Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Phát triển cho vay tiêu dùng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.33 KB, 79 trang )

Luận văn Tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Sau sự kiện việt Nam ra nhập WTO vào tháng 11/2006 thì sự cạnh tranh
trong lĩnh vực Tài chính – Ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt, quyết liệt
hơn. Điều này vừa tạo ra những cơ hội cho các Ngân hàng Thương mại
(NHTM) Việt Nam phát triển và tự khẳng định mình nhưng đồng thời nó
cũng tạo ra những thách thức lớn mà các ngân hàng phải đối đầu. Trong điều
kiện cạnh tranh quyết liệt như vậy, khi thị phần của ngân hàng dần bị chiếm
chỗ bởi các định chế tài chính khác, các NHTM việt Nam cần phải làm gì để
phát triển nhanh và bền vững ?
Chiến lược “Ngân hàng Bán lẻ” chính là một hướng đi mới mà các
NHTM Việt Nam đã tìm ra và đang trong những bước đầu của quá trình thực
hiện.
Ngân hàng bán lẻ được hiểu là ngân hàng cung cấp các dịch vụ trực tiếp
cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân với quy mô các khoản giao
dịch nhỏ, bao gồm: Tiền gửi tiết kiệm; Tài khoản ATM; Cho vay thế chấp;
Cho vay tiêu dùng cá nhân …
Tuy nhiên trong điều kiện công nghệ &cơ sở vật chất còn yếu, các NHTM
Việt Nam đã lựa chọn thực hiện hoạt động Cho vay tiêu dùng trước tiên và
coi đó là bước đi ban đầu an toàn và hiệu quả trong chiến lược “Ngân hàng
Bán lẻ”
Thêm vào đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các sản
phẩm, dịch vụ tiêu dùng ngày càng trở nên phong phú, đa dạng,phù hợp với
nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, với mức thu nhập như hiện nay,
phần lớn người tiêu dùng không thể chi trả cho tất cả các nhu cầu mua sắm
cùng lúc, đặc biệt là những vật dụng đắt tiền. Nếu người tiêu dùng có thể vay
được tiền từ ngân hàng thì họ có thể thoả mãn được nhu cầu của họ ngay
trong hiện tại. Điều đó làm tăng sự tiêu dùng hàng hoá, thúc đẩy hoạt động
sản xuất kinh doanh của các hãng, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao
động, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung của toàn xã hội một cách
SV: Hoàng Thị Nhung 1


Luận văn Tốt nghiệp
nhanh chóng. Do đó, với việc thực hiện hoạt động cho vay tiêu dùng, một mặt
có thể thực hiện tốt nhiệm vụ kích cầu cho nền kinh tế, tạo nên sự hoà hợp
giữa Cung & Cầu tiêu dùng. Mặt khác, nó còn đem lại những khoản lợi nhuận
lớn cho ngân hàng. Chính vì vậy, Cho vay tiêu dùng được xem là một hướng
đi mới, một lĩnh vực kinh doanh đầy triển vọng cho các NHTM Việt Nam.
Xuất phát từ những nhận thức trên cùng với những kiến thức thực tế thu
được trong quá trình thực tập tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương
Việt Nam đã gợi mở cho em thực hiện đề tài:
“ Phát triển cho vay tiêu dùng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng
Công thương Việt Nam”
Ngoài phần mở đầu, kết luận, chuyên đề được chia làm 3 chương:

Chương I .Tổng quan về hoạt động Cho vay tiêu dùng của NHTM
Chương II .Thực trạng Cho vay tiêu dùng tại Sở giao dịch I - Ngân
hàng Công thương Việt Nam
Chương III .Giải pháp phát triển cho vay tiêu dùng tại Sở giao
dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam
Trong quá trình hoàn thiện đề tài này, em đã nhận được sự hướng dẫn,
giúp đỡ tận tình của PGS.TS Đào Hùng cùng với cán bộ, nhân viên công tác
tại phòng Khách hàng Cá nhân của Sở giao dich I - Ngân hàng Công thương
Việt Nam.

Em xin chân thành cảm ơn!

Chương I: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY
TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
SV: Hoàng Thị Nhung 2
Luận văn Tốt nghiệp
1.1: Khái niệm, đối tượng, đặc điểm và chức năng của Cho vay tiêu dùng

1.1.1: Khái niệm Cho vay tiêu dùng
Nhắc đến NHTM thì không thể không nhắc đến hoạt động cho vay. Đặc
biệt, đối với các NHTM Việt Nam thì lợi nhuận từ hoạt động cho vay đem lại
chiếm một phần rất lớn trong tổng lợi nhuận của Ngân hàng. Do vậy, cho vay
được xem là hoạt động chủ đạo của các NHTM Việt Nam.
Hoạt động cho vay có thể được hiểu “là một giao dịch về tài sản(tiền
hoặc hàng hoá), giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác)
và bên đi vay(cá nhân,doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó: Bên cho
vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định
theo thoả thuận, Bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và
lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán”
Dựa trên những tiêu thức khác nhau thì người ta có thể phân chia cho vay
làm nhiều loại như: Cho vay theo “Mức độ tín nhiệm khách hàng” (gồm có:
Cho vay có bảo đảm và cho vay không có bảo đảm); Cho vay theo “Đối
tượng tham gia vào quy trình cho vay”(gồm có: cho vay trực tiếp và cho vay
gián tiếp ); Và dựa trên tiêu thức “Mục đích sử dụng vốn” thì cho vay gồm có:
Cho vay sản xuất kinh doanh và cho vay tiêu dùng.
Nếu Cho vay SXKD là hoạt động ngân hàng cho các tổ chức, Doanh
nghiệp hay các Công ty vay để kinh doanh dịch vụ hay thực hiện các dự án
đầu tư, các phương án sản xuất thì Cho vay tiêu dùng lại là hình thức tài trợ
cho nhu cầu chi tiêu.
Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp người vay trang trải nhu cầu
nhà ở, đồ dùng gia đình, xe cộ…Bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu
giáo dục, y tế và du lịch cũng có thể được tài trợ bởi CVTD. Như vậy, bằng
việc CVTD các ngân hàng sẽ giúp các cá nhân, hộ gia đình thoả mãn nhu cầu
trước khi họ có khả năng chi trả.
SV: Hoàng Thị Nhung 3
Luận văn Tốt nghiệp
Do đó, ta có thể đưa ra một khái niệm mang tính tổng quát về CVTD tại
NHTM như sau:

