưởng đề cập đến tương đối sớm.
Từ thời cổ đại, trong tác phẩm “Chính trị Aten”, Aristot đã nghiên cứu
vấn đề quyền lực và xem xét những đặc điểm cơ bản của có. Theo ông, quyền
lực không phải chỉ là cái vốn có của mọi sự vật biết cảm giác mà của cả giới
tự nhiên vô cơ.
Đến thời kỳ trung đại, trong “đêm dài trung cổ” đầy bạo lực và giáo

điều cuồng tín này T Đacanh - nhà thần học đạo Thiên chúa, nhà triết học
uyên bác được mệnh danh là “Aristot thời trung cổ” cũng có những đánh giá
về nguồn gốc và các hình thức của mọi quyền lực. Ông cho rằng QLCT có
nguồn gốc từ thượng đế - người sáng tạo ra tự nhiên. Để xã hội ổn định, cần
phải có quyền uy cao hơn để chỉ huy mỗi thành viên vì lợi ích chung. Do đó,
quyền uy là một đòi hỏi tự nhiên vì đi tới mục đích cần có nó như là một
phương tiện. Tất cả tự nhiên sinh ra từ Thượng đế. Ngoài ra ông còn phân biệt
rõ quyền lực chính trị - quyền lực độc tài và vương quyền.
Tuy còn những hạn chế mang đặc tính thời đại xong những quan điểm
của T. Đacanh đã có những bước nhảy vọt trong lịch sử.
Quan niệm của Rextxô là sự kế thừa tư tưởng của những người đi
trước, vừa có tính độc đáo mà sự tiến bộ của những tư tưởng đó đến nay vẫn
còn nguyên giá trị.
Còn với các nhà tư tưởng phương Đông, QLCT được đề cập trên những
phương diện khác có thể kể đến trước hết với phái Đạo gia; Lão Tử khi bàn
đến ql chính trị đã tổng kết có bốn hình thức cai trị, sử dụng các phương pháp
khác nhau. Đó là: dùng vô vi (dân sống tự nhiên, cai trị đơn giản); dùng đức

3


( lấy đạo đức để cai trị); dùng pháp và dùng mưu lừa gạt. Song ông chủ
trương cai trị bằng phương pháp vô vi vì cho rằng đó là hợp lẽ tự nhiên.
Phái Nho gia với đại diện là nhà tư tưởng Mạnh Tử thì lý giải quyền
lực mang tính duy tâm thần bí , ba yếu tố: ý trời - lòng dân – nhân đức có
quan hệ với nhau. Ông thường lên án “bá đạo” (cai trị bằng bạo lực) mà ngợi
ca và lựa chọn “vương đạo” để cai trị (cai trị bằng đạo đức).
Về sau trong những dòng tư tưởng nổi lên hệ tư tưởng của Mặc gia với
nhận thức rất tiến bộ về vấn đề này. Ông quan niệm nguồn gốc quyền lực lúc
mới hình thành mang tính tự nhiên, xuất phát từ nhu cầu giữ xã hội trong

vòng trật tự. Việc lựa chọn người đứng đầu là do nhân dân với tiêu chuẩn là
người hiền tài không kể thành phần xuất thân đều được cất nhắc. Như vậy
theo ông, quyền lực đúng đắn phải là của chung thiên hạ.
Với cách tiếp cận khác theo chiết tư từ nhiều người cho rằng: Quyền
lực là khái niệm kép bao gồm quyền và lực. Trong đó quyền là một khái
niệm, phạm trù có tính xã hội chỉ mối quan hệ giữa người, phạm trù có tính xã
hội chỉ mối quan hệ giữa người - người trong đó con người ý thức được nhu
cầu của mình rằng những nhu cầu ấy phải được thoả mãn với sự thừa nhận
của người khác. Còn lực chỉ thuộc tính của bất kì một hệ vật chất nào khác mà
có khả năng duy trì sự tồn tại tạo nên sự biến đổi.
Trong thực tiễn, mỗi khi cần tập trung quyền lực mà tập trung quá mức
cần thiết hoặc chưa tới mức cần thiết đều có tác dụng tiêu cực như nhau.
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mac Lênin – tư tưởng Hồ Chí Minh về
quyền lực - quyền chính trị
a. Quan điểm của chủ nghĩa Mac Lê nin về quyền lực – QLCT:
Chủ nghĩa Mac-Lê nin đặc biệt triết học duy vật lịch sử đã đóng góp
cho chính trị những tư tưởng có giá trị. Đặc biệt, chủ nghĩa Mac- Lê nin đã
vạch ra quy luật, tức là những cái tất yếu có tính phổ biến của cuộc đấu tranh

4


chính trị, với nghĩa là đấu tranh giành, giữ, thực thi quyền lực giữa các giai
cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau.
QLCT tất yếu thuộc về giai cấp, tầng lớp xã hội tiêu biểu cho phương thức
sản xuất tiên tiến của xã hội,đại biểu cho xu hướng tiến bộ của sản xuất và do
đó đại biểu cho lợi ích chung của xã hội.
Tuy nhiên MacAngghen, Lenin cũng vạch ra rằng tính tất yếu không có
nghĩa là một giai cấp, một lượng tiến bộ vè kinh tế sẽ tư nhiên có được quyền
lực chính trị, nói cách khác là ngồi chờ quyền thống trị chính trị đến với mình.

Ngược lại, lịch sử chứng minh rằng một giai cấp, một lực lượng dù đã trở nên
lạc hậu, phản động đến mấy cũng không bao giờ tự nhường quyền thống trị
của mình. Do đó cần phải đấu tranh để giành lấy quyền thống trị đó.
Việc giành lấy nhà nước tất yếu cần tới bạo lực. Mac-Angghen- Lenin
chứng minh rằng trong lịch sử loài người các giai cấp nắm được quyền thống
trị chính trị đều cần đến bạo lực với tư cách là dùng sức mạnh để cưỡng chế.
Với bản chất đó, bạo lực có những hình thức khác nhau (bạo lực quân sự, bạo
lực chính trị) Nhưng dưới hình thức gì thì nó cũng là phương thức cần thiết,
tất yếu,do đó các ông khẳng định “bạo lực là bà đỡ cho sự ra đời của xã hội
mới đang thai nghén trong lòng xã hội cũ”
Việc giành lấy và giữ QLCT cần tới mỗi liên minh chặt chẽ với các tầng
lớp lao động đông đảo trong xã hội các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac –
Lenin khẳng định rằng không một giai cấp nào có thể đấu tranh thắng lợi và
giành chính quyền nhà nước mà khi ông cần tới mối liên minh này.Ngay cả
giai cấp tư bản ở các nước châu Âu trong cuộc đấu tranh giành QLCT với giai
cấp phong kiến quý tộc cũng cần tới sự ủng hộ và liên minh của giai cấp nông
dân và giai cấp công nhân.
Giữ và thực thi quyền lực chính trị luôn bao hàm hai mặt chuyên chính
và dân chử bao hàm vì lợi ích giai cấp do vậy, chuyên chính và dân chủ luôn
có tính giai cấp việc giữ quyền lực chính trị cần thiết phải củng cố chế độ sở
hữu nền tảng của phương thức sản xuất và của giai cấp đang nắm quyền lực.

