Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản và tác động của nó đến sự phát triển xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.09 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU..........................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TƯ BẢN VÀ SỰ ĐIỀU
CHỈNH CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN.......................................................2
1.1. Lý luận về chủ nghĩa tư bản............................................................2
1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa tư bản........................................................2
1.1.2. Các hình thái của chủ nghĩa Tư bản............................................2
CHƯƠNG II: NHỮNG NÉT MỚI VÀ ẢNH HƯỞNG CUA SỰ ĐIỀU
CHỈNH CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI.......7
2.1. Những nét mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện
đại..............................................................................................................7
2.1.1. Sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất..............................7
2.1.2. Nền kinh tế đang có xu hướng chuyển từ kinh tế công nghiệp
sang kinh tế tri thức...............................................................................7
2.1.3. Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp..............8
2.1.4. Thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có
những biến đổi lớn.................................................................................9
2.1.5. Điều tiết vĩ mơ của nhà nước ngày càng được tăng cường.......10
2.1.6. Các công ty xun quốc gia có vai trị ngày càng quan trọng
trong hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, là lực lượng chủ yếu thúc đẩy
tồn cầu hóa kinh tế.............................................................................10
2.1.7. Điều tiết và phối hợp quốc tế được tăng cường........................11
2.2. Ảnh hưởng của sự vận động của chủ nghĩa tư bản đến sự phát
triển của Xã hội.....................................................................................12
i


2.2.1. Thay đổi quan hệ sản xuất xã hội..............................................12
2.2.2. Đa dạng hóa cơ cấu xã hội, giai cấp..........................................14
2.2.3. Tác động đến các quan hệ kinh tế và sự phát triển kinh tế........14


2.2.4. Tồn cầu hóa.............................................................................16
2.3. Nhận định chung về sự thay đổi trong chủ nghĩa Tư bản hiện
nay...........................................................................................................17
2.3.1. Một số điểm đạt được trong Xã hội chủ nghĩa tư bản...............17
2.3.2. Một số tồn tại trong Xã hội Tư bản mới....................................18
KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ.........................................................................25
Kết luận..................................................................................................25
Kiến nghị................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................27

ii


PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trong lịch sử hơn 400 năm từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa tư bản đã
trải qua nhiều giai đoạn phát triển, từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đến
chủ nghĩa tư bản độc quyền, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và ngày
nay là chủ nghĩa tư bản hiện đại trong thời đại tồn cầu hóa. Trong mọi giai
đoạn phát triển, chủ nghĩa tư bản đều mang trong mình những thuộc tính
chung, cơ bản, tạo nên bản chất của chủ nghĩa tư bản, phân biệt chủ nghĩa tư
bản với các chế độ xã hội khác (hay các hình thái kinh tế - xã hội khác). Đồng
thời, trong mỗi giai đoạn phát triển, chủ nghĩa tư bản lại có những đặc điểm
riêng, những biểu hiện mới cả trong lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
cả trong cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại có đặc điểm lớn so với tất cả các giai đoạn
phát triển trước đây là trình độ phát triển rất cao của lực lượng sản xuất, trình
độ khoa học công nghệ rất cao của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. Các
nước tư bản phát triển, như Mỹ, các nước Tây Âu, Nhật Bản là những nước đi
đầu trong nghiên cứu phát triển và ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ
của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba và cuộc cách mạng công nghiệp

lần thứ tư; đi đầu trong các lĩnh vực điện tử, tin học, thơng tin, viễn thơng,
phát triển Internet, trí tuệ nhân tạo, công nghệ vật liệu mới, năng lượng mới,
công nghệ sinh học... làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất, chất lượng,
hiệu quả của những ngành kinh tế truyền thống và tạo nên nhiều ngành, lĩnh
vực, nhiều sản phẩm mới, cơng nghệ cao, có giá trị gia tăng, mức cạnh tranh
cao. Do đó qua q trình học tập và tìm hiểu, tác giả đã chọn đề tài “ Sự điều
chỉnh của chủ nghĩa tư bản và tác động của nó đến sự phát triển xã hội”.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TƯ BẢN VÀ SỰ
ĐIỀU CHỈNH CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
1.1. Lý luận về chủ nghĩa tư bản
1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa tư bản là một hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu tư
nhân đối với tư liệu sản xuất và hoạt động sản xuất vì lợi nhuận. Các đặc điểm
đặc ́trưng của chủ nghĩa tư bản bao gồm: tài sản tư nhân, tích lũy tư bản, lao
động tiền lương, trao đổi tự nguyện, một hệ thống giá cả và thị trường cạnh
tranh. Trong nền kinh tế thị trường tư bản, việc điều hành và đầu tư được
quyết định bởi chủ sở hữu tài sản, tư liệu sản xuất hoặc khả năng sản xuất
trong thị trường tài chính, trong khi giá cả, phân phối hàng hóa và dịch vụ chủ
yếu được quyết định bởi sự cạnh tranh trong thị trường hàng hóa và dịch vụ.
Chủ nghĩa tư bản xuất hiện đầu tiên tại châu Âu và phát triển từ trong
lòng xã hội phong kiến châu Âu và chính thức được xác lập như một hình thái
xã hội tại Hà Lan và Anh ở thế kỷ XVII. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ
XVIII, hình thái chính trị của "nhà nước tư bản chủ nghĩa" dần dần chiếm ưu
thế hoàn toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước của chế độ phong
kiến, q tộc. Và sau này hình thái chính trị – kinh tế – xã hội tư bản chủ

nghĩa lan ra khắp châu Âu và thế giới.
1.1.2. Các hình thái của chủ nghĩa Tư bản
Có nhiều biến thể của chủ nghĩa tư bản tồn tại khác nhau tùy theo quốc
gia và khu vực. Chúng thay đổi trong từng thể chế và theo chính sách kinh tế
của mỗi quốc gia. Các đặc điểm chung của các hình thái chủ nghĩa tư bản là
chúng đều dựa trên việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ vì lợi nhuận, phần lớn
phân bổ nguồn lực dựa trên thị trường và được kết cấu khi tích lũy vốn. Các
hình thức chủ nghĩa tư bản chủ yếu được liệt kê dưới đây:
2