“Cho vay tiêu dùng là một hình thức cho vay, qua đó Ngân hàng chuyển
cho khách hàng (cá nhân hay hộ gia đình) quyền sử dụng một lượng giá trị
(tiền) trong một khoảng thời gian nhất định, với những thoả thuận mà hai Bên
đã kí kết (về số tiền cấp; thời gian cấp; lãi suất phải trả …) nhằm giúp cho
khách hàng có thể sử dụng những hàng hoá và dịch vụ trước khi họ có khả
năng chi trả, tạo điều kiện cho họ có thể hưởng một cuộc sống cao hơn”
1.1.2. Đối tượng của Cho vay tiêu dùng
Đối tượng của CVTD rất đa dạng, nhưng có thể khái quát thành các
nhóm như sau:
Nhóm đối tượng có thu nhập thấp
Những người có thu nhập thấp thì thông thường nhu cầu vay để tiêu
dùng không cao và bị giới hạn bởi thu nhập, việc vay vốn chỉ nhằm cân đối
giữa thu nhập &chi tiêu.
Nhóm đối tượng có thu nhập trung bình
Nhóm đối tượng này muốn vay để tiêu dùng hơn là dùng chính tiền tích
luỹ, dự phòng của mình để chi tiêu. Do đó, nhóm đối tượng này có nhu cầu
vay vốn tăng mạnh so với Nhóm đối tượng có thu nhập thấp.
Nhóm đối tượng có thu nhập cao
Nhóm đối tượng này vay tiêu dùng nhằm tăng khả năng thanh toán và
coi đó như một khoản linh hoạt để chi tiêu khi mà tiền tích luỹ của họ chưa
cao hay lợi nhuận do đầu tư mang lại chưa thu được. Đây là nhóm đối tượng
có những khoản tiêu dùng lớn và thường xuyên. Do đó, các NHTM cần dùng
những biện pháp thích hợp để tiếp cận và mở rộng nhóm đối tượng này.
1.1.3. Đặc điểm của Cho vay tiêu dùng
SV: Hoàng Thị Nhung 4
Luận văn Tốt nghiệp
Qui mô nhỏ
Đối với CVTD ta có thể thấy một đặc điểm là: “Qui mô các khoản vay
nhỏ nhưng số lượng các khoản vay rất lớn”. Với mục đích vay để tiêu dùng
nên các khoản vay thường không lớn. Hơn nữa, nhu cầu của dân cư với các

loại hàng hoá xa xỉ là không cao hoặc người vay cũng đã có một khoản tiền
tích luỹ trước đối với các loại tài sản có giá trị lớn. Tuy vậy, vay tiêu dùng lại
là nhu cầu vay vốn khá phổ biến, đa dạng và thường xuyên đối với mọi tầng
lớp dân cư nên mặc dù mỗi món vay tiêu dùng có quy mô nhỏ nhưng do số
lượng các khoản vay lớn khiến cho tổng quy mô CVTD của các ngân hàng
thường khá lớn.
Lãi suất cao
Không như hầu hết các khoản cho vay SXKD hiện nay có lãi suấtt thay
đổi theo điều kiện thị trường, lãi suất CVTD thường được cố định. Khi đưa ra
mức lãi suất cho vay cố định này các ngân hàng sẽ phải dự tính đến: yếu tố lãi
suất huy động đầu vào (có xu hướng thay đổi như thế nào? ); tính đến phần bù
rủi ro và chi phí. Tuy qui mô mỗi khoản vay nhỏ nhưng số lượng các khoản
vay lớn nên tổng chi phí lớn. Hơn nữa, CVTD còn được xem là tiềm ẩn nhiều
rủi ro nên phần bù rủi ro cũng khá cao. Vì thế, lãi suất CVTD thường cao và
cố định.
Có tính nhạy cảm theo chu kỳ
Thật vậy, số lượng các khoản CVTD phụ thuộc vào nhu cầu tiêu dùng
của dân cư và cầu có khả năng thanh toán của họ. Do đó, nó có tính nhạy cảm
theo chu kỳ. Số lượng các khoản CVTD sẽ tăng lên trong thời kỳ kinh tế phát
triển. Lúc này, người dân có mức thu nhập tương đối cao và ổn định, tình hình
hình kinh tế xã hội đầy lạc quan.Và ngược lại, trong thời kỳ nền kinh tế rơi
vầo suy thoái, rất nhiều cá nhân và hộ gia đình sẽ cảm thấy không mấy tin
tưởng vào tương lai ,nhất là khi họ thấy thu nhập cuả họ giảm xuống. Lúc
SV: Hoàng Thị Nhung 5
Luận văn Tốt nghiệp
này, mọi người có xu hướng tiết kiệm hơn là tiêu dùng. Do đó, việc vay ngân
hàng nói chung và vay tiêu dùng nói riêng sẽ hạn chế, làm cho số lượng các
khoản CVTD giảm xuống trầm trọng.
Rủi ro cao
Nhìn chung, các khoản CVTD có độ rủi ro cao vì bên cạnh sự ảnh hưởng

của các yếu tố khách quan như môi trường kinh tế, văn hoá, xã hội… nó còn
chịu tác động của những nhân tố chủ quan xuất phát từ bản thân khách hàng.
Trong cuộc sống chúng ta không thể lường trước được hết hậu quả do những
rủi ro khách quan như suy thoái kinh tế, mất mùa, thiên tai…Đặc biệt, hoạt
động CVTD phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế. Khi nền kinh tế suy thoái thì người
tiêu dùng sẽ không thấy tin tưởng vào tương lai và cùng với những lo lắng về
thu nhập, nguy cơ thất nghiệp, họ sẽ hạn chế việc vay mượn từ ngân hàng.
Ngoài ra, CVTD còn chịu một số rủi ro chủ quan như tình trạng sức khoẻ, khả
năng trả nợ của cá nhân và hộ gia đình…Điều đó tạo nên rủi ro lớn cho ngân
hàng, hơn nữa thông tin tài chính của đối tượng này rất khó đầy đủ và chính
xác hoàn toàn bởi số lượng các khoản vay rất lớn trong khi số lượng cán bộ
tín dụng của ngân hàng thì có hạn. Mặt khác, yếu tố đạo đức cá nhân người
tiêu dùng cũng là nhân tố tác động trực tiếp vào việc trả nợ cho ngân hàng.
Chi phí cao
Do thông tin thân nhân, lai lịch và tình hình tài chính của khách hàng
thường không đầy đủ và khó thu thập, ngân hàng phải bỏ nhiều chi phí cho
công tác thẩm định và xét duyệt cho vay. Hơn thế nữa, do khoản vay có qui
mô nhỏ và số lượng khoản vay rất lớn nên ngân hàng cũng phải chịu một chi
phí đáng kể để quản lý hồ sơ khách hàng. Chính vì thế, CVTD trở thành một
trong những khoản mục có chi phí lớn nhất trong hoạt động tín dụng ngân
hàng.
Lợi nhuận lớn
SV: Hoàng Thị Nhung 6
Luận văn Tốt nghiệp
Do rủi ro và chi phí tính trên một đơn vị tiền tệ của CVTD lớn nên ngân
hàng thường đặt lãi suất cao đối với các khoản CVTD. Bên cạnh đó, số lượng
các khoản CVTD rất lớn làm cho tổng lợi nhuận thu được từ hoạt động
CVTD của các NHTM là rất đáng kể.
1.1.4.Vai trò của CVTD
Đối với khách hàng