5


b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân xây
dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam là
sản phẩm của sự vận dụng một cách sáng tạo học thuyết Macxit về Nhà nước,
tiếp thu tinh hoa văn hoá phương Đông và phương Tây, truyền thống văn hoá

Việt Nam. Hồ Chí Minh không bê nguyên một mô hình Nhà Nước nào có sẵn,
mà Người căn cứ vào thực tiễn cách mạng để hình thành nên một mô hình nhà
Nước của nhân dân thiết lập ở Việt Nam.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà Nước của dân, do dân, vì dân, trước
hết là Nhà Nước do dân làm chủ . Nghĩa là tất cả mọi quyền binh trong Nước
là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Việc Nước là việc chung của tất cả mọi
người.
Điều 1) Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm trưởng ban
soạn thảo khẳng định “tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân
Việt Nam”, sau đó đến năm 1949 trong một bài viết, Người nhắc lại “Nước ta
là nước dân chủ, bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền từ xã đến
chính phủ trung ương do dân cử ra, tóm lại quyền hạn và lực lượng đều ở nơi
dân
Người luôn xác định mục tiêu phấn đấu cao nhất của nhà nước ta là làm
cho dân có ăn, làm cho dan có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học
hành. Người chủ trương chính quyền của chúng ta phải là chính quyền của
dân, do dân và vì dân tức là nguồn gốc và chủ thể của quyền lực chính là nhân
dân Hồ Chí Minh khẳng định “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình
thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do dân bầu ra và chịu
trách nhiệm trước nhân dân”
Nhà nước vì dân là nhà nước coi việc đem lại quyền lợi chính đáng cho
nhân dân là mục tiêu hoạt động của mình Người viết “việc gì có lợi cho dân ta
phải hết sức làm , việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh”

6


Tư tưởng Nhà nước “thân dân” Nhà nước “lấy dân làm gốc” đã sớm
xuất hiện và phát triển sâu sắc, phong phú về nội dung, chất lượng trở thành

một quan điểm cách mạng, khoa học nhân đạo là định hướng tư tưởng làm chỉ
nam chỉ đạo mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong giai
đoạn hiện nay.
II. QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA.
1. Thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
a. Lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Tổng kết thực tiễn cách mạng thế giới sau cách mạng tháng Mười,
các nhà kinh điển chủ nghĩa Mac- Lenin khẳng định “Thời đại chúng ta mà
nội dung chủ yếu là sự quá độ từ CNTB lên CNXH, mở đầu bằng cách mạng
XHCN tháng Mười vĩ đại, là thời đại đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội đối
lập, là thời đại cách mạng XHCN và cách mạng giải phóng dân tộc, là thời đại
chủ nghĩa đế quốc bị sụp đổ và hệ thống thuộc địa bị thủ tiêu, là thời đại ngày
càng có nhiều dân tộc tiến lên con đường XHCN, là thời đại thắng lợi của
CNXh và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới
Sự quá độ từ CNTB lên CNXH là một quá trình đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc có ý thức giữa các nước XHCN và các nước TBCN, giữa các
dân tộc lạc hậu bị áp bức và các nước đế quốc, giữa giai cấp công nhân và
giai cấp tư sản ở các nước TBCN sự quá độ này diễn ra bằng các cuộc cách
mạng chống chủ nghĩa đế quốc và cách mạng XHCN nhằm các mục tiêu của
thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và CNXH
Chủ nghĩa Mac- lenin khẳng định đây là một quá trình lịch sử lâu dài,
trải qua nhiều khó khăn, phức tạp, quanh co thậm chí có cả bước lùi tạm thời,
trải qua nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn.
b. Đặc điểm thời kỳ quá độ lên XHCN ở nước ta.

7



Vận dụng những quan điểm cơ bản mà Lenin đã nêu ra về đặc điểm
thời kỳ quá độ lên CNXH ở các nước tiểu nông, đảng ta và nhân dân ta đã có
những thành quả bước đầu trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đảng cộng sản việt nam lần thứ VI đánh dấu chính thức công
cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, Đảng ta xác định đúng đắn,
bắt đầu từ đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế. Đổi mới toàn diện
nhưng có trọng điểm đúng trên cơ sở ổn đinh, phát triển kinh tế, cải thiện từng
bước đời sống nhân dân, đồng thời và từng bước đổi mới hệ thống chính trị để
phát triển Đất nước đúng định hướng XHCN.
Thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là một quá trình cải biến cách
mạng, đấu tranh giữa những nhân tố cũ và nhân tố mới, giữa con đường
TBCN và con đường XHCN, đấu tranh quyết liệt chống âm mưu diễn biến
hoà bình của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động.
đại hội VI Đảng đề ra mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh. Đây là mục tiêu đáp ứng nguyện vọng thiết thực của nhân
dân ta”. Việc xác định quan điểm định hướng XHCN trong tình hình biến
động phức tạp của các nước XHCN, trong lúc nước ta chuyển sang cơ chế thị
trường là điều hết sức quan trọng
đại hội IX Đảng ta khẳng định “Mỗi quan hệ giữa các giai cấp, các tầng
lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và
hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong
mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ văn minh”
Trước những biến chuyển mạnh mẽ của thời đại, Đảng ta vẫn nêu cao
quyết tâm “chúng ta một lần nữa khẳng định cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu
và thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên
CNXH, định hướng cho mọi hoạt động của đảng hiện nay và trong những
thập kỷ tới”