Chủ nghĩa tư bản tiên tiến
Chủ nghĩa tư bản tiên tiến là tình huống liên quan đến một xã hội mà
trong đó mơ hình tư bản đã được tích hợp và phát triển sâu và rộng rãi trong
một thời gian dài. Nhiều nhà văn khác nhau xác định Antonio Gramsci là một
nhà lý thuyết đầu tiên có ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản tiên tiến, ngay cả
khi ông không sử dụng thuật ngữ đó. Trong các tác phẩm của mình, Gramsci
tìm cách giải thích cách chủ nghĩa tư bản đã thích nghi để tránh sự lật đổ cách
mạng mà dường như không thể tránh khỏi trong thế kỷ 19. Ttong lời giải
thích của ơng là sự suy giảm của sự ép buộc thô như một công cụ của quyền
lực lớp, được thay thế bằng cách sử dụng các tổ chức xã hội dân sự để vận
dụng ý thức hệ cơng chúng.
Jürgen Habermas là một người đóng góp chính cho việc phân tích các
xã hội tư bản tiên tiến. Habermas quan sát bốn đặc điểm chung mô tả chủ
nghĩa tư bản tiên tiến:
 Tập trung hoạt động công nghiệp tại một số doanh nghiệp lớn.
 Liên tục phụ thuộc vào nhà nước để ổn định hệ thống kinh tế.
 Một chính phủ dân chủ chính thức hợp pháp hố các hoạt động
của nhà nước và loại bỏ sự phản đối.
 Việc tăng sử dụng tiền lương danh nghĩa để làm hài lòng các lực

lượng lao động.
Chủ nghĩa tư bản tài chính
Trong loạt các phê phán chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa Mác và Lênin
nhấn mạnh vai trò của "Tư bản tài chính" là đã được cầm quyền quan tâm
trong xã hội tư bản, đặc biệt là trong các giai đoạn sau này.
Rudolf Hilferding được ghi nhận: Mẫu đơn đầu tiên mang khái niệm
"chủ nghĩa tư bản tài chính" vào Tài chính vốn, nghiên cứu năm 1910 về mối
liên hệ giữa tín thác Đức, ngân hàng và độc quyền - một nghiên cứu được
3


Vladimir Lenin đưa vào chủ nghĩa đế quốc. Chủ nghĩa tư bản (1917), phân
tích của ơng về các quan hệ đế quốc của các cường quốc thế giới vĩ đại. Đối
với Comintern (thành lập năm 1919), cụm từ "chế độ độc tài chủ nghĩa tư bản
tài chính" đã trở thành bình thường.
Fernnand Braudel sau đó sẽ chỉ ra hai giai đoạn trước khi chủ nghĩa tư
bản tài chính xuất hiện trong lịch sử loài người - với người Genova trong thế
kỷ 16 và với người Hà Lan trong thế kỷ 17 và 18 - mặc dù ở những thời điểm
đó, nó phát triển từ chủ nghĩa tư bản thương mại. Giovanni Arrighi mở rộng
phân tích của Braudel cho thấy rằng ưu thế của chủ nghĩa tư bản tài chính là
một hiện tượng định kỳ, dài hạn, bất cứ khi nào giai đoạn trước của việc mở
rộng tư bản thương mại / công nghiệp đạt đến một cao nguyên.
Chủ nghĩa trọng thương
Chủ nghĩa trọng thương là một hình thức chủ nghĩa dân tộc của chủ
nghĩa tư sớm ra đời khoảng vào cuối thế kỷ thứ 16. Nó được đặc trưng bởi sự
gắn bó giữa lợi ích kinh doanh quốc gia với lợi ích của nhà nước và chủ nghĩa
đế quốc; và do đó, bộ máy nhà nước được sử dụng để thúc đẩy lợi ích kinh
doanh quốc gia ở nước ngồi. Một ví dụ về việc này là những người sống tại
Hoa Kỳ, những người chỉ được phép buôn bán và mua hàng hóa từ các quốc
gia mẹ đẻ của họ (ví dụ: Anh, Bồ Đào Nha và Pháp). Chủ nghĩa trọng thương

đã được thúc đẩy bởi niềm tin rằng sự giàu có của một quốc gia được tăng lên
thơng qua một sự cân bằng tích cực của thương mại với các quốc gia khác, nó
tương ứng với giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa đôi khi được gọi là sự tích
lũy vốn nguyên thủy.
Kinh tế thị trường tự do
Nền kinh tế thị trường tự do đề cập đến một hệ thống kinh tế tư bản nơi
giá cả hàng hóa và dịch vụ được đặt tự do bởi lực cung và cầu và được phép
đạt đến điểm cân bằng mà khơng có sự can thiệp của chính sách của chính
phủ. Nó thường địi hỏi sự hỗ trợ cho các thị trường cạnh tranh cao và sở hữu
4


