Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với đảm bảo công bằng xã hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.08 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................2
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................4
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI.........................................................4
1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế............................................................4
1.2. Khái niệm công bằng xã hội...............................................................5
1.2.1. Khái niệm chung.........................................................................5
1.2.2. Quan niệm của Đảng cộng sản Việt Nam:..................................5
1.3. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.................7
CHƯƠNG II: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY.............................................................................10
2.1. Tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam
là tất yếu khách quan...............................................................................10
2.2. Những thành tựu của Việt Nam đạt được.........................................12
2.3. Những hạn chế..................................................................................14
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨM BẢO CÔNG BẰNG
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..........................................................15
3.1. Giải pháp ngắn hạn...........................................................................15
3.2. Giải pháp dài hạn..............................................................................16
KẾT LUẬN....................................................................................................18


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo trong hơn 20 năm qua đã mang lại cho đất nước ta những thành quả có ý
nghĩa to lớn trên mọi lĩnh vực. Kinh tế đã vượt qua thời kỳ khó khăn và đạt
tốc độ tăng trưởng khá cao, liên tục trong nhiều năm, năm sau cao hơn năm
trước. Tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh. Chỉ số phát triển con người (HDI) được
cải thiện đáng kể. Tuổi thọ trung bình của người dân được nâng cao. Đời sống
nhân dân được cải thiện một bước. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn


định. Quốc phòng và an ninh được tăng cường. Vị thế của Việt Nam được mở
rộng trên trường quốc tế. Sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn trước
nhiều.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu chúng ta đã đạt được thì hàng
loạt vấn đề tiêu cực nảy sinh: chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao, chưa
bền vững; hiệu quả kinh tế không tỷ lệ thuận với tăng trưởng; đạo đức xã hội
có biểu hiện suy thoái, tệ nạn và tội phạm xã hội diễn ra rất phức tạp; môi
trường sinh thái đang bị ô nhiễm; tình trạng bất bình đẳng, phân tầng xã hội,
phân hóa giàu nghèo giữa các miền, vùng, thậm chí ngay trên cùng một địa
bàn dân cư khá gay gắt. Đặc biệt, vấn đề công bằng xã hội trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường đang đòi hỏi phải được lý giải rõ về mặt lý luận
và phải hiện thực hoá trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Để sớm thực hiện thành công mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, chúng ta cần phải quán triệt tốt quan điểm chỉ
đạo của Đảng: Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Mỗi bước tăng trưởng
kinh tế phải gắn chặt với quá trình nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng đời
sống xã hội lành mạnh. Do đó, sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với thực
hiện công bằng xã hội đang là bài tốn xã hội ư chính trị khó đặt ra cho con
đường phát triển ở nước ta. Nội dung này luôn được xem là vấn đề thời sự cấp


bách trong suốt thời kỳ quá độ. Vì vậy, trong quá trình học tập và nghiên cứu,
chúng em đã lựa chọn đề tài” Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với đảm
bảo công bằng xã hội ở việt nam hiện nay” để nâng tầng hiểu biết về lý luận
cũng như thực tế.