8


2. Nội dung vai trò quyền lực của nhân dân lao động
Quyền lực là sức mạnh mà nhờ đó một chủ thể (Cá nhân, tổ chức,
giai cấp hoặc toàn xã hội) có thể bắt các chủ thể khác phải phục tùng ý chí của
mình Như vậy, quyền lực ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của
con người, bởi vì hoạt động phối hợp, hoạt động chung mang tính cộng đồng
là cái vốn có trong hoạt động của con người. bất kỳ hoạt động chung nào cũng
đòi hỏi cần có tổ chức, có người chỉ huy và có kẻ phục tùng cái vốn tạo thành
nội dung sơ khai cũng như nội dung hiện đại của phạm trù quyền lực.
Trong xã hội có giai cấp thì chủ thể có đủ khả năng chỉ huy và phối hợp
hoạt động của tất cả các chủ thể khác chính là giai cấp thống trị nên quyền lực
chính trị đồng thời được hiểu là quyền của giai cấp thống trị bằng sức mạnh
của mình, bắt các chủ thể khác trong các quốc gia (Tổ chức, cá nhân, giai cấp,
tầng lớp) phải phục tùng ý chí của nó. Nhờ quyền lực này mà giai cấp thống
trị có thể thực hiện và bảo vệ quyền lợi và địa vị thống trị của mình, có khả
năng điều hành tổ chức và quản lý xã hội thiết lập, củng cố bảo vệ trật tự và
sự ổn định của xã hội làm cho xã hội phát triển theo chiều hướng như mong
muốn.
Do sự biến đổi của cơ cấu kinh tế và cùng với nó là sự biến đổi của cơ
cấu xã hội, giai cấp cũng như vị trí lịch sử của các tầng lớp, giai cấp mà quyền
lực chính trị cũng không ngừng thay đổi.
Trong xã hội chiếm nhiều nô lệ, chủ nô là chủ thể duy nhất của mọi tài
sản, của cải trong xã hội từ ruộng đất đến nông cụ, súc vật và cả nô lệ. Những
người lao động khác đôi khi khá đông và chiếm vai trò quan trọng trong nền
sản xuất xã hội, nhưng cũng không có quyền lực chính trị, pháp lý đáng kể.
Toàn bộ QLCT nằm trong tay giai cấp chủ nô.
Xã hội phong kiến, bên cạnh sở hữu của địa chủ phong kiến đã xuất
hiện sở hữu cá thể của một bộ phận nông dân. kết cấu xã hội trong chế độ

phong kiến trở nên phức tạp.Ở đay QLCT tập trung vào tay giai cấp địa chủ
phong kiến và nhà nước vẫn là công cụ quyền lực chủ yếu của nó. Ở các giai

9


đoạn khác khác nhau trong sự tiến hoá của chế độ phong kiến, hệ thống
QLCT cũng thay đổi. nhưng dù phân tán hay tập trung, hệ thống QLCT trong
xã hội phong kiến đều mang tính chất đẳng cấp rõ rệt.
Sự ra đời của chế độ tư bản chủ nghĩa cũng là sự ra đời của một hệ
thống QLCT mới - Hệ thống QLCT của giai cấp tư sản. Cùng với sự phát
triển của đại công nghiệp và sự thay đổi của các quan hệ kinh tế tương ứng,
CNTB cũng trải qua những giai đoạn khác nhau với hình thức tổ chức quyền
lực khác nhau. Trong thời kỳ giai cấp tư sản còn mang tính cách mạng, hệ
thống QLCT nhà nước tư sản được xác lập bằng các thể chế mang tính dân
chủ nhất định. Tuy nhiên, dân chủ tư sản chỉ là dân chủ hình thức còn chứa
đựng nhiều hạn chế lớn việc thừa nhận ở mức độ nhất định lợi ích của các giai
tầng khác chỉ là cách thức duy trì lợi ích và quyền lực của giai cấp tư sản. Nền
dân chủ tư sản có nhiều cách thức để hạn chế người lao động tham gia vào
chính trị - đó là những rào chắn hạn chế quyền làm chủ của nhân dân lao
động. Chính vì vậy, nhân dân vẫn chưa thực sự trở thành chủ thể của quyền
lực nhà nước.
Ở Việt Nam, khái niệm QLCT của nhân dân lao động có nội dung cốt
lõi là QLCT của giai cấp công nhân. Do lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân
Việt Nam thống nhất, không tách rời với lợi ích của giai cấp nông dân, trí
thức và của toàn xã hội, nên để thực hiện lợi ích của mình, giai cấp công nhân
cần có sự tham gia của các tầng lớp nhân dân lao động khác, trước hết là giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức vì vậy, quyền lực của giai cấp công nhân và
quyền lực của nhân dân lao động trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta
thống nhất hữu cơ với nhau trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, toàn

bộ quyền lực thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của đảng thể hiện phản ánh
sinh động nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân. Toàn bộ hệ thống hiến
pháp, pháp luật của nhà nước thực chất là thể chế hoá quyền lực của nhân
dân. Nó khẳng định vai trò quyết định của nhân dân lao động là chủ thể của
quyền lực nhà nước và thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

10


Trên lĩnh vực chính trị. Trước hết, nhân dân có quyền lựa chọn chế độ
chính trị, lựa chọn con đường phát triển của đất nước, quyền và nghĩa vụ tham
gia xây dựng đường lối chính trị, xây dựng thể chế chính trị, xây dựng và
hoàn thiện hệ thống tổ chức QLCT. Điều 2- Hiến pháp nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khẳng định “Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân và giai cấp nông dân vả
tầng lớp trí thức và “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội,
tham gia thảo luận những vấn đề chung của nhà nước và địa phương, kiến
nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý”
Quyền lực của nhân dân lao động không chỉ được thực hiện ở chế độ
chính trị mà còn được thực hiện ở chế độ kinh tế, những hình thức kinh tế và
hệ thống kinh tế mà “Mục đích cơ bản của chính sách kinh tế của nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà không ngừng phát triển sức sản xuất nhằm nâng cao
đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân”.(Điều 9 Hiến pháp 1992)
Bên cạnh đó cùng với sự đảm bảo lợi ích cá nhân thì thể chế kinh tế
nước ta gắn liền cùng lợi ích cộng đồng, tập thể “hình thức sở hữu của nhà
nước tức là của toàn dân, hình thức sở hữu của hợp tác xã tức là của tập thể,
của nhân dân lao động” (Điều 11 Hiến pháp 1992 ) Quyền của nhân dân lao
động trong lĩnh vực kinh tế là quyền phát triển các thành phần kinh tế, hoạt
động sản xuất – kinh doanh theo đúng pháp luật, quyền tham gia quyết định

sở hữu quản lý dưới nhiều hình thức trực tiếp và gián tiếp khác nhau, quyền
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Có thể nói chế độ kinh tế, những hình thức kinh tế và hệ thống kinh tế
đảm bảo quyền lực cho nhân dân lao đông không phải là sản phẩm của quá
trình tự phát mà là kết quả của quá trình hoạt động tự giác, phụ thuộc tính chủ
động của hệ thống chính trị.
Quyền lực của nhân dân lao động vừa là mục tiêu vừa là động lực của
công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam . Mục tiêu của cách mạng XHCN là

