Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Phát triển cho vay tiêu dùng tại BIDV- chi nhánh Quang Trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.95 KB, 85 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế ngày càng phát triển, cùng với đó là các mối quan hệ kinh tế
trong quá trình sản xuất, kinh doanh nảy sinh, ngày càng trở nên đa dạng,
phong phú, tạo ra rất nhiều thách thức trong cạnh tranh. Đồng thời, nó cũng
tạo ra những điều kiện, thời cơ mới đòi hỏi các ngân hàng phải đẩy mạnh phát
triển các hoạt động, phải năng động, nhạy bén, tận dụng mọi khả năng sẵn có
về nguồn vốn, về nhân lực cũng như công nghệ… Hoạt động cho vay của
phần lớn các ngân hàng đều tập trung vào cho vay phục vụ sản xuất kinh
doanh. Đây là hoạt động có tính chất thường xuyên, đem lại nguồn thu chủ
yếu cho hoạt động của ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng còn mảng hoạt
động rất quan trọng, đó là cho vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân,
hộ gia đình. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu của con người cũng theo đó
mà ngày càng tăng lên. Do vậy, nêế ngân hàng phát triển hoạt động này sẽ
góp phần tăng thu nhập, phân bố rủi ro cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn .
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động cho vay tiêu dùng đối với
đời sống xã hội nói chung, đối với các ngân hàng nói riêng, sau một thời gian
thực tập tại NH BIDV Quang Trung, cùng với những kiến thức đã tích lũy
được trong quá trình học và sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa, các
anh chị làm việc tại Ngân hàng BIDV Quang Trung, em đã chọn đề tài: “Phát
triển cho vay tiêu dùng tại BIDV- chi nhánh Quang Trung”. Kết cấu
chuyên đề gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại BIDV Quang Trung.
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại BIDV
Quang Trung
1
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại


1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng bắt nguồn từ một công việc đơn giản là giữ các đồ vật qúy
cho những người sở hữu nó, tránh mất mát. Đổi lại, người chủ sở hữu phải trả
cho người cầm giữ hộ một khoản tiền công. Khi xã hội phát triển, thương mại
phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn thì ngân hàng trở thành nơi giữ tiền
cho những người có tiền và cung cấp tiền cho những người cần tiền. Ngân
hàng là một định chế tài chính trung gian, sẽ huy động vốn nhàn rỗi trong xã
hội và dùng chính tiền đó cho các cá nhân và tổ chức vay lại. Căn cứ vào chức
năng, ngân hàng được chia thành nhiều loại phụ thuộc vào sự phát triển của
nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng
thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số
lượng các ngân hàng. Nếu xem xét ngân hàng trên những loại hình dịch vụ
mà chúng cung cấp thì Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng,
tiết kiệm, dịch vụ thanh tóan và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so
với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
1.1.2. Các họat động cơ bản của Ngân hàng thương mại:
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn:
Đây là hoạt động thường xuyên, liên tục, đóng vai trò quyết định trong
hoạt động của ngân hàng thương mại bởi nếu so sánh với tổng tài sản thì vốn
2
tự có của ngân hàng chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, chủ yếu nguồn vốn hoạt động
của ngân hàng có được là nhờ huy động từ bên ngoài. Ngân hàng có thể huy
động vốn dưới hình thức nhận tiền gửi tiết kiệm (có kỳ hạn, không kỳ hạn),
tiền gửi thanh tóan, tiền gửi của các TCTC, phát hành kì phiếu, trái phiếu, vay
NHNN và các tổ chức tín dụng khác. Thông thường với các ngân hàng có uy
tín, có quy mô vốn tự có lớn thì khả năng huy động vốn lớn hơn và chi phí
huy động vốn cũng ít tốn kém hơn.
1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn:

Song song với huy động vốn là hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng
thương mại. Đây chính là việc ngân hàng sử dụng các nguồn vốn huy động
được để tạo nên các tài sản khác nhau nhằm thu lợi nhuận. Các khỏan mục tài
sản của ngân hàng thương mại bao gồm tiền mặt và ngân phiếu thanh tóan,
tiền gửi tại NHNN và các TCTD khác, cho vay, đầu tư kinh doanh khác, trong
đó tập trung chủ yếu vào cho vay và đầu tư.
1.1.2.3. Hoạt động cung cấp các dịch vụ tài chính (trung gian):
Hiện nay ở hầu hết các quốc gia, ngân hàng là trung gian thanh tóan lớn
nhất. Ngân hàng thay mặt cho khách hàng của mình thực hiện thanh tóan giá
trị hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh tóan diễn ra nhanh chóng, thuận tiện,
tiết kiệm chi phí, ngân hàng đã triển khai rất nhiều loại hình dịch vụ như
chuyển tiền, thanh tóan (bằng séc hoặc ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, hối phiếu,
L/C), cung cấp các dịch vụ bảo lãnh, trung gian giải ngân và các dịch vụ tiện
ích khác.
1.2. Sơ lựơc về cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại:
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của cho vay tiêu dùng:
1.2.1.1. Khái niệm cho vay tiêu dùng:
Trong quá trình sử dụng vốn của ngân hàng thương mại, cho vay là
nghiệp vụ đem lại nguồn thu chủ yếu. Nếu như trước đây, các ngân hàng chú
3
trọng vào cho vay doanh nghiệp thì trong khỏang hai thập kỷ gần đây, quan
niệm đó đã thay đổi. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu của con người cũng
không ngừng tăng lên. Nó không chỉ dừng lại ở ăn no, mặc ấm mà đã nâng
lên thành ăn ngon, mặc đẹp. Tuy nhiên, nhu cầu xuất hiện không đồng nghĩa
với việc có đủ điều kiện để đáp ứng. Ví dụ một cá nhân muốn mua một căn
nhà để ổn định cuộc sống nhưng do thu nhập hiện tại không đủ, họ nhận ra
rằng họ có thể tìm đến ngân hàng để đề nghị vay tiền mua nhà.
Nhận thấy mâu thuẫn giữa tiêu dùng và khả năng thanh tóan giới hạn của
người tiêu dùng cũng như để tăng sự cạnh tranh với các đối thủ, các ngân
hàng đã triển khai nghiệp vụ cho vay tiêu dùng, và đối tượng khách hàng của