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ TĂNG

TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Gần hai thập kỷ này, trong nước ta cũng như trên thế giới, ngày càng
nhiều những cuộc điều tra khảo sát, những cơng trình nghiên cứu, những công
cuộc thử nghiệm ở nhiều quy mô khác nhau, có khi bao quát cả một quốc gia,
về mối quan hệ giữa cái xã hội và cái kinh tế, về thế nào là tăng trưởng kinh
tế, thế nào là công bằng xã hội, thế nào là kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với
công bằng xã hội. Khát vọng và đòi hỏi này biểu hiện nổi bật trong những chủ
trương được phổ biến nhanh chóng trên quy mơ tồn cầu về gắn bó văn hố
va phát triển, về phát triển bền vững, về phát triển là dân chủ và tự do, về xố
đói giảm nghèo, về phát huy nguồn vốn xã hội. Trước hết hãy tìm hiểu thế
nào là tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học, dùng để chỉ sự tăng
lên về số lượng, chất lượng sản phẩm xã hội và các yếu tố của q trình sản
xuất ra nó; là thước đo của tăng trưởng kinh tế, thể hiện ở nhịp độ tăng
trưởng, cụ thể là mức tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP), thu nhập quốc
dân tính theo đầu người và chỉ số phát triển con người (HDI). Tăng trưởng
kinh tế là sự tăng lên về số lượng, quy mô và tốc độ phát triển của một nền
kinh tế. Sự tăng trưởng đó đạt tới một giới hạn nhất định.
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế là sự tăng hoặc giảm sản lượng so với thời
điểm gốc(thường tính một năm).
+ Các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế: nhìn chung những yếu tố
sau đây được phần lớn các nhà khoa học chấp nhận: nguồn nhân lực; nguồn
tài nguyên thiên nhiên; nguồn vốn (tư bản); yếu tố công nghệ.


1.2. Khái niệm công bằng xã hội
1.2.1. Khái niệm chung
Công bằng xã hội là một khái niệm mang tính lịch sử, bị quy định bởi
hồn cảnh cụ thể. Có thể nói, mỗi xã hột đều có chuẩn mực riêng của mình về

cơng bằng xã hội, do hồn cảnh lịch sử cụ thể ở đó quy định. Bàn về sự khác
biệt giữa bình đẳng xã hội và cơng bằng xã hội, trong tác phẩm Phê phán
cương lĩnh Gô-ta, Mác vạch rõ: trong xã hội XHCN ''mỗi một người sản xuất
nhận được trở lại vừa đúng cái mà anh ta đã cung cấp cho xã hội''. Đó là
ngun tắc cơng bằng; tuy nhiên, trong điều kiện của CNXH, công bằng xã
hội không đồng nhất với bình đẳng xã hội, nghĩa là bình đẳng không phải là
ngang bằng nhau về mọi phương diện. Phải chấp nhận tình trạng bất bình
đẳng ở một giới hạn nhất định đối với mọi thành viên trong xã hội.
1.2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh,
+ Quan niệm của Hồ Chí Minh: cơng bằng xã hội là mối quan hệ giữa
thực hiện nghĩa vụ và việc hưởng quyền lợi tương ứng. Điều trước tiên là phải
tạo được sự bình đẳng cho mọi cá nhân khi cống hiến. Có nghĩa là ai có khả
năng bao nhiêu thì có thể tham gia đóng góp và được hưởng thành quả tương
xứng từ chính sự đóng góp ấy.
Người cho rằng: “Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai khơng
làm thì khơng ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”1
. Đây chính là bản chất nhân văn truyền thống dân tộc và tính nhân ái
vơ sản. Cơng bằng xã hội có thể thực hiện ngay cả những lúc nền kinh tế khó
khăn, càng khó khăn thì càng phải cơng bằng.
1.2.2. Quan niệm của Đảng cộng sản Việt Nam:
Trong thời kỳ trước 1986, về mặt lý luận Đảng ta xác định phân phối
công bằng là chủ yếu theo lao động trong nền kinh tế duy nhất hai thành phần
là quốc doanh và tập thể. Các thành phần kinh tế khác mặc dù cịn đóng vai


trị tích cực cho tăng trưởng kinh tế nhưng bị xố bỏ nhanh chóng. Quan hệ
sản xuất bị đẩy q cao so với trình độ của lực lượng sản xuất. Mặt khác, do
thực hiện cơ chế phân phối tập trung, bao cấp nên thực tế lợi ích chung (tài
sản quốc doanh, tài sản tập thể) và lợi ích của người lao động đều bị vi phạm.
Phân phối duy nhất theo lao động được thực hiện trong khuôn khổ của cơ chế