Cho vay tiêu dùng là các cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của
khách hàng. Nhờ những khoản vay tiêu dùng từ ngân hàng, họ có thể mua
sắm những hàng hoá cần thiết, các hàng hoá xa xỉ, có giá trị cao, giúp thoả
mãn nhu cầu tiêu dùng và cải thiện cuộc sống ngay cả khi khả năng tài chính
hiện tại của họ chưa cho phép. Vì vậy, việc ngân hàng thực hiện và phát triển
hoạt động CVTD sẽ mang đến những lợi ích tốt, thiết thực cho khách hàng.
Có thể nói rằng, Khách hàng chính là những người hưởng lợi nhiều nhất và
trực tiếp những lợi ích mà hình thức CVTD này mang lại.
Đối với ngân hàng
CVTD tuy đã xuất hiện từ những năm 1980, nhưng gần đây nó mới được
các NHTM quan tâm mở rộng và phát triển. Và loại hình tín dụng này còn
khá mới mẻ ở các NHTM Việt Nam. Nhưng không phải vì thế mà phủ nhận
vai trò quan trọng của hoạt động CVTD đối với các NHTM. Vai trò ấy được
khái quát như sau:
CVTD tạo điều kiện đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, nhờ đó góp phần giúp
các NHTM tăng khả năng cạnh tranh,nâng cao thu nhập và phân tán được rủi
ro.
Trong điều kiện ngày nay, khi mà sự cạnh tranh trong lĩnh vực Tài chính-
Ngân hàng ngày càng gay gắt, quyết liệt thì vai trò của CVTD thực sự quan
trọng đối với các NHTM, bởi nó góp phần tăng khả năng cạnh tranh giữa các
ngân hàng so với các định chế tài chính khác. CVTD, nếu xét về tổng quy mô
SV: Hoàng Thị Nhung 7
Luận văn Tốt nghiệp
thì mức độ rủi ro của nó lớn (do quy mô lớn ), nhưng thực tế do quy mô của
mỗi khoản cho vay thường nhỏ và số lượng các khoản vay tiêu dùng lớn nên
ngân hàng có thể phân tán được rủi ro tốt hơn. Hơn nữa, do lãi suất CVTD
thường cao nên thu nhập của các NHTM từ hoạt động CVTD thường rất lớn.
CVTD giúp các NHTM mở rộng quan hệ với khách hàng.
Do tính lan truyền trong dân cư là rất cao nên các Ngân hàng có thể thông qua
các khoản cho vay tiêu dùng mà quảng cáo về mình, từ đó thu hút các khách

hàng đến với các dịch vụ khác của Ngân hàng. Trong khi đó các khoản tín
dụng tiêu dùng tuy là những khoản tín dụng nhỏ nhưng nhu cầu về chúng lại
rất lớn nên nếu khai thác được thị trường này thì các Ngân hàng thương mại
có thể sử dụng được một số lượng vốn lớn. Hơn nữa, dân cư là khách hàng
tiềm năng lớn của Ngân hàng, để phát triển bền vững thì các ngân hàng cần
phải dựa vào nhóm đối tượng này.
Đối với nền kinh tế
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các sản phẩm, dịch vụ
tiêu dùng ngày càng trở nên phong phú, đa dạng, phù hợp với nhu cầu của
người tiêu dùng. Tuy nhiên, với mức thu nhập như hiện nay, phần lớn người
tiêu dùng không thể chi trả cho tất cả các nhu cầu mua sắm cùng lúc, đặc biệt
là những vật dụng đắt tiền. Nếu người tiêu dùng có thể vay được tiền từ ngân
hàng thì họ có thể thoả mãn được nhu cầu của họ ngay trong hiện tại. Điều đó
làm tăng sự tiêu dùng hàng hoá, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của
các hãng, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, góp phần thúc đẩy
sự phát triển kinh tế chung của toàn xã hội một cách nhanh chóng. Do đó, với
việc thực hiện hoạt động cho vay tiêu dùng có thể thực hiện tốt nhiệm vụ kích
cầu cho nền kinh tế, tạo nên sự hoà hợp giữa Cung & Cầu tiêu dùng tạo điều
kiện cho nền kinh tế phát triển cao hơn.
SV: Hoàng Thị Nhung 8
Luận văn Tốt nghiệp
1.2.Phân loại Cho vay tiêu dùng
Dựa trên các tiêu thức khác nhau ta có thể phân chia CVTD thành nhiều
loại khác nhau.
1.2.1.Căn cứ vào mục đích vay vốn
Nếu căn cứ vào “Mục đích vay vốn” thì CVTD được chia làm hai loại là:
CVTD cư trú và CVTD phi cư trú.
Cho vay tiêu dùng cư trú
Là khoản tín dụng được cấp nhằm tài trợ cho nhu cầu mua, xây dựng, cải
tạo nhà cho khách hàng (cá nhân hay hộ gia đình). Đặc điểm của những món