cho vay tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia đình. Như vậy, cho vay tiêu dùng
được hiểu là hình thức cấp tín dụng, trong đó ngân hàng thỏa thuận để
khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình sử dụng một khỏan tiền với mục
đích tiêu dùng theo nguyên tắc có hòan trả cả gốc và lãi sau một thời gian
nhất định.
1.2.1.2. Đặc điểm cho vay tiêu dùng:
Cho vay tiêu dùng thực tế cũng là một hình thức cấp tín dụng của ngân
hàng, vì vậy, bên cạnh việc mang các đặc điểm của khỏan vay thông thường
như khách hàng phải cam kết hoàn trả cả gốc và lãi với thời gian xác định,
khách hàng phải cam kết sử dụng vốn vay theo mục đích thỏa thuận với ngân
hàng….thì cho vay tiêu dùng còn có một số đặc điểm khác. Đó là:
 Thứ nhất, quy mô món vay nhỏ nhưng số lượng các món vay lớn:
Các món vay tiêu dùng là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân,
hộ gia đình. Giá trị các sản phẩm mà khách hàng của ngân hàng có nhu cầu
tiêu dùng thường không lớn, không quá đắt (kế cả vay mua nhà hoặc sửa chữa
nhà). Do vậy, so với các món vay sản xuất kinh doanh khác thì nhu cầu vốn
cho vay tiêu dùng nhỏ hơn rất nhiều. Mặt khác, không một ngân hàng nào cho
4
vay tiêu dùng 100% nhu cầu vốn mà thường đòi hỏi khách hàng phải có tỷ lệ
tích lũy nhất định so với tổng nhu cầu vốn. Do vậy, quy mô các món vay tiêu
dùng nhỏ. Bên cạnh đó, khi chất lượng cuộc sống và trình độ dân trí ngày
càng cao, nhu cầu vay vốn ngân hàng để phục vụ tiêu dùng ngày càng tăng và
phồ biến. Vì thế, số lượng các món vay tiêu dùng lớn.
 Thứ hai, nguồn trả nợ không ổn định:
Nguồn trả nợ của các khoản vay tiêu dùng là các nguồn thu nhập dự tính
bao gồm lương, thưởng, thu nhập từ hoạt động khác. Tuy các nguồn này phải
đảm bảo độ chắc chắn nhưng nó cũng không phải là biến cố định mà còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố. Đó là:
 Sự biến động của chu kỳ kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của nơi mà khách hàng đang làm việc, ví dụ khi nền kinh tế rơi

vào tình trạng suy thóai, việc kinh doanh của các doanh nghiệp diễn
ra rất khó khăn, từ đó khách hàng của ngân hàng có thể bị giảm thu
nhập, lương hoặc thậm chí bị mất việc. Bên cạnh đó, kinh tế suy thóai
còn làm cho người dân không có sự lạc quan về tương lai, nhu cầu
tiêu dùng vì thế cũng sụt giảm theo.
 Những sự cố bất thường xảy ra với khách hàng như thay đổi vị trí,
chức vụ công tác, tình trạng sức khỏe không tốt, tai nạn…
 Đạo đức của người vay: có vai trò quan trọng, quyết định sự hoàn trả
của món vay nhưng không dễ xác định.
 Thứ ba, khách hàng kém nhạy cảm với lãi suất:
Về cơ bản, đối tượng của cho vay tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia đình.
Nhu cầu vay tiêu dùng của họ hầu như ít co dãn với lãi suất. Thông thường họ
quan tâm tới số tiền hàng tháng hoặc hàng quý họ phải trả cho ngân hàng hơn
là lãi suất mà ngân hàng áp dụng.
5
 Thứ tư, chi phí cho hoạt động cho vay tiêu dùng cao:
Như đã đề cập ở trên, các món vay tiêu dùng thường có quy mô nhỏ
nhưng số lượng lớn, lại rời rạc, không tập trung. Mặt khác, đây cũng là các
khỏan cho vay của ngân hàng nên đều phải đảm bảo đủ quy trình, từ gặp gỡ,
tiếp xúc khách hàng đến theo dõi, quản lý, kiểm sóat khỏan vay, do vậy chi
phí của hoạt động cho vay tiêu dùng cao.
 Thứ năm, lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao:
Lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay của ngân hàng trong
một thời gian nhất định, là chi phí của dịch vụ tài chính và phụ thuộc vào độ
rủi ro của khoản vay. Do chi phí cho hoạt động cho vay tiêu dùng lớn, đồng
thời đây là hoạt động được đánh giá là rủi ro cao nhất trong danh mục tài sản
cho vay của ngân hàng do nguồn trả nợ không ổn định nên ngân hàng yêu cầu
mức lãi suất tương đối cao so với các khoản tín dụng khác.
 Thứ sáu, lợi nhuận từ hoạt động cho vay tiêu dùng lớn.
Các khoản vay tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu mang tính cấp

bách của khách hàng, họ muốn sở hữu hàng hóa hay sử dụng dịch vụ ngay
trong hiện tại, mà thời hạn của khỏan vay không dài nên họ chấp nhận mức lãi
suất cao hơn. Đồng thời số lượng các món vay tiêu dùng lớn nên lợi nhuận
ngân hàng thu được từ cho vay tiêu dùng khá lớn.
1.2.1.3. Vai trò của cho vay tiêu dùng
 Đối với người tiêu dùng:
Nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu của con người vốn phong phú,
đa dạng càng gia tăng. Họ mong muốn được thụ hưởng các tiện ích, các sản
phẩm nhằm nâng cao đời sống vật chất- tinh thần của mình.Tuy nhiên, không
phải lúc nào khả năng tài chính nói chung và thu nhập nói riêng cũng cho
phép họ đáp ứng các nhu cầu đó tại thời điểm hiện tại. Vì vậy, cho vay tiêu
dùng giúp họ được hưởng các dịch vụ, tiện ích đó một cách nhanh chóng
6
trước khi họ có đủ tiền bởi thay vì trả một khỏan tiền lớn tại thời điểm mua
sản phẩm, dịch vụ, họ chỉ phải trả dần trong một khoảng thời gian xác định
tùy thuộc vào đặc điểm của nguồn thu nhập của họ. Mặt khác, không phải cá
nhân, hộ gia đình nào cũng có đủ tích lũy dự phòng cho các khoản chi tiêu
mang tính đột xuất, cấp bách như giáo dục, y tế. Như vậy, ngân hàng đã giúp
người tiêu dùng kết hợp được nhu cầu chi tiêu hiện tại và khả năng thanh tóan
trong tương lai. Điều này rất phù hợp với những cá nhân, hộ gia đình có thu
nhập trung bình, chiếm tỉ trọng lớn trong xã hội.
Ngoài ra, cho vay tiêu dùng còn kích thích người tiêu dùng tích cực lao
động để nhanh chóng trả nợ cho ngân hàng, trở thành người sở hữu thực sự
với hàng hóa hay dịch vụ. Có thể nói các cá nhân, hộ gia đình là những người
được hưởng lợi nhiều nhất từ cho vay tiêu dùng.
 Đối với nhà sản xuất:
Hoạt động cho vay tiêu dùng không chỉ đem lại lợi ích cho người tiêu
dùng mà cả người sản xuất. Khi người sản xuất bán hàng hóa, họ mong muốn
tiêu thụ được nhiều sản phẩm, thu hồi vốn nhanh chóng và có lợi nhuận lớn.
Tuy nhiên, không phải lúc nào khách hàng của họ cũng có đủ khả năng thanh