tư nhân của các doanh nghiệp sản xuất. Laissez-faire là một hình thức kinh tế
thị trường tự do rộng lớn hơn, nơi vai trò của nhà nước bị hạn chế trong việc
bảo vệ quyền sở hữu.
Kinh tế thị trường xã hội
Một nền kinh tế thị trường xã hội là hệ thống thị trường tự do danh
nghĩa, nơi mà sự can thiệp của chính phủ vào việc hình thành giá được giữ ở
mức tối thiểu, nhưng tiểu bang cung cấp các dịch vụ quan trọng trong lĩnh
vực an sinh xã hội, trợ cấp thất nghiệp và công nhận quyền lao động thông
qua thỏa thuận thương lượng tập thể quốc gia. Mô hình này nổi bật ở các
nước phương Tây và Bắc Âu cũng như Nhật Bản, mặc dù có cấu hình hơi
khác nhau. Phần lớn các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân trong mơ hình
kinh tế này.
Chủ nghĩa tư bản Rhine đề cập đến mơ hình hiện đại của chủ nghĩa tư
bản và sự thích ứng của mơ hình thị trường xã hội tồn tại ở lục địa Tây Âu
ngày nay.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước
Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một nền kinh tế thị trường tư bản thống
trị bởi các doanh nghiệp nhà nước, nơi mà các doanh nghiệp nhà nước được

tổ chức thành các doanh nghiệp thương mại, tìm kiếm lợi nhuận. Việc chỉ
định đã được sử dụng rộng rãi trong suốt thế kỷ 20 để chỉ định một số hình
thức kinh tế khác nhau, từ sở hữu nhà nước trong nền kinh tế thị trường đến
các nền kinh tế chỉ huy của Khối Đông cũ. Theo Aldo Musacchio, một giáo
sư tại Trường Kinh doanh Harvard, chủ nghĩa tư bản nhà nước là một hệ
thống mà chính phủ, dân chủ hay cơng dân, thực hiện một ảnh hưởng rộng rãi
đến nền kinh tế thông qua quyền sở hữu trực tiếp hoặc trợ cấp khác nhau.
Musacchio ghi nhận một số khác biệt giữa chủ nghĩa tư bản nhà nước ngày
nay và những người tiền nhiệm của nó. Theo ý kiến của ông, đã biến mất là
những ngày các chính phủ chỉ định các quan chức để điều hành các công ty:
5


các doanh nghiệp nhà nước lớn nhất thế giới hiện đang được giao dịch trên thị
trường công và được các nhà đầu tư tổ chức lớn giữ sức khỏe tốt. Chủ nghĩa
tư bản đương đại của nhà nước gắn liền với mơ hình chủ nghĩa tư bản Đơng
Á, chủ nghĩa tư bản và nền kinh tế Na Uy. Ngoài ra, Merriam-Webster định
nghĩa chủ nghĩa tư bản nhà nước là "một hệ thống kinh tế trong đó tư bản tư
nhân được sửa đổi bởi một mức độ khác nhau của quyền sở hữu và kiểm sốt
của chính phủ".
Trong chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa duy tâm và khoa học, Friedrich
Engels lập luận rằng các doanh nghiệp nhà nước sẽ mô tả giai đoạn cuối cùng
của chủ nghĩa tư bản, bao gồm quyền sở hữu và quản lý sản xuất và truyền
thông quy mô lớn bởi nhà nước tư sản.[106] Trong các tác phẩm của mình,
Vladimir Lenin đã mơ tả nền kinh tế của nước Nga Xô viết là tư bản nhà
nước, tin rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến đầu tiên hướng tới
sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Thuật ngữ này không được các nhà kinh tế học ở Áo sử dụng để mô tả
quyền sở hữu nhà nước đối với phương tiện sản xuất. Nhà kinh tế học Ludwig
von Mises lập luận rằng việc chỉ định "chủ nghĩa tư bản nhà nước" đơn giản

là một nhãn mới cho các nhãn hiệu cũ của "chủ nghĩa xã hội nhà nước" và
"nền kinh tế kế hoạch" và chỉ khác với những yếu tố không cần thiết.
Cuộc tranh luận giữa những người ủng hộ tư bản tư nhân so với chủ
nghĩa tư bản chủ yếu xoay quanh những câu hỏi về hiệu quả quản lý, hiệu quả
sản xuất và phân phối công bằng của cải.

6


CHƯƠNG II: NHỮNG NÉT MỚI VÀ ẢNH HƯỞNG CUA SỰ
ĐIỀU CHỈNH CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN XÃ
HỘI
2.1. Những nét mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại
2.1.1. Sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất
Thứ nhất, cách mạng công nghệ thông tin và công nghệ cao phát triển
mạnh mẽ. Công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, trở thành ngành lớn nhất
và ngành tăng trưởng nhanh, nhất là vào nửa cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX.
Cùng với sự lan rộng trên tồn cầu của cách mạng cơng nghệ thơng tin, các
ngành công nghệ cao mới khác như sinh học, vật liệu mới, nguồn năng lượng
mới, hàng không vũ trụ... cùng đang phát triển mạnh mẽ. Sự tiến bộ và những
bước đột phá của khoa học kỹ thuật đã mở ra không gian rộng lớn mới cho sự
phát triển của sức sản xuất.
Thứ hai, giáo dục - đào tạo được tăng cường làm cho tố chất công nhân
được nâng cao, từ đó đặt nền móng vững chắc cho việc nâng cao năng suất
lao động và sức cạnh tranh.
2.1.2. Nền kinh tế đang có xu hướng chuyển từ kinh tế cơng nghiệp sang kinh
tế tri thức
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất diễn ra 200 năm trước,
thúc đẩy chủ nghĩa tư bản chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế
công nghiệp, cách mạng công nghệ thông tin hiện nay đang thúc đẩy nền kinh

tế tư bản chủ nghĩa chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức.
Trong kinh tế tri thức, vai trò của tri thức (và kỹ thuật) đã cao hơn các
yếu tố như nguồn tài nguyên tự nhiên và vốn, trở thành yếu tố sản xuất quan
trọng nhất. Vận hành của kinh tế tri thức chủ yếu khơng cịn do người lao
động cơ bắp thao tác máy móc mà chủ yếu do những người lao động trí óc
trong các ngành thiết kế, nghiên cứu phát triển cũng như truyền bá tri thức
thúc đẩy.
7