vay này là quy mô thường lớn, thời gian dài. Việc đánh giá giá trị tài sản tài
trợ có vai trò vô cùng quan trọng đối với ngân hàng. Nếu như trong cho vay
tiêu dùng thông thường thì thu nhập tương lai của người vay là yếu tố quan
trọng để ngân hàng quyết định có cho vay hay không thì trong cho vay nhà ở,
giá trị và tình hình biến động giá của tài sản được tài trợ là yếu tố mà ngân
hàng rất quan tâm. Bởi vì khoản tín dụng tài trợ cho loại tài sản này có giá trị
lớn, nên sự biến động theo hướng không có lợi của nó sẽ dẫn tới những thiệt
hại rất lớn cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng phi cư trú
Đây là những khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống như
mua sắm phương tiện, đồ dùng, du lịch, học hành, y tế hoặc giải trí ... Đặc
điểm của những khoản tín dụng này thường có quy mô nhỏ, thời gian tài trợ
ngắn. Do đó mà mức độ rủi ro đối với ngân hàng là thấp hơn những khoản
cho vay tiêu dùng bất động sản. Đối với loại cho vay này, yếu tố quyết định
cho vay hay không là khả năng trả nợ của người vay, sau đó mới xem xét đến
giá trị tài sản đảm bảo.
1.2.2.Căn cứ theo phương thức hoàn trả
SV: Hoàng Thị Nhung 9
Luận văn Tốt nghiệp
Nếu dựa trên tiêu thức này thì CVTD được phân thành: CVTD trả góp;
CVTD trả một lần và CVTD tuần hoàn .
Trả góp
Hình thức này chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng CVTD của các ngân
hàng bởi tính hợp lý của nó. Theo hình thức này, người đi vay trả nợ cho ngân
hàng (gồm cả gốc và lãi) theo nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định do ngân
hàng qui định (tháng hoặc quý). Hình thức này áp dụng cho các khoản vay có
giá trị lớn hoặc với những khách hàng mà thu nhập định kỳ của họ không đủ
để thanh toán hết số nợ trong một lần.
Khi áp dụng loại cho vay này thì ngân hàng phải quan tâm đến những
vấn đề cơ bản sau :

Loại tài sản được tài trợ
Thông thường, thiện chí của người vay sẽ tốt hơn khi tài sản hình thành
từ tiền vay thoả mãn nhu cầu của họ trong tương lai. Khi lựa chọn tài sản để
tài trợ, ngân hàng thường chú ý đến điều này vì ngân hàng thường chỉ muốn
tài trợ cho nhu cầu mua sắm những tài sản có thời gian sử dụng lâu dài và có
giá trị lớn bởi vì có như vậy người tiêu dùng mới được hưởng những tiện ích
do tài sản đem lại trong một khoảng thời gian dài.
Số tiền phải trả trước
Thông thường ngân hàng sẽ yêu cầu người đi vay phải thanh toán trước
một phần giá trị tài sản cần mua sắm (khoảng 20-30%). Đây là số tiền phải trả
trước, phần còn lại ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền ứng trước này phải đủ lớn
để một mặt làm cho người đi vay nghĩ rằng chính họ là chủ sở hữu tài sản để
họ có thái độ sử dụng tài sản một cách đúng đắn, cẩn thận. Mặt khác, số tiền
này phần nào hạn chế được rủi ro cho ngân hàng.

Điều kiện thanh toán
SV: Hoàng Thị Nhung 10
Luận văn Tốt nghiệp
Khi xác định các khoản liên quan đến việc thanh toán nợ của khách hàng,
ngân hàng phải chú ý một số vấn đề như: Thời hạn cho vay không nên quá dài
nhằm tránh cho việc tài sản tài trợ bị giảm giá trị theo thời gian đi kèm với rủi
ro tín dụng tăng lên; Giá trị của tài sản nợ không được thấp hơn số tiền tài trợ
chưa thu hồi được; Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách
hàng, thông thường là theo tháng, do nguồn trả nợ của người tiêu dùng chủ
yếu là thu nhập nhận được hàng tháng; Số tiền thanh toán mỗi kỳ phải phù
hợp với khả năng thu nhập xét trong mối quan hệ hài hoà với các nhu cầu chi
tiêu khác của khách hàng. Số tiền này có thể được tính bằng các phương pháp
tính lãi đơn hoặc lãi gộp.
Phương pháp lãi đơn
Theo phương pháp này, vốn gốc người đi vay phải trả từng kỳ hạn trả nợ

được tính đều nhau, bằng cách lấy vốn ban đầu chia cho số kỳ hạn thanh toán,
còn lãi phải trả mỗi kỳ hạn được tính trên số tiền khách hàng thực sự còn thiếu.
Phương pháp lãi gộp
Đây là phương pháp thường được áp dụng trong CVTD trả góp. Theo
phương pháp này, trước hết lãi được tính bằng cách: lấy vốn gốc nhân với lãi
suất và thời hạn vay. Sau đó cộng với vốn gốc ban đầu rồi chia cho số kỳ hạn
phải thanh toán để xác định được số tiề phải thanh toán trong mỗi kỳ hạn.
Vấn đề phân bổ lãi theo thời gian
Khi sử dụng phương pháp lãi gộp, các ngân hàng thường tiến hành phân bổ
lại phần lãi cho vay đã được tính. Việc phân bổ có thể được thực hiện theo
định kỳ gắn liền với các kỳ hạn thanh toán hoặc cũng có thể được thực hiện
theo quý hay theo năm tài chính.
Ngân hàng thường áp dụng một số phương pháp như:
Phương pháp đường thẳng ( phân bổ lãi đều nhau), áp dụng cho các
khoản vay ngắn hạn.
SV: Hoàng Thị Nhung 11
Luận văn Tốt nghiệp
Phương pháp luỹ thoái ( phân bổ lãi giảm dần ), áp dụng cho các
khoản vay trung và dài hạn.
Vấn đề trả nợ trước hạn
Khi người vay trả nợ trước hạn, có thể xảy ra một trong hai trường hợp sau:
Nếu tiền trả góp theo phương pháp lãi đơn thì vấn đề rất đơn giản, người
đi vay chỉ phải thanh toán toàn bộ gốc còn thiếu và lãi vay của kỳ hạn hiện tại
cho ngân hàng .
Nếu tiền lãi được tính bằng phương pháp lãi gộp thì vấn đề sẽ phức tạp
hơn vì theo phương pháp này, lãi được tính dựa trên giả định “ Người vay sẽ
sử dụng tiền vay cho đến khi kết thúc hợp đồng tín dụng” .Khi khách hàng trả
nợ trước hạn thì thời hạn khách hàng nợ thực tế khác thời hạn nợ ghi trong
hợp đồng và như vậy số tiền lãi phải trả cũng có sự thay đổi. Khi đó, ngân
hàng sẽ phải sử dụng phương pháp “Phân bổ lãi cho vay theo thời gian”, dựa