tóan được ngay, nhất là các sản phẩm có giá trị như nhà, ô tô,…. Với sự xuất
hiện của cho vay tiêu dùng, khách hàng có thể dễ dàng, nhanh chóng thanh
tóan cho nhà sản xuất, nhờ đó nhà sản xuất có thể tiêu thụ sản phẩm nhanh
chóng, tăng vòng quay vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh cũng như mở rộng
thị phần, từ đó tăng lợi nhuận. Như vậy, tín dụng tiêu dùng đã gián tiếp thúc
đẩy sản xuất, quá trình luân chuyển hàng hóa, đồng thời đặt ra yêu cầu cho
nhà sản xuất phải đổi mới, cải tiến công nghệ, mẫu mã, chủng loại sản phẩm,
tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
 Đối với Ngân hàng thương mại:
Trong bảng tổng kết tài sản của ngân hàng thương mại, khoản mục cho
7
vay chiếm tỉ trọng lớn nhất, đem lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng nhờ sự
chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Đối với hoạt động cho
vay tiêu dùng, do số lượng các món vay nhiều, lãi suất cho vay lớn nên lợi
nhuận mà ngân hàng thu được từ hoạt động này là rất đáng kể. Mặt khác, đối
tượng của cho vay tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia đình- nếu so với số lượng
các doanh nghiệp thì gấp nhiều lần. Vì thế, các ngân hàng không có lý do gì
để bỏ qua thị trường đầy tiềm năng- thị trường khách hàng cá nhân.
Cho vay tiêu dùng là hoạt động có chi phí lớn và rủi ro cao, tuy nhiên
khi phát triển, mở rộng hoạt động này thì các ngân hàng có thể mở rộng quan
hệ với khách hàng, tạo thói quen tiếp cận với các dịch vụ tiện ích của ngân
hàng cho khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động vốn, đa dạng hóa các
sản phẩm dịch vụ, phân tán rủi ro, góp phần tăng thu nhập cũng như khả năng
cạnh tranh cho ngân hàng.
 Đối với nền kinh tế:
Có thể thấy vai trò của cho vay tiêu dùng với nền kinh tế là không thể
phủ nhận, bởi mục đích của nó là thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng, cải thiện đời
sống của dân cư. Khi cho vay tiêu dùng được mở rộng và phát triển, người
dân sẽ có thêm nhiều cơ hội tiếp cận, sử dụng các sản phẩm, dịch vụ mà với
khả năng thanh tóan hiện tại, họ không thể có. Nhờ vậy kích thích người dân

tiêu dùng, nâng cao chất lượng cuộc sống , tạo điều kiện cho con người phát
triển, tòan diện. Điều này cũng là đòn bảy kích thích nền sản xuất phát triển,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng đầu tư, xây dựng, phát triển xã
hội, giảm đói nghèo… Đồng thời cho vay tiêu dùng còn là nhân tố quan trọng
góp phần loại bỏ tình trạng “tín dụng đen”, cho vay nặng lãi… vốn là vấn đề
nhức nhối trong xã hội.
1.2.2. Các hình thức cho vay tiêu dùng:
Cho vay tiêu dùng có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau.
8
1.2.2.1. Căn cứ vào mục đích vay: có thể chia cho vay tiêu dùng thành 2 loại:
 Cho vay tiêu dùng cư trú: là các khỏan cho vay nhằm phục vụ nhu
cầu về nhà ở như xây dựng, sửa chữa, mua sắm nhà ở của khách hàng
là cá nhân, hộ gia đình.
 Cho vay tiêu dùng phi cư trú: là các khỏan cho vay nhằm cải thiện
đời sống như mua sắm phương tiện, đồ dùng gia đình, chi phí học
hành, giải trí, du lịch…
1.2.2.2. Căn cứ vào thời hạn cho vay thì cho vay tiêu dùng chia thành 3
loại:
 Cho vay tiêu dùng ngắn hạn: khỏan vay có thời hạn tối đa là 1 năm.
 Cho vay tiêu dùng trung hạn: bao gồm các khỏan vay có thời hạn từ 1
năm đến 5 năm.
 Cho vay tiêu dùng dài hạn: là các khỏan vay có thời hạn trên 5 năm,
thường áp dụng với khoản cho vay mua nhà.
1.2.2.3. Căn cứ vào phương thức hòan trả: chia thành 3 loại:
 Cho vay tiêu dùng trả góp: là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó
người đi vay trả nợ (bao gồm cả tiền gốc và tiền lãi) cho ngân hàng
nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay (có thể
tháng, quý, năm…). Đây là phương thức chiếm tỉ trọng lớn trong tổng
cho vay tiêu dùng của ngân hàng, thường được áp dụng cho các
khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập định kỳ của người đi vay