11


nhằm giải phóng triệt để con người khỏi mọi sự tha hoá, bất công hơn thế
nữa, xét về thực chất CNXH chính là chế độ xã hội do nhân dan lao động làm
chủ. Nhân dan trong chủ nghĩa xã hội vừa với tư cách là người chủ, đồng thời
còn là động lực thúc đẩy của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân
không thể tự mình thực hiện được sứ mệnh lịch sử là giải phóng triệt để con
người, mà phải liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, phải xây
dựng và thực hiện được khối đoàn kết toàn dân tộc. Đảng ta trong đường lối
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã nhất quán quan điểm
phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, tiếp tục đổi mới,đẩy mạnh
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ
quốc việt nam xã hội chủ nghĩa, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
3. Cơ chế thực thi QLCT của nhân dân lao động ở nước ta trong thời kỳ
quá độ lên XHCN.
a. hệ thống chính trị - cơ chế chủ yếu đảm bảo QLCT của nhân dân ta
Trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở nước ta, toàn bộ quyền lực
thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Mọi
đường lối chủ trương của đảng đều là kết quả của phản ánh khái quát nhu cầu,

lợi ích chính đáng của nhân dân. Toàn bộ hệ thống, hiến pháp, pháp luật của
chúng ta thực chất là sự thể chế hoá quyền lực (quyền làm chủ) của nhân dân.
Nhà nước, các đoàn thể xã hội – chính trị của nhân dân là những tổ chức mà
qua đó, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình đối với toàn xã hội là
những công cụ quyền lực của nhân dân.
Hiến pháp năm 1992 nêu rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và xã hội, nhưng nhấn mạnh. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Đảng cộng sản Việt Nam là bộ phận cấu
thành của hệ thống chính trị, Nhưng là hạt nhân của hệ thống đó. Sự lãnh đạo
của Đảng đối với thể chế chính trị và đối với xã hội là một nguyên lý XHCN

12


nói chung và Nước ta nói riêng. giữ vững, củng cố và tăng cường vai trò lãnh
đạo của đảng đối với nhà nước và thể chế chính trị là yếu tố hàng đầu đảm
bảo cho thắng lợi của công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở
nước ta. Sứ mệnh lịch sử của đảng cộng sản Việt Nam- Đảng cầm quyền duy
nhất – là lãnh đạo và phát huy quyền la chủ của nhân dân, xây dựng đất nước
giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Nhiệm vụ của Đảng là xây dựng,
bảo đảm, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm cho tất cả quyền lực
thuộc về nhân dân. Vậy cơ chế lãnh đạo của Đảng được thể hiện như thế nào
trong việc đảm bảo quyền lực cho nhân dân lao động.
Trước hết ở Việt Nam, nhân dân Việt Nam Đã gắn bó máu thịt với
Đảng cộng sản Việt Nam bàng cả chiều sâu lịch sử hơn 60 năm trong đấu
tranh Cách mạng giành độc lập dân tộc, bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân vượt
qua nhiều bước hiểm nghèo để giữ vững và không ngừng phát triển của nhân
dân, chính vì vậy mà Đảng ta và nhân dân ta không chấp nhận chế độ đa
quyền, đa nguyên chính tri, đa đảng. Độc lập, mặc dù trong thời kỳ quá độ

còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, kể cả kinh tế tư nhân tư bản
chủ nghĩa. Quyền thống trị về chính trị đó trong thời kỳ quá độ lên CNXH là
chuyên chính vô sản tức là nền dân chủ của đại đa số nhân dân lao động. Vì
vậy mà Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định “Ở nước ta không
có sự lãnh đạo của Đảng thì không thể có độc lập dân tộc, không có quyền
làm chủ thực sự của nhân dân, không có nhà nước của dân do dân và vì dân,
không thể thực hiện công bằng xã hội, không có CNXH”
Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh thực sự là
của dân,do dân, vì dân Đảng đề ra các quan điểm, nguyên tắc, tư tưởng chỉ
đạo về xây dựng và hoạt động tổ chức của nhà nước cũng như toàn bộ hệ
thống chính trị trên cơ sở ý chí và nguyện vọng của nhân dân lao động, Đảng
đề ra cương lĩnh, dường lối, chủ trương,chính sách lớn định hướng cho sự
phát triển của nhà nước và toàn bộ xã hội trong từng thời kỳ nhất định.

13


Đảng thực hiện sự kiểm tra đối với Nhà nước và cả hệ thống chính trị
Đảng kiểm tra việc quán triệt và thực hiện các quan điểm, nguyên tắc, tư
tưởng chỉ đạo của Đảng, thông qua các tổ chức Đảng, đảng viên hoạt động
trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị và thực hiện sự kiểm soát
thông qua ý kiến của nhân dân. Đảng còn tổ chức phối hợp sự kiểm tra của
đảng, của nhà nước và của nhân dân nhằm thực hiện tốt mục tiêu chung của
từng thời kỳ cách mạng.
Đảng giáo dục, tổ chức cho đảng viên nêu cao vai trò tiên phong, tuyên
truyền, giáo dục, thuyết phục để quần chúng nhân dân thấy rõ tính đúng đắn
trong các quyết định chính trị của đảng để các tầng lớp nhân dân tự giác thực
hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của đảng- Nhà nước.
Bảo đảm vai trò lãnh đạo của đảng là điều kiện vô cùng quan trọng để
bảo vệ và phát huy QLCT của nhân dân.