kế hoạch hố tập trung làm cho nó bị biến dạng thành phân phối bình quân.
Động lực phát triển kinh tế ư xã hội bị triệt tiêu, kinh tế đất nước bị
khủng hoảng. Đến thời kỳ Đổi mới đánh dấu bằng Đại hội VI, Đảng ta đã có
quan niệm mới về cơng bằng xã hội, đó là: “thực hiện chế độ phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn
cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”. Qua một thời gian
dài, quan niệm về công bằng xã hội của Đảng ta từng bước được hoàn thiện
cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội hiện thời. Nguyên tắc
phân phối trên đây là nguyên tắc phân phối công bằng trong thời kỳ quá độ ở
nước ta.
Như vậy, công bằng được nhận thức một cách khái quát là Hưởng thụ
tương ứng với cống hiến. Cống hiến ở đây là những đóng góp cả về tiền của
và sức lực trong hiện tại và cả trong quá khứ. Và hưởng thụ là những cái được
nhận như: phần thưởng, đền đáp, ghi danh.... Công bằng xã hội trở thành động
lực mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế, bởi nó tác động trực tiếp đến lợi ích của
các chủ thể xã hội. Do đó, cơng bằng xã hội cũng là một trong những điều
kiện để đảm bảo tăng trưởng kinh tế lâu dài. Mặt khác, chính việc thực hiện
công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường mà tình trạng phân hố xã
hội sẽ nảy sinh. Để khắc phục tình trạng này dưới chủ nghĩa xã hội cần phải
thực hiện phân phối lại thông qua phúc lợi xã hội. Phân phối thông qua phúc
lợi xã hội thực chất cũng là việc thực hiện công bằng xã hội theo nguyên tắc
Hưởng thụ tương ứng với cống hiến.


Ở phương diện khái quát hơn, công bằng xã hội được hiểu là quyền
được đảm bảo điều kiện sống tối thiểu của mỗi cá nhân.
Bình đẳng xã hội là sự ngang bằng nhau giữa các cá nhân về một lĩnh
vực xã hội: pháp luật, kinh tế, nhân phẩm, giới tính, tơn giáo... Khi có sự
ngang bằng giữa các cá nhân về mọi phương diện thì lúc đó có sự bình đẳng
hồn tồn. Trong khi đó cơng bằng xã hội là quan hệ xác định: hưởng thụ

tương xứng với cống hiến.
1.3. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
Trước hết ta cần nghiên cứu mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
tiến bộ xã hội.
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện tất yếu cho tiến bộ xã hội. Do đó, trên
thực tế, hầu hết chính phủ các nước tìm mọi cách ưu tiên các nguồn lực của
mình cho sự tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội...,
làm cơ sở để giải quyết hàng loạt vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội khác. Như
thế, tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự thịnh suy của từng quốc gia dân tộc.
Vậy, phải chăng cứ tăng trưởng kinh tế là có sự tiến bộ xã hội? Nhìn một cách
phổ quát là như vậy. Nhưng, trong thực tế, không phải lúc nào tăng trưởng
kinh tế cũng đi liền với sự tiến bộ xã hội, bởi cịn tùy thuộc vào mục đích của
tăng trưởng kinh tế. Nếu tăng trưởng kinh tế chỉ nhằm đạt được lợi nhuận sẽ
đem lại thảm họa cho con người. Ngược lại, tăng trưởng kinh tế để tất cả cho
con người và vì con người thì ln ln gắn liền với tiến bộ và công bằng xã
hội. Như vậy tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện vật chất để thực hiện công
bằng xã hội.
CNXH khoa học nhấn mạnh động lực để tăng trưởng kinh tế và tiến bộ
xã hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất của khoa học kỹ thuật, nhưng
tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội chính là phương thức sản xuất. Quan điểm này
giúp chúng ta có cách nhìn biện chứng về sự tăng trưởng kinh tế của CNTB