không đủ khả năng thanh tóan hết một lần số tiền vay.
Đối với phương thức này, các ngân hàng thường quan tâm:
• Thứ nhất: loại tài sản được tài trợ: khách hàng sẽ có thiện chí trả nợ
cho ngân hàng nếu tài sản hình thành từ vốn vay gắn bó với họ lâu
dài, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của họ cả trong tương lai.
• Thứ hai: số tiền tự tích lũy của khách hàng: khi đi vay tiêu dùng,
9
ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải có mức vốn tự có bằng
tiền và /hoặc tài sản bảo đảm khác tối thiểu 30- 40% giá trị tài sản,
phần còn lại ngân hàng cho vay nhưng tối đa không quá 50% giá trị
tài sản. Số tiền này sẽ khiến người đi vay nghĩ rằng họ chính là chủ
sở hữu của tài sản, từ đó họ có ý thức giữ gìn tài sản hơn, giúp hạn
chế rủi ro cho ngân hàng. Số tiền này lại phụ thuộc vào các yếu tố:
+ Loại tài sản: với những tài sản giảm giá nhanh như ô tô thì ngân hàng
thường yêu cầu số tiền tự có của khách hàng lớn và ngược lại.
+ Thị trường tiêu thụ tài sản sau khi sử dụng hay tính thanh khỏan của tài
sản: nếu sau quá trình sử dụng, tài sản có thể dễ dàng bán thì số tiền yêu cầu
ban đầu sẽ ít hơn và ngược lại.
+ Năng lực tài chính của người vay: các điều khỏan thanh tóan bao gồm
số tiền gốc, lãi trả mỗi kỳ phải phù hợp với đặc điểm thu nhập của khách
hàng. Ví dụ khách hàng có nguồn trả nợ từ tiền thuê nhà, mà số tiền này lại
được trả 3 tháng/lần thì ngân hàng nên áp dụng thu lãi hàng tháng, thu gốc
hàng quý.
Thông thường, số tiền khách hàng phải thanh tóan cho ngân hàng định
kỳ có thể được tính bằng phương pháp gộp, phương pháp lãi đơn hoặc
phương pháp hiện giá.
+ Phương pháp gộp: số tiền thanh tóan mỗi kỳ được tính:
T =
C I
n

+
với I = C*i*n
Trong đó:
T: Số tiền phải trả cho ngân hàng hàng kỳ
C: Số tiền cho vay ban đầu.
I : Số tiền lãi mà khách hàng phải trả cho ngân hàng.
n : S kỳ trả nợ.
10
i : Lãi suất cho vay mỗi kỳ.
Ví dụ : khỏan vay 120 triệu đồng trong 2 năm, lãi suất 12%/năm, lãi và
gốc trả hàng tháng. Theo công thức trên thì số lãi khách hàng phải trả bằng:
120*12%/12* 24= 28,8 triệu đồng, như vậy số tiền khách hàng phải trả
hàng tháng bằng
120 28,8
24
+
= 6,2 triệu đ/ tháng.
+ Phương pháp lãi đơn: theo phương pháp này số tiền gốc sẽ được trả
đều nhau vào mỗi tháng, còn tiền lãi tính trên dư nợ còn lại. Như vậy, số tiền
mỗi kỳ khách hàng phải trả cho ngân hàng là:
T(k) = Tg + Tl (k)
Với Tg =
C
n
trong đó:
T(k) : Số tiền thanh tóan ở kỳ k
Tg : Số tiền gốc thanh tóan mỗi kỳ
C : Số tiền cho vay ban đầu
n : Số kỳ hạn thanh tóan tiền vay
Tl(k) : Số tiền lãi khách hàng phải trả trong kỳ k, với

Tl(k) = C *
1n k
n
− +
* i
i : Lãi suất cho mỗi kỳ hạn vay.
Ví dụ: khỏan vay 60 triệu đồng trong 1năm, lãi suất 12%/năm, gốc trả
đều hàng tháng, lãi trả cuối tháng tính trên dư nợ còn lại. Như vậy, số tiền gốc
khách hàng trả mỗi tháng bằng 60/12 = 5 triệu đ/ tháng.
+ Phương pháp hiện giá: số tiền phải trả mỗi kỳ (bao gồm cả gốc và lãi)
đều bằng nhau và được tính theo công thức:
* *(1 )
(1 ) 1
C i i n
i n
+
+ −
 Cho vay tiêu dùng phi trả góp: khách hàng thanh tóan tiền vay một
11
lần khi đến hạn cho ngân hàng, thường áp dụng đối với các khỏan
vay giá trị nhỏ với thời hạn không dài. Với phương thức này, tiền gốc
(C) được thanh tóan một lần vào cuối thời hạn vay, tiền lãi được
thanh tóan đều vào cuối mỗi kỳ hạn theo công thức I = C* i với i là
lãi suất cho vay mỗi kỳ hạn.
 Cho vay tiêu dùng tuần hòan: là các khoản vay, trong đó khách hàng
có thể sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành séc được phép thấu chi
dựa trên tài khỏan vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn
cho vay được thỏa thuận trước, ngân hàng sẽ căn cứ vào nhu cầu chi
tiêu và thu nhập của khách hàng để thực hiện cho vay và thu nợ nhiều
kỳ một cách tuần hòan, theo một hạn mức tín dụng. Nếu khách hàng

chi vượt quá mức thấu chi, ngân hàng sẽ ngừng cung cấp dịch vụ cho
khách hàng.
Với phương thức này, lãi phải trả mỗi kỳ có thể được tính:
+ Trên dư nợ thực tế của khách hàng trước khi có sự điều chỉnh, tức là số
dư dùng để tính lãi là số dư nợ mỗi kỳ có trước khi khỏan nợ được thanh toán.
+ Trên dư nợ thực tế có tính đến sự điều chỉnh: số dư nợ dùng để tính lãi
là số dư cuối cùng của mỗi kỳ sau khi khách hàng thanh tóan nợ cho ngân
hàng.
+ Trên dư nợ bình quân của khách hàng: khách hàng chỉ cần làm thủ tục
một lần nhưng có thể vay nhiều lần với số tiền khác nhau.
1.2.2.4. Căn cứ vào nguồn trả nợ: cho vay tiêu dùng được chia thành
cho vay tiêu dùng trực tiếp và cho vay tiêu dùng gián tiếp.
 Cho vay tiêu dùng trực tiếp: là các khoản cho vay tiêu dùng mà trong
đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc khách hàng, cho vay cũng như thu nợ
trực tiếp từ khách hàng.
12
Sơ đồ 1. Hình thức cho vay tiêu dùng trực tiếp
(1) Ngân hàng và người tiêu dùng ký hợp đồng tín dụng.
(2) Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty
bán lẻ.
(3) Ngân hàng thanh tóan số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán lẻ.
(4) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(5) Người tiêu dùng thanh tóan tiền vay cho ngân hàng.
Một số ưu điểm của hình thức cho vay tiêu dùng có thể thấy:
• Thứ nhất, cán bộ tín dụng tiếp xúc trực tiếp với khách hàng nên có
thể thu thập được thông tin một cách chính xác là những người có
kinh nghiệm, được đào tạo chuyên sâu về tín dụng, họ luôn cố gắng
để có các khoản vay chất lượng tốt, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Bởi vậy, sự tiếp xúc trực tiếp giữa khách hàng và nhân viên tín dụng
sẽ tốt hơn thông qua công ty bán lẻ.