Cùng với sự chuyển đổi loại hình kinh tế, kết cấu ngành nghề của chủ
nghĩa tư bản cùng được điều chỉnh và nâng cấp hơn, chuyển sang dịch vụ hóa
và cơng nghệ cao hóa.
Điều này thể hiện ở chỗ: trong ba ngành nghề lớn, vị trí của nơng
nghiệp hạ thấp vị trí của dịch vụ, đặc biệt là ngành dịch vụ có liên quan đến
cơng nghệ mới được tăng lên.
2.1.3. Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp
Thứ nhất, quan hệ sở hữu cũng có những thay đổi, biểu hiện nổi bật là
sự phân tán quyền nắm cổ phiếu tăng lên. Phân tán hóa quyền khống chế cổ
phiếu có lợi cho cải thiện quan hệ giữa chủ xí nghiệp và cơng nhân. Nhưng
trên thực tế, công nhân là cổ đông nhỏ, không thể cùng với nhà tư bản phân
chia quyền lực, nên phân tán hóa quyền khống chế cổ phiếu cũng không thể
làm thay đổi địa vị làm thuê của người lao động.
Thứ hai, kết cấu giai cấp cũng đã có những biến đổi lớn, các giai cấp,
tầng lớp, đoàn thể xã hội và tập đoàn cùng tồn tại và tác động lẫn nhau. Nổi
bật nhất là sự xuất hiện của tầng lớp trung lưu (hay còn gọi là giai cấp trung
sản), chiếm khoảng 40-50% dân số. Trên thực tế, phần lớn trong số này có cổ
phiếu hoặc một phần vốn, rất nhiều trong số họ là phần tử tri thức hoặc nhân
viên chuyên ngành, có địa vị nghề nghiệp khá tốt, đã khơng cịn là giai cấp vô
sản theo quan niệm truyền thống nữa.

Thứ ba, cùng với sự tăng trưởng của sản xuất và sợ điều chỉnh về quan
hệ sản xuất, thu nhập bằng tiền lương của người lao động cũng có được mức
tăng trưởng khá lớn.
Tất cả những điều này cho thấy, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản
chủ nghĩa vẫn tồn tại nhưng nhờ những điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản về
quan hệ sản xuất, mà bắt nguồn từ những thay đổi trong quan hệ sở hữu, nên
đã phần nào xoa dịu được tính gay gắt của mâu thuẫn này. Những điều chỉnh
8


đó nói lên rằng chủ nghĩa tư bản muốn tồn tại và phát triển cũng phải lo giải
quyết các vấn đề xã hội, giải quyế mối quan hệ giữa tư bản và lao động, song
song với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất và cuộc đấu tranh
bền bỉ của giai cấp công nhân.
2.1.4. Thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có những biến
đổi lớn
Trong điều kiện mới của cách mạng khoa học kỹ thuật và kinh tế tri
thức, thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ các doanh nghiệp đã thực hiện
các bước điều chỉnh và cải cách lớn.
Thứ nhất, doanh nghiệp cải cách cơ chế quản lý, thiết lập cơ cấu tổ
chức hàng ngang và mạng lưới. Phương hướng cải cách là xóa bỏ hệ thống
kiểu kim tự tháp truyền thống như tập trung quá lớn quyền lực, đa tầng thứ và
theo chiều dọc, thay thế bằng hệ thống kiểu mạng lưới phân quyền, ít tầng thứ
và theo chiều ngang nhằm giảm bớt khâu trung gian, thông tin thuận lợi, đơn
giản trình tự quyết sách, phát huy đầy đủ tính chủ động và trách nhiệm của
tồn thể cơng nhân nhằm nâng cao hiệu quả công tác.
Thứ hai, dùng công nghệ cao cải cách cơ chế quản lý sản xuất. Để thích
ứng với những thay đổi từ thể chế sản xuất theo "đơn đặt hàng", doanh nghiệp
thiết lập hệ thống sản xuất linh hoạt, hệ thống sản xuất bằng máy tính, chế độ
cung cấp thích hợp và cơ chế phát triển theo nhu cầu (tức khâu sản xuất càng

gần gũi với khách hàng hơn).
Thứ ba, thực hiện cải cách quản lý lao động lấy con người làm gốc, yêu
cầu đối với công nhân chủ yếu không phải là điều kiện thế lực mà là phải có
kỹ năng và tri thức cao hơn để họ phát huy tính chủ động và tính sáng tạo, từ
đó nâng cao năng suất lao động và tăng cường thế cạnh tranh của doanh
nghiệp.