trên thời hạn nợ thực tế để tính số lãi thực tế phải thu.
Trả một lần
Đây là hình thức tài trợ mà theo đó số tiền đi vay của khách hàng sẽ
được thanh toán một lần khi hợp đồng tín dụng đến hạn. Đặc điểm của khoản
tín dụng này thường là có qui mô nhỏ và thời hạn vay ngắn. Hình thức cho
vay này được ngân hàng áp dụng vì nó giúp ngân hàng không mất nhiều thời
gian như khi ngân hàng tiến hành thu nợ làm nhiều kỳ. Tuy nhiên, người tiêu
dùng lại không ưa thích hình thức này do nó không có tính hợp lý như hình
thức CVTD trả góp nên trong thực tế những khoản CVTD cấp theo hình thức
này không nhiều.
Tuần hoàn
Đây là các khoản CVTD, trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử
dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành séc thấu chi dựa trên tài khoản vãng
SV: Hoàng Thị Nhung 12
Luận văn Tốt nghiệp
lai.Theo phương pháp này thì trong thời hạn tín dụng được thoả thuận trước,
căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được
ngân hàng cho phép thực hiện việc cho vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần
hoàn, theo một hạn mức tín dụng. Trong tất cả các lãi suất cho vay tiêu dùng,
thì CVTD tuần hoàn có mức lãi suất cao nhất bởi những khoản cho này không
được đảm bảo và chi phí để điều hành tín dụng tuần hoàn tương đối.
1.2.3. Căn cứ vào hình thức đảm bảo tiền vay
Nếu căn cứ vào hình thức đảm bảo tiền vay thì CVTD được phân làm 3
loại: cầm đồ; thế chấp lương; Và đảm bảo tài sản hình thành từ vốn vay.
Cầm đồ
Là hình thức cho vay, trong đó, ngân hàng cho khách hàng vay để nhằm
mục đích tiêu dùng nhưng ngân hàng sẽ giữ tài sản của khách hàng để đảm
bảo các nghĩa vụ của khách hàng. Danh mục các loại tài sản và điều kiện các
loại tài sản được cầm đồ được ngân hàng qui định cụ thể dựa trên cơ sở qui
định của pháp luật và chính sách tín dụng của ngân hàng.

Thế chấp lương
Cho vay thế chấp lương thường được áp dụng cho khách hàng có việc
làm ổn định, thu nhập ổn định, ngoài các khoản chi tiêu thường xuyên hàng
tháng thì còn một phần tích luỹ để trả nợ vay. Số tiền ngân hàng cho khách
hàng vay được xác định dựa trên nhu cầu muốn vay & thu nhập thường xuyên
của khách hàng. Do đó, khi xét duyệt cho vay, ngân hàng cần thu thập đủ
thông tin về các thu nhập khác nhau cũng như các khoản chi tiêu khác thường
xuyên của khách hàng.
Đảm bảo tài sản hình thành từ tiền vay
Nó thường được áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay tiêu dùng để
mua các tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài. Dựa vào khả năng tài
SV: Hoàng Thị Nhung 13
Luận văn Tốt nghiệp
chính và trả nợ của khách hàng, giá trị tài sản cần mua sắm ngân hàng sẽ
quyết định mức cho vay thích hợp, thông thường mức cho vay tối đa của ngân
hàng là khoảng 70 % - 80 % giá trị tài sản cần mua.
1.2.4.Căn cứ vào phương thức cho vay giữa ngân hàng và khác hàng vay vốn
Theo tiêu thức này, CVTD được phân làm hai loại là: Cho vay trực tiếp
và Cho vay gián tiếp.
Cho vay trực tiếp
Đây là hình thức cho vay, trong đó ngân hàng tiếp xúc trực tiếp với
khách hàng của mình, việc thu nợ cũng được tiến hành trực tiếp bởi chính
ngân hàng. CVTD trực tiếp thường được thể hiện theo sơ đồ sau:

Trong đó:
(1). Ngân hàng và người tiêu dùng ký HĐTD với nhau
(2). Người tiêu dùng trả trước cho công ty bán lẻ một phần số tiền mua hàng
Hoá của mình.
(3). Ngân hàng thanh toán số tiền còn thiếu cho công ty bán lẻ.
(4). Công ty bán lẻ giao hàng cho người tiêu dùng.

(5). Người tiêu dùng thanh toán số tiền vay cho ngân hàng.
Hình thức cho vay tín dụng trực tiếp tồn tại cả ưu điểm và nhược điểm.
Ưu điểm
SV: Hoàng Thị Nhung 14
Ngân hàng Công ty bán lẻ
Người tiêu dùng
(1) (2) (4)(5)
(3)
Luận văn Tốt nghiệp
Hình thức này rất linh hoạt vì có sự đàm phán trực tiếp giữa ngân hàng
và khách hàng, quyết định có vay hay không hoàn toàn do ngân hàng quyết
định, ngoài ra, ngân hàng có thể sử dụng triệt để trìng độ kiến thức, kinh
nghiệm của CBTD để tìm kiếm các khoản cho vay có chất lượng; Hơn nữa
khi khách hàng quan hệ trực tiếp với ngân hàng, có nhiều khả năng khách
hàng sẽ sử dụng thêm các dịch vụ khác cuả ngân hàng như: dịch vụ chuyển
tiền, mở tài khoản tiền gửi tiết kiệm…Và như vậy, quan hệ giữa ngân hàng và
khách hàng được mở rộng.
Nhược điểm
Ngân hàng sẽ gặp nhiều rủi ro nếu ngân hàng không có quan hệ tốt với
công ty bán lẻ. Trong thực tế có nhiều trường hợp đã có sự câu kết giữa người
tiêu dùng và công ty bán lẻ nhằm tăng giá trị của tài sản mua sắm.Giá trị giả
này lớn hơn giá trị thực của tài sản mua sắm nên số tiền còn thiếu mà ngân
hàng thanh toán cho công ty bán lẻ cũng cao hơn. Do đó, nếu có rủi ro, người
người tiêu dùng không trả nợ được cho ngân hàng, trong nhiều trường hợp
Ngân hàng phải phát mãi tài sản này, khi đó giá trị mà ngân hàng thu được
nhỏ hơn giá trị mà ngân hàng đã bỏ ra lúc đầu.
Cho vay gián tiếp
Là hình thức cho vay, trong đó ngân hàng mua những khoản nợ phát sinh
do những Công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay dịch vụ cho người tiêu
dùng.