• Thứ hai, hình thức này cũng linh hoạt vì khi quan hệ, tiếp xúc trực
tiếp với khách hàng, cán bộ ngân hàng sẽ xử lý tốt hơn các vấn đề
phát sinh, đồng thời tăng khả năng thỏa mãn quyền lợi cho cả khách
hàng và ngân hàng.
13
Ngân hàng
Người tiêu dùng
Công ty bán lẻ
1 2
3
45
• Thứ ba, đây là hình thức mà qua đó, ngân hàng có thể dễ dàng giới
thiệu các sản phẩm tiện ích cũng như dịch vụ, quảng bá hình ảnh của
ngân hàng tới khách hàng.
 Cho vay tiêu dùng gián tiếp: là hình thức cho vay tiêu dùng, trong đó
ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh do các công ty bán lẻ đã bán
chịu hàng hóa hay dịch vụ cho người tiêu dùng.
Sơ đồ 2. Quá trình cho vay tiêu dùng gián tiếp
(1) Ngân hàng và công ty bán lẻ ký hợp đồng mua bán nợ, trong đó,
ngân hàng đưa ra các điều kiện về đối tượng được bán chịu, số tiền
bán chịu tối đa, loại tài sản bán chịu…
(2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký hợp đồng mua bán chịu hàng
hóa. Thông thường công ty bán lẻ yêu cầu người tiêu dùng trả trước
một phần giá trị tài sản.
(3) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(4) Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hóa cho ngân hàng.
(5) Ngân hàng thanh tóan tiền cho công ty bán lẻ.
(6) Người tiêu dùng thanh tóan tiền trả góp cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có ưu điểm là hoạt động này đem lại lợi ích
cho cả 3 phía là ngân hàng, người tiêu dùng và công ty bán lẻ. Người tiêu

14
Ngân hàng
Người tiêu dùng
Công ty bán lẻ
1
26 3
4
5
dùng thay vì phải thanh tóan tòan bộ giá trị tài sản lúc mua sẽ được sử dụng
hàng hóa, dịch vụ trước rồi mới trả nợ dần. Các công ty bán lẻ tăng doanh thu
nhờ bán được nhiều sản phẩm, dịch vụ hơn. Còn các ngân hàng có thể tiết
kiệm và giảm chi phí cho vay, đồng thời tăng lợi nhuận từ cho vay. Đặc biệt,
nếu ngân hàng và công ty bán lẻ có quan hệ tốt thì việc cho vay tiêu dùng
gián tiếp còn an tòan hơn so với cho vay trực tiếp. Quan đó giúp ngân hàng
mở rộng quan hệ với khách hàng, tạo điều kiện phát triển các hoạt động khác
của ngân hàng.
Tuy nhiên, so với cho vay trực tiếp thì hình thức này cũng có nhược
điểm, đó là ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng mua chịu nên
thông tin có được chỉ qua các công ty bán lẻ, do đó sẽ gặp nhiều khó khăn
trong việc kiểm tra tính đúng đắn của thông tin, dễ bị lừa đảo, giả mạo. Bên
cạnh đó còn có trường hợp trong quá trình thực hiện việc trả góp, người mua
trả lại hàng cho người bán khi họ không có khả năng chi trả hoặc không hài
lòng với sản phẩm. Tình huống này khi xảy ra sẽ gây ảnh hưởng tới việc thu
nợ của ngân hàng. Đồng thời ngân hàng thiếu sự kiểm sóat quá trình công ty
bán lẻ bán chịu hàng hóa, nhất là việc lựa chọn khách hàng, quy trình, kỹ
thuật cho vay tiêu dùng gián tiếp vốn có tính phức tạp cao.
Do các nhược điểm trên nên nhìn chung, các ngân hàng thường rất hạn
chế hình thức này, hoặc nếu có thì cũng kiểm tra, giám sát rất chặt chẽ.
Để thích ứng với từng đối tượng khách hàng, ngân hàng đưa ra các
phương thức khác nhau trong quá trình mua phiếu bán hàng, đó là:

- Tài trợ được truy đòi toàn bộ: theo phương thức này, nếu khỏan vay
của người tiêu dùng quá hạn thanh tóan thì người bán hàng phải thanh
tóan cho ngân hàng tòan bộ khỏan nợ.
- Tài trợ miễn truy đòi: là phương thức mà người bán không có trách
nhiệm với các phiếu nợ bán hàng cho ngân hàng. Phương thức này
15
đòi hỏi nngân hàng phải lựa chọn kỹ càng các chứng từ được mua,
hoặc chỉ áp dụng với những công ty tin cậy do có tính rủi ro cao cho
ngân hàng.
- Tài trợ truy đòi hạn chế: công ty bán lẻ chỉ chịu trách nhiệm trong
một giới hạn nhất định đối với khỏan nợ mà người tiêu dùng không
thanh tóan được cho ngân hàng, và trách nhiệm đó phụ thuộc vào
điều khỏan thỏan thuận giữa ngân hàng và công ty bán lẻ.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cho vay tiêu dùng của ngân hàng
thương mại:
Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mai chịu ảnh hưởng
của rất nhiều nhân tố, bao gồm cả nhân tố chủ quan và khách quan.
1.2.3.1. Nhân tố thuộc về Ngân hàng:
 Vốn tự có:
Để bắt đầu hoạt động kinh doanh, các ngân hàng phải có một lượng vốn
nhất định (vốn tự có). Vốn tự có có thể hình thành theo nhiều cách khác nhau
tùy thuộc vào tính chất sở hữu. Đây là nguồn vốn ban đầu, tuy chiếm tỷ trọng
nhỏ trong tổng nguồn vốn nhưng nó đóng vai trò rất quan trọng, góp phần xác
định quy mô và cơ cấu của ngân hàng. Vốn tự có của ngân hàng có thể coi là
tài sản đảm bảo lòng tin với khách hàng vì nó góp phần bảo vệ lợi ích của
người gửi tiền. Ngân hàng có vốn tự có lớn thì người gửi tiền và ngừơi cho
vay sẽ cảm thấy an tâm hơn về ngân hàng, nhờ đó ngân hàng tăng khả năng
huy động vốn, gia tăng quy mô nguồn vốn, tài sản, quy mô cho vay cũng như
đầu tư, đặc biệt là trung và dài hạn, đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật, trang
thiết bị và công nghệ hiện đại để có thể phục vụ khách hàng được tốt hơn.