hiện đại. Nền tảng của nó là sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật hay những thành
tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ từ những năm 50 của thế kỷ
20 đến nay đã thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế đơn thuần vì mục đích lợi
nhuận dẫn đến chủ nghĩa sô-vanh nước lớn và kỳ thị chủng tộc, áp bức và bóc
lột nhiều nước đang phát triển.
Công bằng xã hội là một khái niệm rộng, bao gồm cơng bằng trong các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Trong đó, cơng bằng trong kinh

tế là cơ sở, công bằng trong lĩnh vực phân phối có ý nghĩa quyết định đến việc
phát huy nội lực các thành phần kinh tế, đến từng thành viên trong xã hội. Vì
vậy, sự tăng trưởng kinh tế phải hướng tới mục đích phục vụ các mục tiêu xã
hội và các mục tiêu xã hội phải hướng tới con người. Khơng thể có một nền
kinh tế tăng trưởng nhanh, có hiệu quả cao và bền vững trong một xã hội với
trình độ nhân dân thấp kém.
Cơng bằng xã hội dẫn đến lợi ích của mỗi cá nhân và mỗi chủ thể kinh
tế được đảm bảo đầy đủ theo mức độ đóng góp bằng nhiều hình thức như
bằng lao động bằng vốn, tài sản, trí tuệ, trí thức, trình độ tay nghề. Như vậy
khi lợi ích kinh tế được đảm bảo đã tạo ra sự kích thích cho mỗi cá nhân
khơng ngừng phát huy tính năng động và năng lực sáng tạo của mình. Do đó
cơng bằng xã hội là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.


CHƯƠNG II: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam
là tất yếu khách quan.
Ở nước ta, trước những năm đổi mới, trong cơ chế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu, bao cấp và một nền kinh tế phi thị trưởng, chế độ phân phối
bình qn, nền kinh tế, khơng những khơng tăng trưởng mà trì trệ, dẫn đến
khủng hoảng kinh tế - xã hội vào giữa thập niên 80, buộc chúng ta phải tiến
hành đổi mới. Đổi mới là một yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là
vấn đề có ý nghĩa sống cịn. Tinh thần đổi mới của Đảng thể hiện trước hết ở
đổi mới tư duy kinh tế, hình thành và hồn thiện qua các Đại hội VI, VII, VIII
và IX. Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được gần hai thập niên qua trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đã khẳng định rằng, để thực hiện được
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đòi hỏi
phải kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. Sự nghiệp CNH, HĐH do
Đảng lãnh đạo và đang được thực hiện ở Việt Nam nhằm đến nhiều mục tiêu,

trong đó có vấn đề tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế cùng với chế độ chính trị ưu việt là điều kiện, yếu
tố quan trọng để có cơng bằng xã hội, ngày càng tạo ra công bằng xã hội. Mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội biểu hiện một cách đa
dạng, chứ tuyệt nhiên không phải tăng trưởng đi trước công bằng theo sau.
Mác viết: ''với một cơng việc ngang nhau và do đó, với một phần tham
dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh
(sản phẩm lao động, vật phẩm tiêu dùng) nhiều hơn người kia, người này vẫn
giàu hơn người kia”.
Từ những luận điểm của Mác, chúng ta thấy, công bằng xã hội không
đồng nhất với bình đẳng xã hội, cơng bằng xã hội, bình đẳng xã hội khơng có
nghĩa là chia đều, ngang bằng nhau, và trong CNXH vẫn tồn tại sự bất bình


đẳng; bình đẳng trong CNXH là bình đẳng về địa vị xã hội của con ngưởi.
Trong điều kiện ở những nước chậm phát triển như nước ta, liệu có thể vừa
tăng trưởng kinh tế, vừa phát triển và thực hiện cơng bằng-xã hội được
khơng? Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: ''Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý:
Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm thì khơng được hưởng.
Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom''.
Vậy, trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, cơng bằng xã hội khơng có nghĩa là
chia đều, bình quân sản phẩm lao động, tư liệu sinh hoạt, vật phẩm tiêu dùng
cho mọi người. Nói về việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện nền
kinh tế cịn gặp nhiều khó khăn do chuyển từ thời bình sang thời chiến, vừa
phải dồn sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền nam, vừa phải đánh
thắng giặc Mỹ leo thang ra miền Bắc, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: trong công
tác phân phối, không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng, không sợ nghèo, chỉ
sợ lịng dân khơng n.
Qn triệt quan điểm trên của Hồ Chí Minh, có thể nhận định: Trong
điều kiện đi lên CNXH ở nước ta, tùy từng giai đoạn vẫn có thể thiết lập được