Giữa ngân hàng và công ty bán lẻ sẽ ký kết một Hợp đồng mua bán nợ,
trong đó ngân hàng sẽ đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán
chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại sản phẩm được bán chịu.
CVTD gián tiếp thường được biểu hiện qua sơ đồ sau:
SV: Hoàng Thị Nhung 15
Luận văn Tốt nghiệp

Trong đó:
(1). Ngân hàng và công ty bán lẻ ký hợp đồng mua bán nợ.
(2). Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết một hợp đồng mua bán chịu
(3). Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(4). Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu cho ngân hàng.
(5). Ngân hàng thanh toán tiền cho các công ty bán lẻ.
(6). Người tiêu dùng thanh toán tiền cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có thể được thực hiện thông qua các phương
thức sau:
Tài trợ truy đòi toàn bộ
Theo phương thức này, khi bán cho ngân hàng các khoản nợ mà người
tiêu dùng đã mua chịu, công ty bán lẻ cam kết sẽ thanh toán cho ngân hàng
toàn bộ các khoản nợ nếu khi đến hạn người tiêu dùng không thanh toán được
cho ngân hàng. Với phương thức này, các công ty bán lẻ buộc phải quan tâm
đến chất lượng các khoản bán chịu, còn các ngân hàng có ít rủi ro hơn.

SV: Hoàng Thị Nhung 16
Ngân hàng Công ty bán lẻ
Người tiêu dùng
(1)
(4)
(5)
(6) (2) (3)

Luận văn Tốt nghiệp
Tài trợ truy đòi hạn chế
Theo phương thức này, trách nhiệm của công ty bán lẻ đối với các khoản
nợ của khách hàng mua chịu không thanh toán chỉ giới hạn trong một chừng
mực nhất định, phụ thuộc vào các điều khoản đã thoả thuận giữa Công ty bán
lẻ và ngân hàng trong Hợp đồng mua bán nợ.
Tài trợ miễn truy đòi
Theo phương thức này, sau khi bán các khoản nợ cho ngân hàng, Công
ty bán lẻ không còn chịu trách nhiệm cho việc liệu người tiêu dùng có thanh
toán nợ cho ngân hàng hay không? Với ngân hàng, phương thức này chứa
nhiều rủi ro nên chi phí của khoản vay này được ngân hàng tính cao hơn so
với các phương thức trên và những khoản nợ được mua cũng được ngân hàng
lựa chọn rất kỹ. Ngoài ra, chỉ có những có những công ty bán lẻ rất có uy tín
với ngân hàng mới được áp dụng phương thức này.
Tài trợ có mua lại
Theo phương thức này, khi thực hiện CVTD gián tiếp với hình thức “Tài
trợ miễn truy đòi” hoặc “ Tài trợ truy đòi hạn chế”, nếu rủi ro xảy ra, người
tiêu dùng không thanh toán được nợ cho ngân hàng thì ngân hàng buộc phải
thanh lý tài sản để thu hồi nợ. Trong trường hợp này, nếu có thoả thuận trước
thì ngân hàng có thể bán lại cho chính Công ty bán lẻ phần nợ mình chưa
được thanh toán, kèm theo tài sản đã được người tiêu dùng sử dụng trong một
thời gian. Phương thức này phù hợp với các công ty bán lẻ mạnh về tài chính
và có trách nhiệm.Với phương thức này, Công ty bán lẻ ít có rủi ro hơn so với
phương thức “Tài trợ truy đòi hoàn toàn”.
So với phương thức CVTD trực tiếp thì CVTD gián tiếp có những ưu
điểm và nhược điểm như sau:
SV: Hoàng Thị Nhung 17
Luận văn Tốt nghiệp
Ưu điểm
Theo hình thức này, ngân hàng sẽ có điều kiện tiếp xúc được với một

lượng khách hàng khá đông đảo, khắc phục được tâm lý e ngại của họ khi tìm
đến với ngân hàng. Điều đó, giúp ngân hàng tiết kiệm được chi phí trong việc
cấp tín dụng vì ngân hàng chỉ phải ký hợp đồng với chính công ty bán lẻ mà
thôi. Việc cấp tín dụng kiểu này cũng giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro. Bởi,
khi mà ngân hàng có quan hệ tốt với công ty bán lẻ hoặc hợp đồng ký với
công ty bán lẻ có những điều kiện ràng buộc (được truy đòi), thì khi người
tiêu dùng không thanh toán cho ngân hàng, ngân hàng có quyền truy đòi công
ty bán lẻ về khoản nợ trên (có được nguồn thu nợ thứ hai cho ngân hàng). Mặt
khác, khi đã có hợp đồng ràng buộc thì công ty bán lẻ cũng phải cân nhắc
trước quyết định có bán chịu hàng hoá cho người tiêu dùng hay không (gián
tiếp giúp ngân hàng thẩm định khách hàng).
Nhược điểm
Bên cạnh những ưu điểm trên thì hình thức này cũng bộc lộ những
nhược điểm sau: Ngân hàng không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng đã được
nhà cung cấp bán chịu hàng hoá, do đó mà không thể nắm được tình hình thực
tế của khách hàng mà ngân hàng tài trợ, ngân hàng cũng phải đối mặt với tình
trạng công ty bán lẻ chỉ vì muốn bán được hàng mà đã không xem xét kỹ
lưỡng về khách hàng khi thẩm định. Mặt khác, ngân hàng còn phải chịu rủi ro
khi người tiêu dùng không thanh toán khoản vay cho ngân hàng, trong khi
hợp đồng giữa ngân hàng và công ty bán lẻ lại không có điều khoản được truy
đòi mặc dù đây chỉ là hi hữu. Bởi, chỉ những nhà cung cấp thật sự tin cậy thì
ngân hàng mới ký hợp đồng kiểu này, và những khoản nợ được mua theo điều
kiện này cũng được lựa chọn rất kỹ càng.
SV: Hoàng Thị Nhung 18
Luận văn Tốt nghiệp
1.3. Các nhân tố tác động đến Cho vay tiêu dùng
Có nhiều nhân tố tác động đến CVTD, nhưng ta có thể chia các nhân tố
này thành hai nhóm nhân tố chính là: Nhóm nhân tố khách quan và nhóm
nhân tố chủ quan.
1.3.1.Nhóm các nhân tố khách quan