Vì vốn tự có chiếm tỷ lệ rất nhỏ nên để đáp ứng được nhu cầu vốn cho
nền kinh tế nói chung, cho người đi vay nói riêng, các ngân hàng phải không
ngừng huy động từ các nguồn khác như nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có
giá…., từ đó tiến hành các hoạt động kinh doanh, thu lợi nhuận.
16
 Nguồn nhân lực của ngân hàng:
Nguồn nhân lực là một trong bốn yếu tố không thể thiếu của quá trình
sản xuất kinh doanh, đó là vốn, công nghệ, tài nguyên, con người. Trong mọi
hoạt động, con người luôn đóng vai trò chủ đạo, sử dụng các yếu tố khác làm
công cụ để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với hoạt động ngân
hàng cũng vậy, cho dù cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại đến đâu thì con
người vẫn luôn là nhân tố quyết định sự thành bại của ngân hàng. Ngân hàng
nào biết sử dụng nguồn nhân lực một cách hiệu quả thì sẽ dễ dàng đạt được
mục tiêu của mình.
Để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực, người ta thường xem xét: trình
độ học vấn, trình độ nghiệp vụ, tuổi, khả năng sáng tạo, khả năng làm việc, sự
nhiệt tình, đạo đức nghề nghiệp… Trong hoạt động của ngân hàng và đặc biệt
là trong nghiệp vụ tín dụng, yếu tố đạo đức của cán bộ tín dụng đóng vai trò
vô cùng quan trọng. Một nhân viên tín dụng có đạo đức sẽ không vì lợi ích
trước mắt của bản thân mà móc nối với khách hàng, với bên ngòai để cấp tín
dụng cho các khỏan vay không tốt, các phương án kinh doanh không khả thi,
làm ảnh hưởng đến lợi ích cũng như danh tiếng của ngân hàng. Sự thành công
của một hợp đồng tín dụng còn phụ thuộc vào thái độ phục vụ của cán bộ tín
dụng. Đối với mỗi khách hàng, họ sẽ nhớ rất lâu và nói rất nhiều về những
điểm không hài lòng mà khởi nguồn của những thông tin đó là thái độ và khả
năng phục vụ của nhân viên ngân hàng. Đặc biệt thông qua kênh truyền
miệng, nó có tác dụng lan truyền rất nhanh. Vì vậy, chính cách thức làm việc
chuyên nghiệp và sự phục vụ tận tình của cán bộ tín dụng sẽ là lợi thế cạnh
tranh quan trọng so vơi các ngân hàng khác trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng.
Tác phong chuyên nghiệp của cán bộ tín dụng không chỉ đem lại sự thành

công cho hợp đồng tín dụng mà còn đem lại cho ngân hàng nhiều hợp đồng
tín dụng tiềm năng.
17
Hiện nay, để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, các ngân hàng đều
có những chính sách hấp dẫn như chính sách về lương (ví dụ thay chính sách
2 năm tăng lương 1 lần thành 6 tháng 1 lần), chính sách thưởng (theo năng
suất, thưởng tết,…), phụ cấp, đào tạo, quan tâm đến gia đình nhân viên, hay
mua bảo hiểm cho nhân viên,…, tạo môi trường làm việc thân thiện, lành
mạnh giúp nhân viên yên tâm làm việc, công tác, gắn bó với ngân hàng.
 Quy trình tín dụng:
Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng
trong việc cấp tín dụng. Quy trình tín dụng được chia thành các giai đoạn: lập hồ
sơ tín dụng, thẩm định (hay còn gọi là phân tích tín dụng), quyết định tín dụng,
giải ngân, giám sát, thu hồi nợ và thanh lý tín dụng. Các giai đoạn có mối quan
hệ mật thiệt với nhau. Kết quả của giai đoạn trước là cơ sở thực hiện và tác động
đến chất lượng công việc của giai đoạn sau. Các bước trong thủ tục, quy trình
cho vay cần phải được xây dựng một cách thống nhất, khoa học, tránh gây khó
khăn cho khách hàng trong quá trình tiếp cận vốn. Đồng thời, một sự phối hợp
nhịp nhàng, chính xác, khách quan giữa các bước sẽ giúp cho ngân hàng có thể
phát hiện kịp thời những vướng mắc, sai sót, từ đó đưa ra phương án giải quyết
tối ưu, hạn chế rủi ro cho cả khách hàng và ngân hàng. Quy trình cho vay cũng
đòi hỏi nhân viên ngân hàng thực hiện nghiêm túc, tránh nhũng nhiễu khách
hàng, để tạo ấn tượng tốt với khách hàng, từ đó thu hút khách hàng, mở rộng
quan hệ. Ngày nay, các ngân hàng và các định chế cho vay khác đều thiết lập các
quy trình tín dụng. Về nguyên tắc, các quy trình tín dụng của các ngân hàng có
các nội dung cơ bản tương tự nhau, tuy nhiên nội dung chi tiết lại khác nhau.
Việc xây dựng một quy trình tín dụng hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của
hoạt động quản trị góp phần giảm thiểu rủi ro và nâng cao doanh số. Bởi vì :
+ Quy trình tín dụng làm cơ sở cho xây dựng mô hình tổ chức thích hợp
tại ngân hàng. Nhiệm vụ của các phòng ban, bộ phận chức năng được xác

18
định rõ ràng các công việc liên quan đến hoạt động cho vay từ đó làm cơ sở
phân định trách nhiệm ở từng vị trí. Nó như là một quy phạm nghiệp vụ bắt
buộc thực hiện trong nội bộ ngân hàng và thường được in thành văn bản
hướng dẫn nhằm thực hiện thống nhất những nghiệp vụ tín dụng tại ngân
hàng. Nhân viên ngân hàng sẽ biết được trách nhiệm phải thực hiện, mối quan
hệ với các đồng nghiệp, vai trò trong toàn bộ quy trình.
+ Dựa vào quy trình, ngân hàng sẽ thiết lập các thủ tục hành chính phù
hợp với quy định của pháp luật và bảo đảm an toàn trong kinh doanh tín dụng.
Các thủ tục cho vay thích hợp với từng nhóm khách hàng, từng loại cho vay,
kỹ thuật phân tích nhằm cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết, nhưng không
gây phiền hà cho khách hàng.
+ Quy trình tín dụng là cơ sở để kiểm soát tiến trình cấp tín dụng và điều
chỉnh chính sách tín dụng cho phù hợp với thực tiễn. Thông qua kiểm soát
thực hiện quy trình tín dụng nhà quản trị ngân hàng nhanh chóng xác định
những khâu, những công việc cần điều chỉnh, cũng như hướng đào tạo và
phân công tương lai, để kiểm soát được những rủi ro khi cấp tín dụng.
 Sản phẩm cho vay tiêu dùng (chiến lược phát triển sản phẩm):
Chiến lược phát triển sản phẩm là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến hiệu
quả cho vay tiêu dùng. Chiến lược được hiểu là tầm nhìn của doanh nghiệp
trong dài hạn về phương hướng, quy mô, thị trường, lợi thế, nguồn lực, môi
trường ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh, giá trị kỳ vọng mà những người
trong và ngoài doanh nghiệp cần.
Chiến lược kinh doanh liên quan đến khả năng cạnh tranh thành công
trên một thị trường cụ thể. Nó liên quan đến các quyết định chiến lược về lựa
chọn sản phẩm, đáp ứng nhu cầu khách hàng, giành lợi thế cạnh tranh so với
các đối thủ, khai thác và tạo ra các cơ hội mới… Cũng giống như một doanh
nghiệp, một NHTM không có chiến lược kinh doanh sẽ bị rơi vào thế bị động
19
trong hoạt động kinh doanh. Dựa trên cơ sở một chiến lược kinh doanh được