Thứ nhất nếu không có sự lãnh đạo của Đảng chúng ta không thể xây dựng
thành công CNXH và khi đó người dân không thể được hưởng ngày càng đầy
đủ những giá trị dân chủ nói chung, dân chủ trong chính trị nói riêng.
Thứ hai: Bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng là yếu tố có ý nghĩa quyết định
tới việc hình thành trong mọi tầng lớp nhân dân quan điểm đúng đắn về
QLCT giúp cho mọi công dân đưa ra được những yêu cầu quyền lực mang
tính khả thi, đồng thời, có vai trò quyết định đến việc khắc phục những yếu tố
cực đoan trên lĩnh vực hết sức tế nhị và nhạy cảm này.
Cuối cùng: bảo đảm vai trò lãnh đạo của đảng cũng là điều kiện hết sức quan
trọng để đấu tranh chống mọi âm mưu sử dụng vấn đề QLCT của nhân dân
lao động vì những mục tiêu không lành mạnh, đi ngược lại ý chí và lợi ích của
nhân dân.
Đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa
được khẳng định là nhà nước do dân, vì dân- đó là thành quả của cuộc đấu
tranh giả phóng của toàn dân tộc Việt Nam chống ách thống trị hàng trăm
năm của bọn thực dân, đế quốc và chế độ vua quan phong kiến hàng ngàn

14


năm từ khi ra đời cho đến nay, Nhà nước ta luôn đặt ra mục tiêu là “1 làm cho
dân có ăn, 2 làm cho dân có mặc, 3 làm cho dân có chỗ ở, 4 làm cho dân được
học hành” “đối với cán bộ, viên chức nhà nước, việc gì có lơi cho dân thì hết
sức làm việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Nhà nước là của dân, do dân,
dựa vào dân và học hỏi của dân” “Bao nhiêu lợi ích đều của dân, bao nhiêu
quyền hạn đều của dân”(1) quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do dân, vì
dân là khát vọng sâu xa của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì sự tồn
tại và phát triển xây dựng Nhà nước bắt nguồn từ mục tiêu của toàn bộ sự
nghiệp cách mạng do Đảng cộng sản lãnh đạo, vì lợi ích của đa số nhân dân.
Nhà nước huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhà nước là công cụ của nhân dân, phục vụ hoạt
động tự do sáng tạo và làm chủ của nhân dân để phát triển đất nước, mưu cầu
hạnh phúc cá nhân trong sự nghiệp chung đó. Nhà nước phục vụ cho đa số
nhân dân với nghĩa là phục vụ người chủ thực sự và tối thượng của quyền lực
nhà nước.
Nhà nước có nhiệm vụ thể chế hoá, đường lối, chủ trương của đảng
thành pháp luật, chính sách cụ thể, xây dựng chiến lược kinh tế xã hội và cụ
thể hoá chiến lược đó thành những kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực quản lý nhà nước,
quản lý kinh tế, quản lý xã hội, xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng tổ
chức điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội theo đúng pháp luật giữ vững
kỷ cương an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Kinh nghiệm thực tiễn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta cho thấy, phải phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm và tạo
điều kiện thuận lợi cho công dân tham gia quản lý công việc của nhà nước và
xã hội bảo đảm quyền và nghĩa vụ của công dân. Có như vậy mới khắc phục
được sự tha hoá của quyền lực nhà nước. Nhà nước có mối liên hệ thường
xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa

15


và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, sợ trách nhiệm, xâm phạm
quyền làm chủ của công dân (1)
Suốt 60 năm qua, việc xây dựng và hoạt động của Nhà nước cách mạng
của dân, do dân vì dân đã và đang đi trên định hướng đúng cả về lý luận, khoa
học về Nhà nước và phải phù hợp với thực tiễn
Việt Nam do đó đã có được những thành tựu căn bản và rõ rệt. Tuy nhiên trên
thực tế nhà nước ta vẫn còn bộc lộ những khuyết điểm yếu kém như bộ máy

còn cồng kềnh, nặng nề, chưa thật gần và sát với dân, thủ tục còn rườm rà,
phiền hà đối với dân; bên cạnh đó tình trạng tha hoá về phẩm chất, đạo đức
của một bộ phận cán bộ gây mất niềm tin nơi dân. Những tiêu cực nêu trên là
trái với bản chất của Nhà nước ta, cần kiên quyết khắc phục. khi đã nhận rõ
những khuyết điểm yếu kém trong bộ máy chính quyền nhà nước thì cũng cần
phải có những giải pháp hữu hiệu để sửa chữa. Vấn đề là phải có quyết tâm
cao cùng với những giải pháp đồng bộ và đủ mạnh sự giáo dục đạo đức cách
mạng, ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân cà có văn hoá hành chính, văn
hoá quản lý cho cán bộ, công chức nhà nước đặc biệt cấp thiết hiện nay.
Cùng với sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò lãnh đạo của
nhà nước trong việc thực thi QLCT của nhân dân lao động thì chúng ta không
ví thế mà xem nhẹ vai trò của quần chúng, của các tổ chức chính trị xã hội
hợp pháp dưới sự lãnh đạo của đảng do nhân dân lập ra trong cơ chế đó. Hiện
nay ở nước ta có hơn 170 tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể nhân dân trung
ương và hàng trăm tổ chức tương tự ở các địa phương. Trong đó có 6 tổ chức
có ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân và là thành viên củ hệ thống chính trị.
Mặt trận tổ Quốc Việt Nam; Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh Việt Nam. Vai trò của các tổ
chức chính trị - Xã hội được ghi nhận là phát huy truyền thống đoàn kết toàn
dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, động viên
nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành hiến pháp và pháp

16


luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử cán bộ, viên
chức nhà nước.
Bản chất các hoạt động của hệ thống chính trị, là nhằm đoàn kết, tập
hợp các lực lượng đông đảo tầng lớp nhân dân, phát huy dân chủ thực hiện
các nhiệm vụ chính trị. Nhân dân thông qua các tổ chức chính trị - xã hội để