9


Thứ tư, thay đổi hình thức tổchức doanh nghiệp xuất hiện xu thế hai
loại hình lớn hóa và nhỏ hóa cùng hỗ trợ nhau tồn tại. Các doanh nghiệp lớn
đã không ngừng mở rộng ưu thế về quy mô, tăng cường sức mạnh thị trường
của công ty. Đồng thời, các doanh nghiệp nhỏ linh hoạt hơn, có tinh thần sáng
tạo hơn cũng được phát triển mạnh mẽ, làm cho kinh tế tư bản chủ nghĩa có
sức sống và hiệu quả cao.
2.1.5. Điều tiết vĩ mô của nhà nước ngày càng được tăng cường
Thứ nhất, kịp thời điều chỉnh chiến lược tổng thể phát triển kinh tế
nhằm nâng cao sức cạnh tranh tổng thể của quốc gia. Những năm 90 của thế
kỷ XX, việc thiết lập thị trường chung châu Âu và sự ra đời của đồng tiền
chung châu Âu, bất kể đối với châu Âu hay đối với cả thế giới, đều có ý nghĩa
khơng thể xem nhẹ.
Thứ hai, sự lựa chọn chính sách thực dụng. Những năm 90 của thế kỷ
XX, dù là Mỹ hay châu Âu đều áp dụng mơ hình chính sách "Con đường thứ
ba", trên thực tế là sự dung hòa quan niệm giá trị truyền thống và chủ trương
chính trị của chủ nghĩa tự do với một số biện pháp của chủ nghĩa bá thủ mới,
đóng vai trị tích cực cho việc xoa dịu những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản
hiện nay.
Thứ ba, căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế khác nhau của từng thời
kỳ, vận dụng linh hoạt chính sách tài chính và chính sách tiền tệ, kịp thời điều

chỉnh mâu thuẫn cung cầu trong xã hội và mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội
khác nhau.
2.1.6. Các công ty xuyên quốc gia có vai trị ngày càng quan trọng trong hệ
thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, là lực lượng chủ yếu thúc đẩy tồn cầu hóa
kinh tế
Các cơng ty xuyên quốc gia (TNC) là các công ty tư bản độc quyền
bành trướng thế lực ra nước ngồi dưới hình thức cài cắm nhanh. Hiện tại, các
10


công ty xuyên quốc gia được nhà nước ở các nước tư bản chủ nghĩa nâng đỡ,
thông qua đầu tư trực tiếp ra nước ngồi trên quy mơ lớn, các cơng ty xun
quốc gia mua và thơn tính các tài sản ở nước ngồi, khơng ngừng tăng cường
thực lực, mở rộng thị phần. Cùng với sự phát triển nhanh của tồn cầu hóa
kinh tế, ngày càng nhiều xí nghiệp trong nước trở thành công ty xuyên quốc
gia. Dựa vào thực lực hùng hậu của bản thân, các công ty xuyên quốc gia đã
trở thành lực lượng chủ yếu thúc đẩy tồn cầu hóa kinh tế và chủ nghĩa tư bản
độc quyền liên quốc gia phát triển. Do có thực lực kinh tế, chính trị hùng
mạnh, hệ thống sản xuất, tiêu thụ,d ịch vụ, nghiên cứu khoa học, thơng tin
tồn cầu hóa, các cơng ty xun quốc gia đã có tác động lớn đến các mặt của
đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, và thế lực của họ đã thâm nhập
các lĩnh vực trên toàn thế giới.
2.1.7. Điều tiết và phối hợp quốc tế được tăng cường
Trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, nhà nước của các quốc gia tư
bản chủ nghĩa ngày càng chú trọng phối hợp chính sách kinh tế vĩ mơ. Vì vậy,
những xung đột kinh tế như chiến tranh mậu dịch, chiến tranh tỷ giá hối đoái,
chiến tranh lãi suất mà trước đây thường có giữa các nước phương Tây đã
giảm xuống. Việc giải quyết mâu thuẫn giữa các nước phương Tây đã giảm
xuống và thường áp dụng hình thức thương lượng thỏa hiệp chứ không đối
kháng gay gắt như trước. Những năm gần đây, phối hợp và hợp tác quốc tế

được tăng cường rõ rệt, hiệu quả cũng không ngừng được nâng cao. (Ví dụ
như: sự phối hợp giữa các nước tư bản về chính sách tài chính, tiền tệ sau "sự
kiện 11-9-2001", sự phối hợp giữa Mỹ, EU và Nhật Bản để tìm lối thốt ra
khỏi khủng hoảng tài chính tiền tệ trên quy mơ tồn cầu năm 2008). Vai trị
của các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế phát huy tác dụng ngày càng nổi
bật khi điều tiết quan hệ kinh tế quốc tế và trở thành một trong những chủ thể
mới điều tiết quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa (chẳng hạn Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF) tham gia một cách tồn diện vào cơng việc cứư viện trong khủng hoảng
11


lái chính châu Á đã giúp các nước hội viên khắc phục khó khăn tạm thời về
thu chi tài chính quốc tế). Tăng cường điều tiết và phối hơp quốc tế có vai trị
khơng thể xem nhẹ trong việc xoa dịu mâu thuẫn bên trong và bên ngoài các
nước tư bản chủ nghĩa, tạo không gan phát triển rộng lớn hơn cho chủ nghĩa
tư bản.
2.2. Ảnh hưởng của sự vận động của chủ nghĩa tư bản đến sự phát triển
của Xã hội
2.2.1. Thay đổi quan hệ sản xuất xã hội
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất của chủ
nghĩa tư bản hiện đại cũng có những đặc điểm mới. Tích tụ, tập trung sản xuất
làm hình thành các cơng ty có quy mơ ngày càng lớn, trở thành những công ty
tư bản độc quyền. Nhu cầu vốn của các công ty này vô cùng lớn, vượt quá
khả năng của một vài cá nhân, đòi hỏi phải thu hút các nguồn lực xã hội.
Công ty cổ phẩn trở thành hình thức tổ chức phổ biến của các cơng ty, tập
đồn kinh tế trong chủ nghĩa tư bản hiện đại. Sở hữu tư nhân, nền tảng của
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, trong các công ty này, khơng cịn tồn tại dưới
hình thức sở hữu của những người sản xuất độc lập, mà là sở hữu tư nhân đã
được xã hội hóa. Trong các cơng ty cổ phần, khơng chỉ có vốn của các nhà tư
bản mà cịn có sự tham gia của cơng nhân, người lao động. Với việc tham gia