xác lập, ngân hàng sẽ chuyển nó thành hành động, lập ra những kế hoạch bộ
phận cho từng thời kỳ đảm bảo cho những mục tiêu đã đề ra ; đặc biệt có kế
hoạch ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả cho vay tiêu dùng như : kế hoạch tăng
trưởng tín dụng, kế hoạch marketing, chính sách nhân sự.
 Trình độ công nghệ của ngân hàng.
Công nghệ hiện đại giúp cho ngân hàng cung cấp dịch vụ hiện đại,
phong phú phục vụ nhu cầu ngày càng lớn và đa dạng của khách hàng. Đặc
biệt với hoạt động cho vay tiêu dùng với đặc điểm số lượng khách hàng đông
và đa dạng, ngân hàng phải thực hiện một số lượng lớn các hợp đồng cho vay,
với hệ thống công nghệ phát triển vừa tiết kiệm được thời gian công sức cán
bộ tín dụng vừa nhằm hạn chế tối đa sự nhầm lẫn, sai sót trong quá trình
khách hàng có quan hệ với khách hàng.
 Công tác thông tin.
Thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động cho vay nói
chung và cho vay tiêu dùng nói riêng. Trên cơ sở nguồn thông tin nhận được,
ngân hàng thực hiện phân tích tín dụng để đánh giá khả năng hiện tại và tiềm
tàng của khách hàng về sử dụng vốn, cũng như khả năng hoàn trả vốn vay cho
ngân hàng. Ngân hàng sẽ tìm kiếm những tình huống có thể dẫn đến rủi ro
cho ngân hàng và tiên lượng khả năng kiểm soát của ngân hàng về các rủi ro
đó, dự kiến các biện pháp phòng ngừa và hạn chế thiệt hại có thể xảy ra. Từ
đó ra quyết định tín dụng, chấp thuận hay không chấp thuận cho vay. Thông
tin có thể được cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau: từ hồ sơ đề nghị cấp vốn
của khách hàng; hồ sơ lưu trữ tại ngân hàng, hoặc từ các ngân hàng, các tổ
chức tín dụng khác, đặc biệt từ trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro của hệ
thống các định chế tài chính; từ các cơ quan chức năng như thuế, pháp luật…
các ấn bản báo chi, các phương tiện thông tin đại chúng, từ phỏng vấn trực
20
tiếp khách hàng hoặc người thân của họ; thậm chí từ nguồn thông tin đi mua.
Sô lượng, chất lượng thông tin ảnh hưởng đến tính đúng đắn, phù hợp của
quyết định đưa ra. Do vậy công tác thông tin có tác động lớn đến hiệu quả

hoạt động cho vay.
1.2.3.2. Nhân tố thuộc về Khách hàng:
Đối tượng vay vốn của ngân hàng bao gồm các cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp có nhu cầu về vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng. Các
khách hàng có nhu cầu khác nhau về sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng. Nếu
khách hàng của cho vay sản xuất kinh doanh thường là tổ chức, doanh nghiệp
thì trong sản phẩm cho vay tiêu dùng, khách hàng lại tập trung vào khách
hàng cá nhân, hộ gia đình- những người có nhu cầu mua sắm, tiêu dùng
thường xuyên. Khi xem xét yếu tố khách hàng, người ta thường quan tâm:
 Đạo đức của khách hàng: được đánh giá trên năng lực pháp lý và độ
tín nhiệm của khách hàng. Năng lực pháp lý của khách hàng được
đánh giá qua việc khách hàng không vi phạm các quy định trong, trước
và sau khi cho vay. Mức độ tín nhiệm của ngân hàng đối với khách
hàng được đánh giá thông qua những yếu tố về thu nhập, tài sản đảm
bảo, sự sẵn lòng trả nợ của khách hàng.
 Khả năng tài chính của khách hàng: Ngân hàng cấp các khoản cho
vay tiêu dùng cho khách hàng dựa trên khả năng trả nợ của họ, hay
nói cách khác, khả năng tài chính của khách hàng phải đủ lớn và lành
mạnh để hòan trả các khỏan nợ của ngân hàng thì khoản vay vốn mới
được chấp nhận. Như vậy, ngân hàng cần xem xét kỹ lượng với
những nguồn trả nợ nghi ngờ về tính lành mạnh hoặc nguồn đủ mạnh
nhưng không ổn định.
1.2.3.3. Nhân tố thuộc về đối thủ cạnh tranh:
Trong những năm gần đây, cùng với xu hướng tự do hóa thì ngân hàng
21
cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh rất khốc liệt từ các đối thủ như các định
chế tài chính khác, đặc biệt là từ các ngân hàng nước ngòai. Họ là những đối
thủ dày dạn kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, lại có khả năng
quản lý tốt, đồng thời có những chiêu thu hút nhân tài trong nước. Do vậy, để
tăng năng lực, khả năng cạnh tranh của mình, ngân hàng phải nghiên cứu kĩ