sự công bằng xã hội ở mức độ mà sự phát triển kinh tế - xã hội cho phép;
công bằng ở đây là quán triệt, thực hiện đúng nguyên tắc phân phối sản phẩm:
ai làm, cống hiến nhiều cho xã hội, thì được hưởng nhiều và ngược lại, chứ
khơng phải là cào bằng một cách bình qn chủ nghĩa dẫn đến triệt tiêu động
lực phát triển kinh tế, xã hội.
Thấm nhuần tư tưởng của các nhà sáng lập CNXH khoa học, của Hồ
Chí Minh về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, xuất phát
từ thực tiễn của Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã nêu rõ tại
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát
huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng CNXH.
Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: ''phát huy nhân tố con người trên


cơ sở bảo đảm cơng bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết
hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời
sống tinh thần; giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài;
giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”. Từ cương lĩnh xây dựng
CNXH trong thời kỳ quá độ mà Đảng ta đã nêu lên, rõ ràng chúng ta đã có
một quan niệm khác với các nước XHCN trước đây là đặt ra các mục tiêu xã
hội quá cao so với trình độ phát triển kinh tế hiện tại, rút cục các mục tiêu xã
hội trở thành ảo tưởng. Chúng ta cũng không quan niệm như một số nước
phương Tây chạy theo sự tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá mà hy sinh các
mục tiêu xã hội, gây nên những xung đột xã hội, đặc biệt là sự phân hóa giàu
nghèo. Chúng ta quan niệm, việc thực hiện các vấn đề xã hội, các mục tiêu xã
hội tuy không thể thốt ly tăng trưởng kinh tế, khơng thể vượt ra ngồi phạm
vi cho phép, nhưng khơng thể nhận thức một cách giản đơn: Cứ tăng trưởng
kinh tế thì các vấn đề khác của xã hội sẽ giải quyết được, cũng khơng chờ đến
khi có cho sự tăng trưởng cao của kinh tế mới bắt đầu thực hiện sự công bằng
xã hội, mà mỗi bước tiến của chính sách xã hội (qua những mục tiêu đạt được

của nó) đều phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế, và ngược lại, mỗi bước
phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế đều thúc đẩy tiến bộ xã hội, công bằng
xã hội.
2.2. Những thành tựu của Việt Nam đạt được
Tốc độ tăng sản phẩm trong nước(GDP) đạt bình quân 7,5%/ năm, xấp
xỉ mục tiêu đề ra và cao hơn tốc độ bình quân 5 năm tăng 6,9%/năm.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng: giảm dần tỷ trọng nông – lâm
nghiệp và thuỷ sản, tăng tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong cơ cấu GDP.
Trong gần những năm qua, cơ cấu kinh tế quốc dân đã có bước chuyển
biến theo hướng tích cực. Tỷ trọng khu vực nơng – lâm và thuỷ sản đã giảm
hơn 3%,trung bình mỗi năm giảm hơn 0,7%. Khu vực công nghiệp và xây
dựng tăng gần 3%, bình quân mỗi năm tăng 0,6%, khu vực dịch vụ ổn định ở