thị trường chứng khoán, phát hành cổ phiếu để huy động vốn trên thị trường
chứng khoán, số người (và tổ chức) đầu tư vào cổ phiếu ngày càng nhiều,
quyền sở hữu cổ phần của công ty ngày càng phân tán. Tuy nhiên, các nhà tư
bản vẫn là người nắm giữ cổ phần chi phối cơng ty, tập đồn. Trong các cơng
ty, tập đồn xun quốc gia, siêu quốc gia, các nhà tư bản chỉ cần nắm giữ cổ
phần chi phối ở công ty mẹ thì thơng qua “chế độ tham dự” có thể chi phối
được lượng vốn rất lớn của xã hội.
Trong nền kinh tế tư bản hiện đại, khơng chỉ hình thức sở hữu mà cả
đối tượng sở hữu cũng có những yếu tố mới. Cùng với đối tượng sở hữu là
12


các yếu tố của tư liệu sản xuất truyền thống, như đất đai, tài nguyên, máy
móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu..., xuất hiện nhiều đối tượng sở hữu mới,
như cổ phiếu, trái phiếu, thương hiệu của doanh nghiệp, nhất là sở hữu trí tuệ,
sở hữu các phát minh, sáng chế, bí quyết cơng nghệ, các thiết kế, kiểu dáng
sản phẩm... Việc sở hữu những đối tượng này có ý nghĩ ngày càng lớn đối với
hoạt động của doanh nghiệp và thực tế sở hữu các đối tượng này đều ở trong
tay các nhà tư bản.
Các quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất, phân phối trong chủ nghĩa tư
bản hiện đại cũng có những thay đổi lớn. Các dây chuyền sản xuất tự động,
các máy móc tự động, các robốt thay thế cho con người được sử dụng ngày
càng nhiều. Các dây chuyền tự động hóa khơng chỉ sản xuất hàng loạt một
loại sản phẩm mà cịn có khả năng sản xuất được những sản phẩm đơn chiếc
theo nhu cầu, thiết kế riêng của từng khách hàng. Hệ thống máy tính, trí tuệ
nhân tạo đã thay thế nhiều hoạt động quản lý sản xuất, phân phối của con
người. Thay thế cho việc tổ chức sản xuất tập trung, hoàn chỉnh một sản phẩm
trước đây, ngày nay, việc sản xuất một sản phẩm, nhất là những sản phẩm
lớn, phức tạp, được chia nhỏ, phân tán cho nhiều đơn vị sản xuất độc lập thực
hiện, chun mơn hóa sản xuất những chi tiết, linh kiện được tiêu chuẩn hóa,

tạo nên chuỗi các công đoạn sản xuất, chuỗi giá trị sản phẩm có quan hệ gắn
bó chặt chẽ với nhau. Các đơn vị sản xuất có thể ở các vùng khác nhau, các
quốc gia khác nhau. Cách thức tổ chức sản xuất mới tạo điều kiện, cơ hội cho
các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng có cơng nghệ hiện đại hợp tác, liên kết,
trở thành vệ tinh, đối tác tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu của các tập
đoàn kinh tế lớn. Các cơng ty, tập đồn kinh tế lớn chuyển quản lý từ mơ hình
“kim tự tháp”, tập trung quyền quản lý vào các công ty mẹ sang quản lý theo
mơ hình “mạng lưới”, mỗi đơn vị sản xuất là một điểm nút trong mạng lưới,
có tính tự chủ cao, có khả năng ứng phó linh hoạt, hiệu quả với các biến động
của thị trường. Các nhà tư bản chỉ cần nắm cổ phần chi phối ở công ty mẹ,
13


nắm các công nghệ cốt lõi, thương hiệu, hệ thống phân phối sản phẩm cuối
cùng là chi phối được toàn bộ chuỗi giá trị sản phẩm. Nền kinh tế thị trường
hiện đại với vai trò chi phối của các tổ chức tư bản độc quyền là cơ sở kinh tế
của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
2.2.2. Đa dạng hóa cơ cấu xã hội, giai cấp
Cùng với sự phát triển kinh tế, cơ cấu xã hội, giai cấp trong chủ nghĩa
tư bản hiện đại cũng trở nên phong phú, đa dạng hơn. Ngay cơ cấu giai cấp
cơng nhân cũng có những sự thay đổi lớn, quan trọng. Bên cạnh lực lượng
đông đảo những công nhân truyền thống, những người lao động làm thuê trực
tiếp làm việc trong các dây chuyền sản xuất, lưu thơng của các cơng ty, tập
đồn tư bản, họ được xem là những “công nhân cổ xanh” (trong chủ nghĩa tư
bản hiện đại, họ cũng đòi hỏi phải có trình độ chun mơn nghiệp vụ, kỹ thuật
đến một trình độ nhất định, phải được đào tạo mới đáp ứng được u cầu
cơng việc), cịn có một bộ phận người lao động làm th có trình độ cao, có
thu nhập cao, đảm nhận các vị trí lãnh đạo, quản lý, chuyên gia ở các lĩnh vực
khác nhau trong guồng máy sản xuất của tư bản, họ được xem là những “công
nhân cổ trắng”. Công nhân cổ trắng cùng với tầng lớp công chức, viên chức