đối thủ cạnh tranh, từ đó có chiến lược cụ thể cho mình nhằm phục vụ khách
hàng ngày càng tốt, đem lại lợi ích cho mình.
1.2.3.4. Nhân tố thuộc về môi trường hoạt động của Ngân hàng:
 Tình hình kinh tế:
Môi trường kinh tế là nhân tố tổng thể, tác động đến mọi mặt của hoạt
động sản xuất kinh doanh, trong đó có lĩnh vực ngân hàng. Đặc trưng của môi
trường kinh tế là trình độ phát triển, sự ổn định kinh tế, thu nhập bình quân
đầu người, tổng thu nhập quốc dân, chính sách phát triển, chính sách tài chính
tiền tệ và các yếu tố khác sẽ có ảnh hưởng lớn đến nhu cầu cũng như cách
thức chi tiêu của dân cư.
Sự thay đổi của nền kinh tế dù lớn hay nhỏ thì cũng đều có tác động tới ngân
hàng theo hướng tích cực hoặc tiêu cực. Một nền kinh tế tăng trưởng ổn định sẽ
thúc đẩy người dân tiêu dùng, hạn chế tiết kiệm bởi họ yên tâm về thu nhập tương
lai của mình, từ đó ngân hàng có thể mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng.
Ngược lại, khi nền kinh tế lâm vào suy thóai, thất nghiệp, lạm phát tăng cao thì
người dân sẽ tiết kiệm nhiều hơn, hạn chế tiêu dùng, khi đó, hoạt động của ngân
hàng cũng ảnh hường, và hoạt động cho vay tiêu dùng giảm sút là tất yếu.
Không chỉ nền kinh tế nội địa mà cả tình hình kinh tế thế giới cũng có
ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng, bởi chúng ta đang sống
trong thời đại của xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Kinh
tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, bởi
vậy, những biến động của kinh tế thế giới tất yếu có ảnh hưởng tới kinh tế
22
Việt Nam. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của các công ty tài chính, quỹ đầu tư,
ngân hàng và nhà đầu tư nước ngòai đã làm cho cạnh tranh ngày càng gay gắt,
quyết liệt. Do vậy, ngân hàng cần áp dụng công nghệ mới, nâng cao trình độ
nghiệp vụ cũng như trình độ quản lý để có thể tồn tại và phát triển.
 Môi trường pháp lý:
Mọi hoạt động trong xã hội, trong đó có hoạt động ngân hàng đều chịu
sự điều chỉnh, chi phối của hệ thống pháp luật, sự kiểm sóat chặt chẽ của các

cơ quan điều hành. Môi trường pháp lý taọ ra cho ngân hàng rất nhiều cơ hội
cũng như không ít thách thức. Do vậy, bên cạnh việc tìm hiểu các văn bản
pháp luật chuyên ngành thì các nhà kinh doanh ngân hàng cũng cần quan tâm
tới căn bản pháp luật khác như Luật doanh nghiệp, Luật dân sự, Luật đất đai,
Luật thuế, Luật lao động… để có sự điều chỉnh phù hợp, kịp thời, đảm bảo
cho hoạt động kinh doanh ngân hàng hiệu quả.
 Môi trường văn hóa xã hội:
Môi trường văn hóa xã hội có tác động không nhỏ tới hoạt động cho vay
tiêu dùng của ngân hàng. Môi trường văn hóa xã hội bao gồm nhiều yếu tố
như trình độ dân trí, lối sống, tình hình trật tự xã hội, thói quen, bản sắc văn
hóa dân tộc… có ảnh hưởng lớn đến hành vi tiêu dùng của dân cư và nhu cầu
sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Bởi vậy, việc tìm hiểu các yếu tố văn hóa xã
hội giúp ngân hàng xác định tác động của chúng tới hành vi tiêu dùng của
khách hàng để từ đó xây dựng các chính sách, chiến lược phát triển cho phù
hợp từng thị trường mục tiêu.
1.2.4. Phát triển cho vay tiêu dùng:
1.2.4.1. Khái niệm:
Phát triển cho vay tiêu dùng được hiểu là tổng hợp các biện pháp và hoạt
23
động của ngân hàng nhằm tăng quy mô, chất lượng, số lượng các khỏan vay
tiêu dùng, từ đó làm cho cho vay tiêu dùng tăng lên về doanh số cũng như tỷ
lệ cho vay so với tổng doanh số cho vay của ngân hàng.
1.2.4.2. Các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển cho vay tiêu dùng tại ngân
hàng thương mại:
- Chỉ tiêu về lượng:
 Số lượng các sản phẩm cho vay tiêu dùng: ngân hàng nào có càng
nhiều các sản phẩm cho vay tiêu dùng cho thấy mức độ tập trung mở
rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng đó càng lớn. Khi
một ngân hàng chú trọng tới phát triển cho vay tiêu dùng thì các sản
phẩm cho vay tiêu dùng sẽ đa dạng hơn.

 Doanh thu từ hoạt động cho vay tiêu dùng: là số tiền thu được từ
hoạt động cho vay với khách hàng. Khi xem xét doanh thu, người ta
thường tính tóan sự tăng trưởng tuyệt đối và tăng trưởng tương đối.
Sự tăng trưởng tuyệt đối về DT = DT năm sau- DT năm trước.
Sự tăng trưởng tương đối về DT= tăng trưởng tuyệt đối về DT/ DT năm trước.
 Doanh số cho vay: là tổng số tiền ngân hàng cho vay ra trong kỳ,
được cộng dồn các khỏan cho vay trong một kỳ kế tóan, nó phản ánh
lượng vốn mà ngân hàng đã giải ngân, thể hiện xu hướng mở rộng
hay thu hẹp hoạt động CVTD.
 Doanh số thu nợ: phản ánh lượng vốn mà ngân hàng cho vay ra, đã
thu lại được bao nhiêu.
 Dư nợ cho vay: phản ánh số tiền mà khách hàng đang nợ ngân hàng
tại một thời điểm nhất định. Chỉ tiêu này cho thấy khả năng của ngân
hàng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn vay của khách hàng cũng như
khả năng cạnh tranh thu hút khách hàng của ngân hàng.
- Chỉ tiêu phản ánh về chất:
24
 Lợi nhuận cho vay: là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí cho vay.
 Tỷ lệ nợ quá hạn: được tính bằng nợ quá hạn CVTD/ Tổng dư nợ
*100%.
đây là khỏan nợ đến hạn trả mà khách hàng không có khả năng trả nợ, nó
phản ánh lượng vốn mà ngân hàng có nguy cơ không thu hồi được.
 Tỷ trọng CVTD so với các loại cho vay khác: được xác định qua 2
chỉ tiêu:
• Tỷ trọng doanh số CVTD/ Tổng doanh số cho vay của ngân hàng.
• Tỷ trọng lợi nhuận CVTD/ Tổng lợi nhuận từ cho vay của ngân hàng.
25

×