mức trên 38%. Tốc độ dịch chuyển cơ cấu kinh tế tuy còn chậm so với yêu
cầu, song xu hướng chung thời kì sau nhanh hơn thời kì trước.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tếtrong khu vực nông – lâm
nghiệp và thuỷ sản là chuyển dần từ nền sản xuất mang nặng tính tự cấp tự
túc, thuần nơng, năng suất và hiệu quả thấp sang nền sản xuấthàng hoá đa
ngành, đa sản phẩm có năng suất và hiệu quả cao. Đó là xu hướng giảm tỉ
trọng nơng nghiệp từ 77,4% giá trị sản xuất toàn khu vực xuống 75%; tăng tỉ
trọng thuỷ sản từ 14,6% lên trên 21,5%.
Tốc độ tăng trưởng cao ở tất cả các thành phần, khu vực kinh tế. Khu
vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 10,1%/năm; khu vực cơng nghiệp ngồi
quốc doanh tăng 21,9% và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI)
tăng 17,5%. Khu vực Nhà nước tuy tốc độ tăng trưởng không cao nhưng
chiếm tỉ trọng lớn (29% đến 30% tổng giá trị sản xuất toàn ngành), sản
xuấtcác sản phẩm trọng yếu của nền kinh tế. Nhiều ngành sản xuấtvà sản
phẩm công nghiệp quốc doanh đã tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong
nước và quốc tế, có tốc độ tăng trưởng cao, trong đó : động cơ điezen tăng

31,7%; ơ tô lắp ráp tăng 60,1%.
Kinh tế vĩ mô và các cân đối chủ yếu trong nền kinh tế có nhiều tiến
bộ. Tổng quỹ tiêu dùng vẫn tăng khá, đạt bình quân 7,5% so với mục tiêu đề
ra là 5,5%. Tỉ lệ tích luỹ trong nước so với GDP đạt 29,4%. tỷ lệ huy động
nguồn vốn nội địa cho đầu tư phát triển trung bình hàng năm đạt 80%. Vốn
đầu tư phát triển tồn xã hội tăng bình qn khoảng 10,3%/năm và đạt tỉ lệ
đầu tư trên GDP là 36,5%.
Như vậy tăng trưởng kinh tế của nước ta đáp ứng cả hai yêu cầu : một
mặt tăng trưởng với tốc độ cao, mặt khác tăng trưởng bền vững. Tăng trưởng
với tốc độ cao không chỉ là tiền đề để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội
mà còn để khắc phục, chống tụt hậu xa hơn về kinh tế.


Xã hội ổn định, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải
thiện
2.3. Những hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được, nước ta cũng có những hạn chế.
Tính bền vững và hiệu quả của tăng trưởng kinh tế chưa cao, sức cạnh tranh
của hàng hóa và sản phẩm dịch vụ còn hạn chế. Nhiều vấn đề xã hội còn diễn
biến phức tạp, tăng trưởng kinh tế và cơng bằng xã hội chưa thực sự hài hồ.
Hạn chế trong nông – lâm nghiệp và thuỷ sản là chưa gắn với thị
trường trong nước với thế giới. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất tuy cao
nhưng đóng góp của khu vực này trong tốc độ tăng trưởng GDP cả nước chưa
đến 1%. Chất lượng và tính bền vững của tăng trưởng chưa cao, chưa tương
xứng với vị trí của khu vực này trong nền kinh tế quốc dân. Sản xuất lương
thực vẫn trong tình trạng chạy theo năng suất, sản lượng, chưa thật coi trọng
chất lượng.
Hoạt động dịch vụ tuy có tiến bộ trên một số mặt nhưng chưa đều và
chưa vững. thị trường trong nước trầm lắng, sức mua tăng chậm. Giá cả một
số mặt hàng biến động lớn ngồi vịng kiểm sốt của Nhà nước. Các mặt hàng

