Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Tiểu luận môn quan hệ chính trị quốc tế quan hệ giữa mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.47 KB, 35 trang )

MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới với những
thuận lợi cơ bản mà công cuộc đổi mới 25 năm qua đã đạt được: Nền
kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và
phát triển tương đối toàn diện; hoạt động văn hóa – xã hội tiến bộ trên
nhiều mặt, việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội
có chuyển biến tốt, đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện, chỉ
số phát triển con người được nâng lên; chính trị - xã hội ổn định, quốc
phòng và an ninh được tăng cường, hoạt động đối ngoại được mở rộng;
công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền đạt nhiều tiến bộ trên cả ba
lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi
xướng, đổi mới về tư duy kinh tế đóng một vai trò cực kỳ quan trọng,
đã làm thay đổi một cách căn bản nhận thức của toàn xã hội về chủ
nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam. Đảng ta chủ trương chuyển nền
kinh tế từ vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang
thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời đẩy mạnh
thực hiện dân chủ trong xã hội, đặc biệt phát huy vai trò làm chủ trong
nhân dân trên mọi lĩnh vực. Trong thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
của 25 năm đổi mới, có thành tựu của phát huy sức mạnh nền dân chủ
XHCN. Cùng với việc kiểm điểm đánh giá tình hình, vấn đề dân chủ
được đề cập đậm nét trong Văn kiện Đại hội X, khẳng định dân chủ
XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực của đổi mới. Xã hội XHCN mà
chúng ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh, do nhân dân lao động làm chủ...
1


Từ những năm trước đây trong Cương lĩnh năm 1991 đã nêu lên 7


phương hướng cơ bản chỉ đạo qúa trình xây dựng CNXH ở nước ta.
Qua thực tiễn 25 năm đổi mới, Đảng ta đã có sự bổ sung, phát triển, cụ
thể hóa những phương hướng đó. Văn kiện Đại hội X khẳng định: "Để
đi lên CNXH, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã
hội; xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc;
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc
quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế"1.
Có thể nói việc mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa có tác động
khơng nhỏ tới phát triển nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa của
nước ta và ngược lại phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là tiền đề góp phần mở rộng dân chủ, thực hiện bình đẳng xã
hội một cách hiệu quả. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có mối quan hệ qua lại
khăng khít, biện chứng với nhau, vừa là tiền đề, điều kiện, đồng thời là
động lực để thực hiện mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước trong
thời toàn cầu hoá hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, 2006.

2


NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN CHỦ VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG


1.1 Dân chủ
Khái niệm “Dân chủ” được hình thành khá sớm trong lịch sử phát
triển của xã hội lồi người. “Dân chủ” theo nghĩa rộng đó là biểu hiện
của một chế độ chính trị trong đó quyền làm chủ thuộc về nhân dân.
Theo nghĩa hẹp, dân chủ tức là tôn trọng quyền làm chủ của tập thể và
có quan hệ bình đẳng với mọi người.
1.2 Dân chủ xã hội chủ nghĩa
Trải qua các hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp và nhà nước,
đến nay nhân loại chỉ có hai thứ dân chủ khác nhau, đó là một thứ dân
chủ cho số ít người, dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất,
do giai cấp cầm quyền chi phối. Đó là dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản –
“dân chủ”' của giới bóc lột, cường quyền, vơ nhân đạo. Một thứ dân chủ
khác, là dân chủ cho đại đa số người - dân chủ của nhân dân lao động
dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Nền dân chủ này giành
được do kết quả thắng lợi của cuộc đấu tranh lâu dài vì tiến bộ xã hội
của nhân dân lao động. Đó là dân chủ xã hội chủ nghĩa.
* Về chính trị: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện qua sự lãnh
đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng Sản đối với
tồn xã hội, thực hiện quyền lực và lợi ích của tồn thể nhân dân lao
động, mà trong đó có giai cấp công nhân .
* Về kinh tế: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội, đáp ứng sự phát triển
ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học công

3


nghệ hiện đại, nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể
nhân dân lao động .