thể hiện quyền làm chủ xây dựng Đảng, quản lý Nhà nước, kiểm tra giám sát
cán bộ, công chức đảng viên.
Một trong các nguyên tắc cơ bản của các tổ chức chính trị - xã hội là
nguyên tắc dân chủ, tự nguyện, bình đẳng của các hội viên, đoàn viên thành
viên các tổ chức chính trị xã hội không phải là cơ quan quyền lực nhà nước,
không có chức năng quản lý hành chính mà hoạt đông thông qua tuyên
truyền, giáo dục, thuyết phục trong không khí dân chủ - Mọi thành viên đều
có nghĩa vụ quyền lợi như nhau, tôn trọng ý kiến của nhau, mọi ý kiến đều có
giá trị như nhau.
Trong sự phát triển không ngừng của thời đại, hệ thống chính trị Việt
Nam cũng cói những bước đi thích hợp nhằm huy động sức mạnh tổng hợp
toàn diện của cả dân tộc xây dựng thể chế chính trị mới, vì lợi ích của nhân
dân lao động.
b. Dân chủ trực tiếp một phương thức mới để thể hiện QLCT của nhân
dân lao động ở nước ta hiện nay.
Nhân dân là người sáng tạo lịch sử, nhân dân phải là nguồn gốc của
quyền lực trong xã hội ta, quyền lực chính trị bắt nguồn từ nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Trong điều kiện hiện nay bên cạnh việc phát triển và
không ngừng hoàn thiện chế độ đại diện thì điều quan trọng hàng đầu là phải
thu hút nhân dân đặc biệt là công nhân, nông dân, trí thức, lực lượng vũ trang
tham gia quản lý nhà nước, sử dụng trên thực tế quyền lực của người làm chủ
khi thực sự thu hút được sự tham gia của của nhân vào quản lý nhà nước sức
mạnh của Nhà nước nhân lên gấp nhiều lần như Lênin từng nói.

17


Hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp là các thành viên trong xã hội trực tiếp
thể hiện ý chí của mình trong việc quyết định thực hiện những vấn đề quan
trọng của đất nước.

Trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động vừa là chủ thể vừa là khách
thể của QLCT lợi ích của các thành viên, của các tổ chức, các giai tầng cũng
nằm trong lợi ích chung của toàn xã hội. Xã hội cần tạo mọi điều kiện để các
cá nhân phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của mình, để thực hiện đầy
đủ quyền và nghĩa vụ với tư cách là chủ thể và là khách thể của QLCT Đối
với nước ta, đề cao dân chủ trực tiếp được xuất phát từ bản chất của chế độ xã
hội chủ nghĩa- mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Đây là một phương thức mới để thực hiện QLCT của nhân dân lao
động ở nước ta hiện nay. Dân chủ trực tiếp có các đặc trưng sau.
Người dân trực tiếp tham gia bỏ phiếu bầu chọn người thay mình vào
các cơ quan Nhà nước để gánh vác những công việc chung.
Nhân dân có quyền gặp gỡ trực tiếp hoặc có đơn thư trao đổi với các cơ
quan, công chức nhà nước yêu cầu giải quyết những vấn đề mà mình quan
tâm.
Tại Đại hội đại biểu toàn Quốc lần thứ VI, Đảng ta đã nêu rõ bài học
lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy tốt hơn nữa quyền làm chủ của nhân
dân lao động, thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” Văn kiện Đại hội nêu rõ: Đối với những chủ trương có quan hệ trực tiếp
tới đời sống nhân dân trên phạm vi cả nước cũng như ở các địa phương và các
đơn vị cơ sở cấp uỷ đảng hoặc cơ quan chính quyền phải trưng cầu ý kiến
nhân dân trước khi có quyết định. Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Đó là nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động
tự quản lý nhà nước của mình.Điều 8 Hiến phấp 1992 sửa đổi quy định “các
cơ quan nhà nước, cán bộ viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tuỵ
phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự
giám sát của nhân dân”.

18



Để phát huy tốt hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân lao động. Đại hội
VIII của Đảng ta đã đề ra phương hướng “phải có cơ chế và cách làm cụ thể
để thực hiện phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đối với
các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước thực hiện tốt cơ chế
làm chủ của nhân dân. Làm chủ thông qua đại diện, làm chủ trực tiếp cùng
các hình thức tự quản, tại cơ sở”(1).
Để cụ thể hoá, thể chế hoá thành luật pháp phương châm “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”, tháng 2 năm 1998 Bộ chính trị ra chỉ thị “về xây dựng
và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” trong đó khẳng định khâu quan trọng
và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở nơi
trực tiếp thực hiện mọi chủ trương của Đảng và Nhà nước, nơi thực hiện
quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. tháng 5 năm
1998/ NĐCP và kèm theo “Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở” Quy chế đã
quy định những việc chính quyền địa phương phải thông tin và công khai để
dân biết, những việc dân được quyền tham gia ý kiến trước khi cơ quan Nhà
nước quyết định, những việc dân giám sát, kiểm tra và các hình thức thức
thực hiện quy chế dân chủ... tuy mới đề cập trong nghị quyết của Đảng thời
gian gần đây quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội đang từng bước đi vào
cuộc sống. QLCT của nhân dân lao động thông qua dân chủ đại diện có nhiều
biến chuyển tốt, song chưa khắc phục hết những khuyết điểm, hạn chế của nó.
chính vì vậy, cần phải đẩy nhanh mạnh dân chủ trực tiếp để phát huy đầy đủ
trí tuệ tiềm năng sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân lao động vào công cuộc
quản lý Nhà nước, quản lý xã hội với chủ trương xây dựng nhà nước xã hội
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, cơ chế dân chủ trực tiếp cần
dược luật hoà nhằm đảm bảo tính khả thi. Nhưng cần nhấn mạnh rằng, dân
chủ trực tiếp không đồng nhất với tự do cá nhân, mà đó là thể hiện quyền lực
của mỗi cá nhân trong khuôn khổ pháp luật.
Nhìn chung cơ chế thực thi quyền lực cả trực tiếp và gián tiếp đều có
những mặt ưu khuyết điểm, hạn chế của nó trong chế độ xã hội chủ nghĩa