Đây là nhóm nhân tố mà bản thân Ngân hàng không kiểm soát được, nó
gồm có các nhân tố sau: Môi trường kinh tế; Môi trường pháp lý; Môi trường
xã hội và các chính sách của Nhà nước.
Môi trường kinh tế
Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động ngân hàng nói chung và
hoạt động CVTD nói riêng. Nó có thể là điều kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt
động CVTD hoặc ngược lại. Môi trường kinh tế bao gồm: Trình độ phát triển
kinh tế; Thu nhập bình quân trên đầu người; Tỷ lệ xuất-nhập khẩu; Tỷ lệ lạm
phát…
Chúng ta đã biết, nhu cầu tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ của dân cư phụ
thuộc rất lớn vào tình trạng của nền kinh tế. Khi nền kinh tế đang trong giai
đoạn phát triển, hưng thịnh, tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, mức sống của
dân cư ngày càng cao thì nhu cầu tiêu dùng sẽ tăng, bởi vì họ tin tưởng vào
thu nhập của mình trong tương lai có thể chi trả được các khoản nợ. Vì vậy,
hoạt động CVTD của ngân hàng trong giai đoạn này sẽ tăng lên. Ngược lại,
khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, không ổn định thì nhu cầu chi tiêu
sẽ giảm, do lúc này người dân có xu hướng tích luỹ hơn là tiêu dùng, bởi vậy
CVTD trong thời kỳ này sẽ giảm.
Môi trường pháp lý
Mỗi một chủ thể trong xã hội đều có quyền tự do làm theo ý thích của
mình, việc họ muốn làm gì, muốn mua gì là phụ thuộc vào bản thân của họ,
song phải trong khuôn khổ mà pháp luật của quốc gia đó cho phép. Vì vậy,
các hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động CVTD nói riêng cũng
SV: Hoàng Thị Nhung 19
Luận văn Tốt nghiệp
nằm trong phạm vi khuôn khổ của pháp luật, nó cũng phải tuân theo những
qui định của Nhà nước, luật các tổ chức ín dụng, luật dân sự và các qui định
khác. nếu những qui định của pháp luật không rõ ràng, không đồng bộ, không
kịp thời và còn nhiều kẽ hở thì sẽ gây rất nhiều khó khăn cho NHTM.
Ngược lại, nếu những văn bản pháp luật qui định rõ ràng, đầy đủ, đồng

bộ và kịp thời thì sẽ tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc, góp phần vào sự
phát triển của hệ thống ngân hàng, tăng khả năng cạnh tranh lành mạnh giữa
các NHTM và đó cũng là cơ sở pháp lý để ngân hàng giải quyết các khiếu nại,
tố cáo khi có các tranh chấp xảy ra khi ngân hàng thực hiện các hoạt động của
mình.

Môi trường văn hoá - xã hội
Nhân tố này gồm có: Tập quán; Trình độ dân trí; Lối sống; Thói quen…
nó ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi của khách hàng. Và do vậy, nó cũng ảnh
hưởng đến hoạt đông CVTD và các hoạt động khác của ngân hàng. Chẳng
hạn, nếu một ngân hàng có áp dụng dịch vụ CVTD trong khu vực có trình độ
dân trí thấp, kiến thức về ngân hàng hầu như không có; nhu cầu mua sắm, tiêu
dùng không cao thì dịch vụ CVTD và các hoạt động khác của ngân hàng rất
chậm phát triển. Nhưng cũng chính ngân hàng này nếu được xây dựng trong
khu vực có trình độ dân trí cao, thu nhập đầu người của dân cư lớn, nhu cầu
mua sắm- chi tiêu lớn, họ hiểu và sử dụng thường xuyên các dịch vụ của ngân
hàng thì không chỉ dịch vụ CVTD mà cả các dịch vụ khác của ngân hàng
cũng sẽ phát triển.
Chủ trương chính sách của Nhà nước
Đây là những chính sách mang tầm vĩ mô và thường có thời gian thực
hiện tương đối dài. Các chính sách này cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến CVTD.
Chẳng hạn, khi Nhà nước tăng mức đầu tư cho nền kinh tế và tăng thu hút đầu
tư nước ngoài bằng các chính sách khuyến khích đầu tư ( Sự giản đơn về thủ
SV: Hoàng Thị Nhung 20
Luận văn Tốt nghiệp
tục giấy tờ, ưu đãi thuế…)…Tất cả những điều này sẽ tạo điều kiện cho sự
phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế - xã hội; GDP sẽ tăng; Tỷ lệ thất
ngiệp giảm; Mức thu nhập của người lao động tăng, qua đó làm tăng nhu cầu
tiêu dùng. Cùng với nó là các chính sách về Thuế thu nhập; Thuế về hàng
hoá, dịch vụ; các chương trình ưu đãi hỗ trợ phát triển, xoá đói, giảm nghèo;

Phát triển kinh tế vùng sâu, vùng xa, hải đảo…Những yếu tố như thế đều có
tác động về trước mắt và lâu dài đến cầu tiêu dùng của người dân. Do đó, nó
ảnh hưởng mạnh mẽ đến dịch vụ CVTD của các NHTM.
1.3.2. Nhóm các nhân tố chủ quan
Việc mở rộng hoạt động CVTD không chỉ chịu tác động bởi các nhân tố
khách quan mà nó còn chịu tác động bởi các nhân tố chủ quan. Những nhân tố
này xuất phát từ chính bản thân của ngân hàng nên ngân hàng có thể chi phối
được.
Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng bao gồm: Các yếu tố giới hạn mức cho vay đối với
khách hàng; Kỳ hạn của khoản tín dụng; Mức lãi suất cho vay; Mức lệ phí;
hướng giải quyết những khoản nợ khó đòi …
Nếu tất cả những yếu tố trên đều đúng đắn, hợp lý và linh hoạt, đáp ứng
nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng thì chắc chắn ngân hàng sẽ thành công
trong việc mở rộng hoạt động tín dụng nói chung và CVTD nói riêng. Ngược
lại, với chính sách tín dụng cứng nhắc, kém linh hoạt thì sẽ hạn chế hoạt động
tín dụng, giảm tính cạnh tranh trong hoạt động giữa các ngân hàng.
Quy trình cấp tín dụng
Quy trình cấp tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, các qui định của ngân
hàng trong việc cấp tín dụng, gồm các bước cụ thể theo một trình tự nhất định
kể từ khi nhận hồ sơ đề nghị cấp tín dụng cho đến khi chấm dứt quan hệ tín
dụng. Việc xây dựng một qui trình tín dụng hoàn thiện và hiệu quả có ý nghĩa
SV: Hoàng Thị Nhung 21
Luận văn Tốt nghiệp
rất lớn trong công tác ngăn ngừa và hạn chế rủi ro xảy ra, đồng thời nó còn
gây được cảm tình với khách hàng, nhờ đó thu hút được nhiều khách hàng hơn.
Thông tin tín dụng
Có thể nói, hoạt động chính của ngân hàng là đi vay và cho vay. Trong
đó, hoạt động cho vay phụ thuộc vào lòng tin của ngân hàng đối với khách
hàng. Do vậy, để hoạt động cho vay nói chung và CVTD nói riêng được mở