nhà nước, các luật sư, bác sĩ, giáo sư các trường đại học, các viện nghiên
cứu,... trở thành tầng lớp trung lưu của xã hội. Ở các nước tư bản phát triển,
tầng lớp trung lưu chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong cơ cấu xã hội, ở giữa hai
cực là giai cấp tư sản giàu có và những người lao động có mức sống thấp,
những người thất nghiệp có cuộc sống vơ cùng khó khăn.
2.2.3. Tác động đến các quan hệ kinh tế và sự phát triển kinh tế
Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, dù có sự khác nhau ở các nước và ở
các thời kỳ khác nhau, nhà nước tư bản đều có vai trò và ảnh hưởng lớn đến
các quan hệ kinh tế và sự phát triển kinh tế, tạo nên cơ chế phối hợp giữa nhà
nước, thị trường và xã hội trong việc điều tiết các hoạt động kinh tế của đất
nước. Nhà nước khơng chỉ xây dựng và hồn thiện hệ thống luật pháp bảo vệ
14


quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, tạo khung khổ pháp
luật, duy trì sự ổn định xã hội cho các hoạt động kinh tế, mà còn bằng các
chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng hoặc thắt chặt, các hoạt động đầu tư, mua
sắm, kiểm soát của chính phủ đối với các ngành, lĩnh vực, với hoạt động của
các cơng ty, tập đồn kinh tế để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy sản
xuất và tiêu dùng trong nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động xuất
khẩu, đầu tư ra nước ngồi, phục vụ lợi ích của các tập đồn tư bản. Nhà nước
đóng vai trị như một nhà tư bản tập thể, lý tưởng. Đồng thời, ở các mức độ
khác nhau, Nhà nước ở các nước tư bản phát triển đều thể hiện sự quan tâm,
coi trọng bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền lợi của người lao
động, quy định mức tiền lương tối thiểu, điều kiện làm việc, điều hòa quan hệ
giữa người lao động và chủ doanh nghiệp; thơng qua chính sách thuế để phân
phối lại thu nhập, thơng qua các chính sách phúc lợi xã hội, an sinh xã hội để
hỗ trợ người có hồn cảnh khó khăn, giảm bớt sự phân hóa và xung đột xã
hội; định hướng doanh nghiệp vào thực hiện các trách nhiệm xã hội, bảo vệ
môi trường.

Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, các tổ chức xã hội do người dân, các
tầng lớp, đối tượng xã hội tự nguyện thành lập ngày càng nhiều, có vai trị
ngày càng lớn. Nhà nước tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội hoạt động để
bảo vệ lợi ích của các thành viên, hội viên của mình, phản ánh với nhà nước
nguyện vọng, ý kiến của thành viên, hội viên; thay mặt các thành viên, hội
viên thương lượng với giới chủ về tiền lương, điều kiện lao động và các bảo
đảm xã hội cho người lao động... Đây là những yếu tố mới, những xu hướng
tiến bộ đang hình thành, phát triển trong lòng chủ nghĩa tư bản. Tùy theo mức
độ, nội dung can thiệp của nhà nước vào hoạt động của nền kinh tế thị trường
mà có nhiều mơ hình phát triển khác nhau trong các nước tư bản phát triển,
như mô hình kinh tế thị trường tự do (Mỹ, Anh), mơ hình kinh tế thị trường
xã hội (Đức), mơ hình kinh tế thị trường phúc lợi xã hội (các nước Bắc Âu),
15


mơ hình kinh tế thị trường nhà nước phát triển (Nhật Bản, Hàn Quốc). Sự
điều tiết của nhà nước, sự tham gia của các tổ chức xã hội tuy không làm thay
đổi được bản chất của tư bản, khơng xóa bỏ được những mâu thuẫn cơ bản
của chủ nghĩa tư bản, nhưng làm giảm nhẹ được tính chất đối kháng giai cấp,
hạn chế được nguy cơ khủng hoảng và bùng nổ xã hội.
2.2.4. Tồn cầu hóa
Một đặc điểm mới, quan trọng khác của chủ nghĩa tư bản hiện đại là
chủ nghĩa tư bản tồn cầu hóa, Xu hướng phát triển của tư bản là không giới
hạn, phá vỡ mọi giới hạn. Ban đầu, khi mới phát triển, tư bản đã phá vỡ tình
trạng cát cứ phong kiến, làm hình thành nền kinh tế thống nhất, thị trường
thống nhất trong một quốc gia. Khi tư bản phát triển, trở thành các cơng ty,
tập đồn lớn, thị trường trong nước trở nên nhỏ bé, không đáp ứng được yêu
cầu hoạt động, phát triển của tư bản. Bành trướng ra nước ngoài, mở rộng thị
trường, khai thác các nguồn lực nước ngoài trở thành một yêu cầu khách
quan, tất yếu của tư bản. Các cơng ty, tập đồn tư bản lớn là lực lượng xung

kích, đi đầu thúc đẩy các hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, xuất
khẩu tư bản, tạo nên sự vận động, luân chuyển của các luồng vốn, tiền tệ, các
luồng hàng hóa, dịch vụ, các hoạt động thương mại, đầu tư trên quy mơ tồn
cầu, làm hình thành thị trường thế giới, phân công lao động và hợp tác quốc tế
trên toàn cầu. Đây là một xu hướng khách quan, tiến bộ, đáp ứng yêu cầu từ
cả hai phía. Phía các nước tư bản phát triển, các cơng ty, tập đồn tư bản lớn
mở rộng được thị trường tiêu thụ, khai thác được thêm các nguồn lực để phát
triển. Phía các nước kém phát triển có nguồn vốn, máy móc, thiết bị, cơng
nghệ, phương thức sản xuất mới, hiện đại, có thị trường tiêu thụ để khai thác,
phát huy các tiềm năng, thế mạnh của mình phát triển đất nước, cải thiện,
nâng cao đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, do tồn cầu hóa được dẫn dắt, thúc đẩy bởi các tập đồn,
cơng ty tư bản và của nhà nước ở những nước tư bản phát triển, là sự mở rộng
16