19


trong thực chất giữa phương thức thực hiện QLCT trực tiếp của nhân dân và
thực hiện quyền lực đó qua phương thức đại diện là hoàn toàn có cơ sở trở
thành hiện thực sự thống nhất về lợi ích cơ bản của nhân dân lao động với lợi
ích cơ bản của giai cấp công nhân tạo ra khả năng khách quan cho sự thống
nhất của hai phương thức thực hiện QLCT của nhân dân lao động.
III. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC THI VÀ PHÁT HUY
QLCT CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG Ở NƯỚC TA.
Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân,
do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của đảng, mang bản chất giai cấp công nhân
có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc thực hiện nguyên tắc đó, Nhà nước ta
phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng dân chủ xã hội chủ
nghĩa, mọi hoạt động quản lý, điều hành đều dựa trên những nguyên tắc và
phương pháp dân chủ. Tuy nhiên trong thực thi quyền lực, trong quan hệ với
dân, có không ít cơ quan nhà nước không thể hiện được điều đó. Tình trạng
mất dân chủ không chỉ xẩy ra ở cấp trên mà ở cả cấp cơ sở, nơi chính quyền ở
ngay trong lòng dân. Vì vậy muốn đảm bảo thực thi và phát huy QLCT của
nhân dân lao động chúng ta phải có những giải pháp toàn diện, đồng bộ. Đó
là:
1. Trên lĩnh vực kinh tế.
Chính trị thực chất là quan hệvề lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã
hội các quốc gia đan tộc trong đó, trước hết là cơ bản là lợi ích kinh tế, giải
quyết những quan hệ lợi ích này trực tiếp quyết định tới động lực của sự phát
triển kinh tế. Do vậy, tác động của chính trị với kinh tế thể hiện tập trung ở sự
tác động đó, về cơ bản thể hiện trên ba phương diện. Cương lĩnh, đường lối,
chính sách đối với kinh tế, tổ chức, thiết chế chính trị với kinh tế, con người,
chủ thể chính trị với kinh tế.


20


Ở nước ta nhân dân lao động là chủ thể của QLCT vì vậy huy động sức
dân, động viên tất cả các quyền lực, tài lực của dân tộc cho phát triển kinh tế xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, một mặt cần phải khơi
dậy các động lực của thị trường để phát triển kinh tế xã hội, mặt khác phải
bảo đảm quyền lực của nhân dân lao động.
Để thực hiện mục tiêu đó, ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Đảng ta đã đề ra chủ trương cho phép sử dụng nhiều hình thức để khai
thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc doanh
giữ vai trò chủ đạo. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã
đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa”. Như vậy
chúng ta dùng cơ chế thị trường, sử dụng các hình thức và phương pháp quản
lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh thần năng
động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công
nghiệp hoá hiện đại hoá để đi lên chủ nghĩa xã hội.
Mặt khác, trong hoàn cảnh hiện nay nước ta có trình độ kinh tế thấp
kém cần phát huy mọi nguồn lực, sức dân và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế
tạo cơ hội phát triển đất nước. Muốn vậy chúng ta cần chú ý những điều cơ
bản sau:
Cần duy trì doanh nghiệp nhà nước với một tỷ lệ nhất định để tạo cơ sở
cho sự ổn định nền kinh tế. Đó là các doanh nghiệp công ích và một số lĩnh
vực kinh tế quan trọng mà Nhà nước phải nắm giữ để bảo đảm điều tiết nền
kinh tế theo mục tiêu, chiến lược. Những doanh nghiệp còn lại tiến hành cổ
phần hoá, cho thuê hoặc bán, khoán cho tập thể lao động.
Trong doanh nghiệp cổ phần hoá, Nhà nước phải nắm giữ một tỷ lệ cổ
phần nhất định ở những doanh nghiệp quan trọng, Nhà nước cần chiếm cổ
phần ưu thế, phải tạo điều kiện và khuyến khích những người lao động trong
doanh nghiệp có cổ phần và mua cổ phần để họ không chỉ là người lao động

mà còn là người chủ sở hữu, thực sự làm chủ trong quá trình sản xuất kinh

21


doanh. Như vậy, quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp không phải là quá trình
tư nhân háo mà là quá trình đa dạng hoá sở hữu theo 9 mục tiêu XHCN. cần
tổ chức tốt đại hội công nhân viên chức trong các doanh nghiệp nhà nước
thực hiện chế độ công khai, cần hoàn thiện cơ chế dân chủ trong quản lý
doanh nghiệp nhà nước, làm rõ hơn quyền quản lý và tham gia phân phối sản
phẩm của công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước.
Trong điều kiện nước ta, sở hữu tư nhân gắn liền với những lợi ích tư
nhân vẫn là động lực hoạt động của con người và đồng thời là động lực phát
triển kinh tế xã hội. CHính vì vậy, Đảng và nhà nước ta chủ trương phát triển
kinh tế hợp tác xã. Nhà nước phải trợ giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, xây
dựng phương án sản xuất, kinh doanh, mở rộng thị trường, giải quyết nợ tồn
đọng, khuyến khích việc tích luỹ, phát triển có hiệu quả vốn tập thể trong hợp
tácxã. Xác lập môi trường kinh doanh lành mạnh tạo điều kiện cho những
người kinh doanh và phát triển sản xuất, dịch vụ vừa lợi nhà vừa ích nước.
Vai trò của nhà nước đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay chính là phải xây dựng hệ
thống luật pháp và phải thực thi hệ thống luật pháp đó bảo đảm cho sở hữu
nhà nước và sở hữu hợp tác xã trở thành nền tảng, bảo đảm cho các hình thức
sở hữu khác tồn tại và phát triển phù hợp với thời kỳ quá độ lên CNXH.
2. Trên lĩnh vực chính trị.
Trong CNXH, khi QLNN thuộc về nhân dân lao động, dân chủ xã hội
chủ nghĩa được bảo đảm, sở hữu xã hội chủ nghĩa được xác lập và giữ vai trò
quyết định, chế độ người bóc lột người bị triệt tiêu. Lợi ích căn bản của cá
nhân, tập thể và xã hội thống nhất với nhau, mối quan hệ giữa Đảng, nhà
nước với nhân dân được củng cố.

Bước vào cơ chế thị trường, mặt trái của nó đã làm biến dạng mối quan
hệ giữa công dân với nhà nước. Cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá xã hội
nhanh chóng. Nhiều người thờ ơ với chính trị, với trách nhiệm công dân,
quyền hạn và trách nhiệm của mình với nhà nước và xã hội.