xuất khẩu chủ kực như dầu thô, dệt may, giày dép, túi xách tăng không ổn
định do phụ thuộc quá lớn vào tài nguyên thiên nhiên hoặc thị trường thế giới.
Các vấn đề xã hội còn nhiều bất cấp. Tộc độ tăng dân số và lao động
vẫn cao nên tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm vẫn cịn phổ biến và đang
trở thành áp lực đối với tăng trưởng. Tỉ lệ lao động qua đào tạo mới bằng 24%
khơng đạt kế hoạch đề ra (30%). Trong khi đó, các vùng kinh tếtrọng điểm,
các khu công nghiệp, khu chế xuất vẫn thiếu lao động Lchất lượng cao. Sức
ép về việc làm đối với lao động trẻ ở khu vực thành thị còn lớn do tỉ lệ thất
nghiệp còn cao. Số hộ tái nghèo tuy có giảm nhưng chưa vững. Các hoạt động
văn hoá, y tế, giáo dục, đào tạo có tiến bộ nhưng chưa đều và chưa vững.



CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨM BẢO CÔNG
BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Giải pháp ngắn hạn
Một là, cần mở rộng chính sách phúc lợi xã hội thành hệ thống chính
sách an sinh xã hội nhiều tầng nấc, xem đây là một trong những chỉ báo quan
trọng của một xã hội công bằng và văn minh.
Hai là, đẩy mạnh việc thể chế hóa đồng bộ nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, cải tiến các chính sách quản lý vĩ mơ, nhằm tạo ra
các điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp trong xã hội
đều có cơ hội tiếp cận một cách công bằng đối với các yếu tố "đầu vào" của
sản xuất, kinh doanh.
Ba là, ngoài việc phân phối lần đầu cho những người trực tiếp tham gia
q trình sản xuất, kinh doanh như trên đã nói, Nhà nước cần phải thi hành
chính sách phân phối lại thông qua các sắc thuế (như thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế thu nhập...) để điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, tăng thêm
nguồn thu nhập cho ngân sách và phân bổ một cách công bằng, hợp lý các
khoản chi từ ngân sách này cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.

Riêng trong lĩnh vực đầu tư cho phát triển các vùng lãnh thổ, một mặt
cần tập trung đầu tư ở mức hợp lý cho các vùng kinh tế động lực, nhằm tạo ra
những đầu tàu tăng trưởng để kéo toàn bộ đoàn tàu kinh tế Việt Nam đi lên
nhanh hơn. Song, mặt khác, cũng cần chú trọng đầu tư cho các vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng và kháng
chiến cũ, nhằm giảm dần khoảng cách, trình độ phát triển giữa các vùng miền,
từng bước khắc phục tình trạng "bất cơng tự nhiên" và "bất cơng do lịch sử để
lại"; giữ vững ổn định chính trị - xã hội bảo đảm cho sự phát triển bền vững
của đất nước. Bên cạnh đó, cũng có thể áp dụng cơ chế riêng đối với những
vùng có lợi thế về kinh tế để hỗ trợ những vùng yếu thế hơn.


3.2. Giải pháp dài hạn
Một là, do nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế chậm phát
triển, muốn cho kinh tế phát triển nhanh, bền vững, có hiệu quả thì con đường
duy nhất là thực hiện kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên trong q trình đó phải đề phịng và khắc phục các tác động mặt trái của
kinh tế thị trường. Định hướng Xã hội chủ nghĩa là sự phát triển gắn liền với
cơng bằng xã hội, bình đẳng trong phân phối, để dẫn tới bình đẳng xã hội.
Hai là, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội dưới sự
quản lý và điều tiết của Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng có vai trị quyết định
và vai trò quản lý trực tiếp của Nhà nước phải được nâng lên tầm cao mới để
vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa đảm bảo công bằng xã hội. Nhà nước là
chủ thể số 1 trong các chủ thể xã hội tham gia vào quá trình phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước. Năng lực quản lý của Nhà nước cần được thể hiện rõ
qua việc hoạch định một hệ thống chính sách xã hội, một hệ thống phúc lợi xã
hội tích cực, sao cho ''bao nhiêu lợi ích đều vì dân", đồng thời có khả năng và
thực hiện tốt việc điều tiết xã hội, giữ vững an ninh xã hội, đoàn kết các giai
tầng xã hội. .., đảm bảo mơi trường chính trị - xã hội luôn luôn ổn định để
phát triển đất nước theo con đường XHCN.