* Về văn hóa tư tưởng: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư
tưởng Mác-Lênin (hệ tư tưởng của giai cấp công nhân ) làm nền tảng,
chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới (như
văn học, nghệ thuật, giáo dục, đạo đức, lối sống, văn hóa, xã hội, tơn
giáo ...)
Mặc dù thay đổi danh xưng, nhưng các nước xã hội chủ nghĩa và
các tổ chức cộng sản vẫn theo đuổi đường lối tập trung dân chủ theo hệ
thống đơn đảng như là một trong những nguyên tắc cơ bản. Điều 4
trong bản "Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
năm 1992" (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-2005-Bản sửa đổi), có
đoạn viết như sau : "Đảng Cộng Sản Việt Nam…là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật".
Dân chủ Xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên lý thuyết "dân chủ
nhất nguyên" để đối chọi với lý thuyết "dân chủ đa nguyên" như 1 thực
thể của quyền con người ở các nước phương Tây. Dân chủ nhất nguyên
hay còn gọi là "dân chủ tập trung", tính nhất nguyên chính trị được thể
hiện ở chỗ Đảng Cộng sản là người lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn
xã hội xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại: Dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ xuất hiện khi giai cấp công
nhân và, nhân dân lao động đấu tranh giành được chính quyền dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Với tính cách là một chế độ chính trị, dân
chủ xã hội chủ nghĩa là hình thức chính trị của nhà nước, do nhân dân lao
động lập ra dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản 4


Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; mọi quyền lực thực tế
thuộc về nhân dân, nhân dân quản lý xã hội của mình. Đó là một nền dân
chủ thực sự, đầy đủ và triệt để nhất. Vì đây là dân chủ của đa số, của nhân

dân lao động, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân; trong đó gắn liền với
cơng bằng và bình đẳng xã hội, gắn liền với chống áp bức, chống bóc lột
và bất công, được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế văn
hố, xã hội, được thể chế bằng Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa được sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
1.3 Kinh tế thị trường
Việc thừa nhận kinh tế thị trường khơng phải là sản phẩm riêng
có của chủ nghĩa tư bản đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ nghiên cứu, vận
dụng tốt kho tàng tri thức về kinh tế thị trường và các quy luật của nó
nhằm thực hiện mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh".
Về phương diện lý luận, nền kinh tế thị trường có những nét
riêng, bao gồm những quy luật và các phạm trù kinh tế đặc thù của nó,
mà bất kỳ quốc gia nào muốn phát triển nó cũng đều phải tuân thủ và
vận dụng, chẳng hạn quy luật giá trị - giá cả thị trường, quan hệ cungcầu, cạnh tranh thị trường... Phát triển nền kinh tế thị trường là biện
pháp, là phương tiện để đạt được mục đích kinh tế - phát triển nhanh,
hiệu quả. Nhưng những hạn chế, những mặt trái của kinh tế thị trường,
tự thân nó, khơng thể bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Trong kinh
tế thị trường, con người có thể kiếm được nhiều tiền lãi bằng hành động
hủy hoại ngay cả một nguồn của cải có ích nào đó do chính bàn tay con
người chế tạo ra. Chẳng hạn, có nước tư bản đã đổ xuống biển hàng
chục nghìn tấn khoai tây để chống rớt giá. Những bế tắc của kinh tế thị
trường đang đặt ra vấn đề cần có sự thay đổi một cách căn bản, có tính