hoạt động của tư bản trên phạm vi toàn cầu, vì lợi ích của tư bản, nên mặc dù
bề ngồi là những quan hệ bình đẳng, tự nguyện của từ hai phía, nhưng thực
chất là những quan hệ khơng bình đẳng (khơng thể bình đẳng) bởi tương quan
lực lượng giữa hai bên. Các cơng ty, tập đồn tư bản, được sự hỗ trợ của nhà
nước tư bản, nắm mọi lợi thế, yếu tố quyết định để chi phối các nước kém
phát triển, các nước kém phát triển ở vào thế yếu, ít có khả năng lựa chọn.
Thu hút các nước kém phát triển tham gia vào các chuỗi giá trị sản phẩm của
mình là để các tập đồn tư bản khai thác nguồn lao động phổ thông giá rẻ, các
tài nguyên thiên nhiên, chuyển giao những công nghệ thấp, những thiết bị cịn
có thể và cần được tận dụng, những sản phẩm có giá trị gia tăng thấp, những
lĩnh vực gây ô nhiễm môi trường... Các nước kém phát triển trở thành khu
vực “ngoại vi” của các trung tâm phát triển của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế phát
triển, đời sống của người dân được cải thiện, nhưng có một khoảng cách xa
giữa vùng “ngoại vi” với các “trung tâm” và khoảng cách này có xu hướng

ngày càng mở rộng.
2.3. Nhận định chung về sự thay đổi trong chủ nghĩa Tư bản hiện nay
2.3.1. Một số điểm đạt được trong Xã hội chủ nghĩa tư bản
Do chủ nghĩa tư bản đã có sự điều chỉnh, thích nghi, tiếp tục phát triển,
có những yếu tố mới, đặc điểm mới như nêu ở trên, nên đã có một số quan
điểm cho rằng chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay đã thay đổi về bản chất,
khơng cịn là chủ nghĩa tư bản như trước đây, khơng cịn là chế độ bóc lột.
Ngày nay, máy móc đã thay thế rất nhiều, và trong tương lai, máy móc tự
động hóa có thể thay thế hồn tồn lao động của cơng nhân ở nhiều cơng đoạn
của q trình sản xuất; sự giàu có của các nhà tư bản khơng phải do bóc lột
sức lao động của cơng nhân mà do máy móc đem lại. Hơn nữa, trong chủ
nghĩa tư bản hiện đại, hầu hết các doanh nghiệp, tập đồn kinh tế lớn đều là
cơng ty cổ phần, trong đó khơng ít cơng nhân, người lao động cũng có cổ
phần, trong thu nhập, ngồi tiền cơng lao động cịn có cổ tức do cổ phần đem
17


lại. Giai cấp cơng nhân được hữu sản hóa, khơng cịn là giai cấp vơ sản; nhiều
người lao động làm thuê, nhất là ở các lĩnh vực quản lý, lĩnh vực có trình độ
cơng nghệ cao khơng những khơng cịn bị bần cùng hóa mà đã trở thành tầng
lớp trung lưu của xã hội. Công ty cổ phần đã làm cho sở hữu tư nhân được xã
hội hóa, chủ nghĩa tư bản trở thành chủ nghĩa tư bản xã hội, chủ nghĩa tư bản
dân chủ, hoàn toàn khác với chủ nghĩa tư bản tư nhân, bóc lột tàn bạo trước
đây.
Vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước tư bản đối với nền kinh tế đã
giúp chủ nghĩa tư bản khắc phục, hạn chế được những tác động tự phát, tiêu
cực của cơ chế thị trường, tạo ra môi trường ổn định, thuận lợi cho hoạt động
kinh tế; đồng thời, hỗ trợ, thúc đẩy kinh tế phát triển. Nhà nước tư bản vừa
can thiệp vào lĩnh vực tiền công, tiền lương, bảo đảm điều kiện làm việc cho
người lao động, điều hòa quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao

động, vừa có những quy định hướng các doanh nghiệp thực hiện các trách
nhiệm xã hội và bảo vệ mơi trường. Bằng các chính sách phân phối lại, chính
sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và bằng phát triển cung cấp dịch vụ công,
nhà nước tư sản đã quan tâm hỗ trợ cải thiện đời sống cho các đối tượng xã
hội có thu nhập thấp, có hồn cảnh khó khăn... chủ nghĩa tư bản hiện đại đã là
chủ nghĩa tư bản nhân văn, nhân đạo, chủ nghĩa tư bản có ý thức; trong đó, có
những mục tiêu cao đẹp hơn chỉ là tìm kiếm lợi nhuận, đã có cơ chế để giải
quyết hài hịa lợi ích của các bên có liên quan nhà nước, nhà tư bản, người lao
động; việc xây dựng mơi trường văn hóa trong doanh nghiệp, các cơng ty, tập
đồn kinh tế, trong cộng đồng xã hội và việc bảo vệ môi trường được coi
trọng. Từ đó, các quan điểm này cho rằng chủ nghĩa tư bản sẽ còn tiếp tục tồn
tại, còn tiềm năng phát triển và sẽ tồn tại vĩnh viễn, là chế độ xã hội cuối
cùng, cao nhất của con người.

18



×