Hệ thống chính sách an sinh xã hội này bao gồm:
1) Chính sách ưu đãi xã hội, nhằm bảo đảm mức sống ít nhất trên trung
bình cho những người có cơng trong q trình cách mạng và kháng chiến
trước đây;
2) Chính sách bảo hiểm xã hội nhằm huy động sự tích góp một phần
thu nhập của những người lao động lúc bình thường để dành chi tiêu cho lúc
gặp khó khăn (thất nghiệp, bệnh tật tuổi già...);


3) Chính sách trợ cấp xã hội để hỗ trợ giúp những người yếu thế và dễ
bị tổn thương như người tàn tật, người già cô đơn, trẻ em mồ cơi, lang thang
cơ nhỡ...;
4) Chính sách cứu tế xã hội để cưu mang những người bị thiệt hại nặng
do địch họa, thiên tai hoặc rủi ro trong cuộc sống;
5) Chính sách tương trợ xã hội, như phát huy truyền thống tương thân,
tương ái "lá lành đùm lá rách" trong cộng đồng để giúp nhau vượt qua khó
khăn, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống.
Ba là, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa không thể tách rời phát triển văn hoá.
Phải làm như thế nào để đưa các nhân tố văn hoá vào mọi lĩnh vực hoạt động
và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình
độ dân trí cao, khoa học phát triển, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hố - hiện
đại hố.
Bốn là, hạn chế tình trạng thu nhập bất hợp lý, kiên quyết xử lý mạnh
các trường hợp thu nhập bất hợp pháp do tham nhũng, ăn cắp của công, buôn
lậu. Tham nhũng hiện nay là một ung nhọt gây nhức nhối nhất trên cơ thể xã
hội, là một trong bốn nguy cơ cản trở quá trình Cơng nghiệp hố - Hiện đại
hố đất nước. Vì vậy, lúc này, chống tham nhũng là một trong những trọng
điểm để tạo nên sự tăng trưởng kinh tế, làm lành mạnh các quan hệ xã hội, đạt
tới tiến bộ và công bằng xã hội. Muốn chống tham nhũng tốt, phải mở rộng

dân chủ, chống từ trên xuống dưới, từ dưới lên, rà sốt lại đội ngũ cán bộ có
chức có quyền, từ trong nội bộ Đảng ra ngồi xã hội.


KẾT LUẬN
Sau hơn 30 năm đổi mới, chủ trương kết hợp tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội đã được chứng minh là đúng đắn, bằng thực tế của những
thành tựu cũng như thực tế của những vấp váp và yếu kém. Có lẽ kết hợp tăng
trưởng kinh tế với cơng bằng xã hội chính là một trong những sự phấn đấu
của thời đại mới.
Ngày nay, có một trào lưu mạnh mẽ, cuốn hút các nước đang phát triển,
các nước phát triển, các tổ chức kinh tế, tài chính, thương mại tồn cầu và khu
vực, có thể nhiều ít khác nhau, song khơng ai khơng địi hỏi và tỏ ý chí vươn
lên sự phát triển bền vững, tức là tăng tưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã
hội và gìn giữ mơi trường. cùng với những vấn đề kinh tế cốt yếu, thì những
vấn đề xã hội như cơng ăn việc làm, xố đói giảm nghèo…
Chúng ta vững tin rằng nước Việt Nam nhất định sẽ kết hợp thành công
tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Là sinh viên trường Đại học Bách
Khoa, việc nhận thức mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã
hội không những đáp ứng nhu cầu trau dồi kiến thức mà còn rút ra những
kinh nghiệm quý báu cho bản thân chúng em.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Triết học Mác – Lênin.( Đại học Bách Khoa Hà Nội )
Wikipedia.org
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII
Nghị quyết Trung Ương 2 khoá VIII.
Baomoi.com
Dantri.com




×