rộng với chất lượng cao, hiệu quả lớn thì ngân hàng phải nắm bắt được thông
tin một cách kịp thời và chính xác về khách hàng vay vốn. Gồm có:
Các thông tin tài chính của khách hàng: Khả năng về tài chính của
khách hàng, thu nhập hiện tại, khả năng trả nợ và bảo đảm tín dụng…
Các thông tin phi tài chính của khách hàng: Tư cách, uy tín, các mối quan hệ
xã hội…
Các thông tin gián tiếp: tình hình kinh tế xã hội, thông tin về xu hướng
phát triển và khả năng cạnh tranh của các NHTM khác .
Chất lượng cán bộ và cơ sở vật chất thiết bị
Có thể khẳng định rằng, việc mở rộng hoạt động CVTD có thành công
hay không phụ thuộc phần lớn vào trình độ cán bộ, nhân viên và cơ sở vật
chất, trang thiết bị của ngân hàng. Dưới con mắt của khách hàng thì cán bộ,
nhân viên ngân hàng chính là hình ảnh của ngân hàng. Nếu như trong quá
trình giao tiếp với cán bộ, nhân viên ngân hàng mà khách hàng cảm thấy an
toàn về trình độ nghiệp vụ của các cán bộ và cảm thấy an toàn khi giao dịch
với ngân hàng thì chắc chắn khách hàng sẽ tìm đến đó. Đồng thời, việc ngân
hàng trang bị đầy đủ các thiết bị tiên tiến, phù hợp với phạm vi và qui mô
hoạt động để phục vụ chính xác, nhanh chóng các yêu cầu của khách hàng thì
sẽ giúp ngân hàng có khả năng cạnh tranh và thực hiện việc mở rộng các hoạt
động của ngân hàng, trong đó có hoạt động CVTD
SV: Hoàng Thị Nhung 22
Luận văn Tốt nghiệp
Chương II
THỰC TRẠNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI SỞ GIAO
DỊCH I - NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
2.1.Khái quát về Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển
Trước năm 1988, Ngân hàng Công thương là một bộ phận của Ngân
hàng Nhà nước có chức năng thực hiện nhiệm vụ tín dụng với các đơn vị
kinh doanh Công-Thương nghiệp. Sau năm 1988,hệ thống Ngân hàng Việt

Nam chuyển từ một cấp sang hệ thống Ngân hàng hai cấp, có sự phân tách
giữa chức năng quản lý và kinh doanh.
Ngày 01/07/1988 Ngân hàng Công thương Việt Nam ra đời và đi vào
hoạt động trên cơ sở Vụ tín dụng Công nghiệp và Vụ tín dụng Thương nghiệp
của Ngân hàng Nhà nước Trung ương cùng với các phòng tín dụng Công
nghiệp, tín dụng thương nghiệp của 17 chi nhánh Ngân hàng Nhà nước địa
phương nhằm tăng cường tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác
hoá kinh doanh để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao, nâng cao khả năng
hiệu quả của các đơn vị thành viên và đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.
Tên giao dịch quốc tế của ngân hàng là : INDUSTRIAL AND
COMMERCIAL BANK OF VIÊT NAM ( gọi tắt là INCOMBANK)
Đến nay, sau gần 20 năm hoạt động hệ thống Ngân hàng Công thương
Việt Nam gồm có: 2 Sở giao dịch; 137 chi nhánh; 158 phòng giao dịch; 144
điểm giao dịch; 287 Quỹ tiết kiệm và hơn 500 máy ATM; 1 Trung tâm công
nghệ thông tin và 1 Trung tâm đào tạo ở hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả
nước. Nguồn nhân lực lớn với trình độ khá cao, có15.000 cán bộ công nhân
viên, trong đó trình độ Đại học và trên Đại học chiếm 50% số còn lại là được
đào tạo qua các trường Cao đẳng và Trung cấp Ngân hàng.
SV: Hoàng Thị Nhung 23
Luận văn Tốt nghiệp
Năm 1988, Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra quyết định
số 198/NH - TCCB về việc thành lập chi nhánh Ngân hàng Công thương
thành phố Hà Nội.
Ngày 24/03/1993, Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam ra
quyết định số 93/NHCT-TCCB về việc chuyển các hoạt động tại hội sở chi
nhánh Ngân hàng Công thương Thành phố Hà Nội thành Hội sở chính Ngân
hàng Công thương Việt Nam.
Ngày 30/03/1998, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Công thương Việt Nam ký
quyết định số 134/QĐ-HĐQT-NHCT I sắp xếp tổ chức hoạt động Sở giao
dịch I theo điều lệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Công thương Việt

Nam. Sở giao dịch là đơn vị hoạch toán phụ thuộc Ngân hàng Công thương
Việt Nam, có con dấu riêng,có tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước và các
Ngân hàng khác, có trụ sở riêng đặt tại số 10 Lê Lai - Hoàn Kiếm - Hà Nội.
Với số nhân viên là 280 người trong đó trình độ từ Đại học và trên Đại
học chiếm 70 %. Số còn lại được đào tạo qua các trường Cao đẳng và Trung
cấp Ngân hàng.
2.1.2.Nghĩa vụ và Quyền hạn
Nghĩa vụ
Sử dụng vốn có hiệu quả, bảo toàn, phát triển vốn và các nguồn lực của
NHCT Việt Nam. Tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh đảm bảo an toàn,
hiệu quả, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện nghĩa vụ về tài chính
theo quy định của pháp luật và của NHCT Việt Nam.
Quyền hạn
Nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán của các Tổ chức kinh tế
(TCKT) và dân cư trong nước và ngoài nước bằng VND và ngoại tệ. Phát
hành các loại chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng và
các hình thức huy động vốn khác phục vụ hoạt động kinh doanh. Cho vay
SV: Hoàng Thị Nhung 24
Luận văn Tốt nghiệp
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng VND và ngoại tệ đối với các TCKT và
cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế theo cơ chế tín dụng của NHNN và
NHCT Việt Nam.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức và chức năng của các phòng ban
Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam
được khái quát bằng sơ đồ 2.1.
Chức năng các phòng ban
Phòng khách hàng 1 (Doanh nghiệp lớn )
Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh
nghiệp lớn, để khai thác vốn bằng VND và ngoại tệ; Thực hiện các nghiệp vụ

liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể
chế, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NHCT Việt Nam. Trực tiếp quảng
cáo, tiếp thị và bán sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các doanh nghiệp lớn.
Phòng khách hàng 2 (Doanh nghiệp vừa và nhỏ)
Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ để khai thác vốn bằng VND và ngoại tệ, thực hiện các
nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với
chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NHCT Việt Nam. Trực tiếp quảng
cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
SV: Hoàng Thị Nhung 25

×