22


Bênh quan liêu còn tồn tại. Việc thực hiện quyền lực nhà nước trong
đời sống xã hội bị tách khỏi sự kiểm soát của nhân dân, quyền làm chủ của
nhân dân biến dạng.
Vì vậy muốn nâng cao hiệu quả việc thực thi quyền lực chính trị của
nhân dân lao động, cần tiến hành các giải pháp chủ yếu đó là:
Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước. Đối
với Quốc hội và cơ quan dân cử các cấp, cần tiếp tục đổi mới hoạt động lập
pháp trong tất cả các khâu, hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật nhằm bảo
đảm lợi ích và huy động rộng rãi các tầng lớp nhân dân tham gia quản lý xã
hội. Đổi mới tổ chức để nâng cao hiệu lực hiệu quả hoạt động của hội đồng
nhân dân, kiện toàn hội đồng nhân dân và UNBD các cấp.
Đẩy mạnh đồng bộ cải cách hành chính nhà nước, đơn giản hoá các thủ
tục hành chính và thực tốt cơ chế “một cửa”; thực hiện triệt để việc tách quản
lý hành chính nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh, hoạt động của tổ
chức sự nghiệp dịch vụ công việc, tổ chức biên chế và tài chính.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của mặt trận tổ quốc và các đoàn thể xã
hội khác xây dựng những thiết chế này trở thành người đại diện, lợi ích cho
đông đảo nhân dân lao động, thành các diễn đàn thực hiện dân chủ, thành các
cơ quan phản biện, giám sát các hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà
nước.
3. Trên lĩnh vực văn hoá xã hội và nâng cao ý thức, năng lực làm
chủ của nhân dân lao động.

Hiện nay ở nước ta có một thực tế là có sự suy thoái, dao động về tư
tưởng tuy xuất hiện ở một bộ phận nhỏ trong nhân dân và cán bộ đảng viên
nhưng gây hậu quả xấu không thể coi thường. Những biểu hiện của suy thoái
tư tưởng khá đa dạng và rất nguy hiển. Nó chứa trong mình nguy cơ phá huỷ
hệ chuẩn các giá trị xã hội được xây dựng trong nhiều năm qua.
Mặt khác trình độ dân trí của dân ta còn thấp kém quần chúng nhân dân

23


chưa nhận thức được quyền lực và nghĩa vụ công dân có liên quan đến việc
thực thi quyền lực của nhân dân.
Tất cả các điều đó tạo điều kiện cho tệ nạn xã hội và ảnh hưởng thực thi
quyền lực của nhân dân lao động hiện nay. Để hạn chế những tiêu cực này
chúng ta cần chú ý những giải pháp sau:
Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục cho mọi người trước hết là
cán bộ, Đảng viên hiểu rõ mục đích và tầm quan trọng của quyền làm chủ của
nhân dân lao động. Một khi cán bô, Đảng viên, nhân dân nhận thức đúng
quyền và nghĩa vụ của công dân đối với xã hội, họ sẽ chủ động tự giác thực
hiện, đồng thời sẽ khắc phụ được thái độ thờ ơ của nhân dân và hành động
lộng quyền của cán bộ lãnh đạo. Quản lý của Đảng – Nhà nước để công tác
tuyên truyền giáo dục đạt hiệu quả thiết thực, cần đa dạng hoá và lồng ghép
các hình thức tuyên truyền phù hợp với những đặc điểm điều kiện cũng như
trình độ dân trí các vùng miền.
Nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là hiểu biết về pháp luật là yêu cầu
vừa cấp bách vừa thường xuyên. Lê nin đã nói rằng: Người mù chữ đứng
ngoài chính trị điều này hoàn toàn đúng khi nói về khả năng của mỗi công
dân thực hiện QLCT của bản thân mình. Nếu dân thiếu hiểu biết, không hiểu
rõ quyền hạn và nghĩa vụ của mình thì nhân dân không thể hoàn thành nhiệm
vụ của người làm chủ, và do đó, không có năng lực để tham quản lý nhà

nước, quản lý xã hội, tham gia công tác xây dựng Đảng, vào việc hoàn thiện
hệ thống chính trị - Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Quan tham vì dân dại, do
thiếu hiểu biết nên không có khả năng thực hành với tư cách của người làm
chủ. Do vậy, nâng cao trình độ dân trí được xem là biện pháp cơ bản, lâu dài
để nâng cao văn hoá pháp luật cho nhân dân – điều kiện để nhân dân thực
hiện có hiệu quả quyền lực chính trị của mình.
Để hình thành văn hoá pháp luật trong nhân dân cần thu hút đông đảo
nhân dân tham gia vào các hoạt động pháp luật. Thông qua thực tiễn hoạt
động đó, nhân dân có những kinh nghiệm phong phú được tích luỹ, thẩm thấu

24


vào từng cá nhân, đến lúc đó, tự nó trở thành các quy định vốn có bên trong ở
mỗi con người, khiến cho việc tham gia vào các hoạt động pháp luật trở thành
nhu cầu nội tại của họ.
Tích cực chủ động và tạo điều kiện thuận lợi để đưa nhân dân tham gia
vào quá trình: Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, thông qua đó từng bước nâng
cao nhận thức về làm chủ, rèn luyện thực hiện quyển làm chủ. Muốn vậy, các
tổ đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cần chủ động tìm hiểu, nắm bắt
những nhu cầu thiết thực của nhân dân để hướng dẫn phát huy trí tuệ, khả
năng, năng lực của từng cá nhân và cộng đồng vào việc tìm ra những hình
thức và biện pháp thực hiện có hiệu quả quyền làm chủ của mình.
4. Với cơ chế thực thi QLCT ở nước ta.
Như phần nội dung trên đã trình bày, hiệu quả của việc thực hiện quyền
lực của nhân dân phụ thuộc vào sự hoàn thiện của các nhân tố: Đảng – nhà
nước và các tổ chức chính trị xã hội và phụ thuộc tính đúng đắn trong mối
quan hệ qua lại giữa các nhân tố đó.
Bởi vậy muốn nâng cao chất lượng hiệu quả của việc thực thi quyền lực
chính trị trong nhân dân thì tự thân trong lòng các yếu tố phải tự giải quyết

được các mâu thuẫn và hạn chế của mình và đưa ra những phương án tốt nhất
cho sự phát triển.
Trước hết với Đảng – làm gì để bảo đảm và phát huy tính dân chủ trong
điều kiện một đảng cầm quyền “Điều đó được Đảng ta nêu rõ trong nhiều
nghị quyết xây dựng Đảng, cụ thể là: Xây dựng Đảng cộng sản thực sự trong
sạch, vững mạnh, thực sự vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc xứng đáng là
đảng cách mạng chân chính. Mọi đảng viên một lòng một dạ phục vụ nhân
dân, tăng cường sự gắn bó “máu thịt” giữa Đảng với nhân dân, chống quan
liêu, tham nhũng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Đảng có đầy đủ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, xứng đáng
là đội ngũ tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
toàn dân tộc. Mặt khác, Đảng phải có phương thức lãnh đạo tổ chức chặt chẽ,

25


×