5


cách mạng trong phương thức sản xuất, tác động vào giới tự nhiên để
tạo ra các giá trị sử dụng cần thiết cho con người phải đi đôi với việc
định hướng tiêu dùng, xây dựng văn hóa tiêu dùng. Nguyên lý “cứng

nhắc” của thị trường về sự khan hiếm sẽ bị thu hẹp tầm ảnh hưởng
trong tương lai bằng sự xuất hiện những thành tựu mới về công nghệ,
năng lượng, vật liệu, kinh tế tri thức... Hay nói cách khác, các lợi thế về
tài nguyên thiên nhiên sẽ lùi dần vào vị trí thứ yếu, thay vào đó là
nguồn lực trí tuệ của con người đang tìm kiếm những nguồn nhiên liệu
mới, những loại vật liệu mới, nhưng công nghệ tiêu tốn ở mức thấp nhất
nhiên liệu... nghĩa là nới rộng dần giới hạn khan hiếm cố hữu của cách
tiếp cận thị trường.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó q
trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thơng
qua thị trường. Vì thế kinh tế thị trường không chỉ là "công nghệ", là
"phương tiện" để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là những quan hệ
kinh tế - xã hội, nó khơng chỉ bao gồm các yếu tố của lực lượng sản xuất,
mà còn cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Như vậy, chứng tỏ khơng có
và khơng thể có một nền kinh tế thị trường chung chung, thuần túy, trừu
tượng tách rời khỏi hình thái kinh tế - xã hội, tách rời khỏi chế độ chính
trị - xã hội của một nước. Do đó, để phân biệt các nền kinh tế thị trường
khác nhau, trước hết phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế xã hội mà nhà nước và nhân dân lựa chọn làm định hướng, chi phối sự
vận động phát triển của nền kinh tế đó.
1.4

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu
tổ chức nền kinh tế - xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật
của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của

6



chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau
và bổ sung cho nhau. Đó là nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và
nhóm nhân tố của xu hướng mới đang vận động, đang phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ nhất đóng vai trò
"động lực" thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, hiệu quả; nhóm
thứ hai đóng vai trị "hướng dẫn", "chế định" sự vận động của nền kinh
tế theo những mục tiêu đã xác định, bổ sung những mặt tích cực, hạn
chế những mặt tiêu cực của thị trường, hoàn thiện mơ hình chủ nghĩa
xã hội.
II. MỞ RỘNG DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM

2.1 Mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Trong điều kiện hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi
mới, sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đã đạt được những thành tựu
quan trọng, có nhiều nguyên nhân đạt được những kết quả đó, song nguyên
nhân cơ bản, cốt lõi nhất là Đảng ta đã biết phát huy dân chủ trong việc ban
hành mọi chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ đổi mới, phát
huy vai trò quản lý của Nhà nước, đặc biệt là ln đề cao vai trị làm chủ đất
nước, làm chủ xã hội của nhân dân lao động, nhờ đó mà Đảng ta đã tạo ra được
sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động trong tồn xã hội. Ngay từ những
ngày đầu Nước Việt Nam mới được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói
dân chủ là chìa khố vạn năng để đi đến thành cơng: “Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền
từ xã đến Chính phủ Trung ương đều do dân cử ra…” 1. Dân chủ tức là dân làm
chủ, đó chính là bản chất tốt đẹp của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhân dân luôn được phát huy cao độ quyền làm
chủ đất nước, làm chủ xã hội của mình, tham gia vào mọi cơng việc quản lý
11


Hồ Chí Minh Tồn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà nội 1995 T 5 - Tr 698

7


của Nhà nước, “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và hội đồng
nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra khơng xứng đáng với sự tín nhiệm của
nhân dân”1 Công cuộc đổi mới đất nước đang đi vào chiều sâu, thực chất đã
mang lại kết quả quan trọng có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam đang đẩy mạnh sự
nghiệp cơng nhiệp hố, hiện đại hố đất nước, tiếp cận nền kinh tế tri thức và hội
nhập kinh tế quốc tế, việc mở rộng dân chủ trong các lĩnh vực hoạt động của đời
sống xã hội cũng là từng bước đề cao tính chất dân chủ của xã hội ta, làm cho
Đảng ta có điều kiện bám sát cuộc sống của nhân dân, nắm bắt được những tâm
tư, tình cảm của nhân dân với Đảng, Nhà nước, phản ánh những bức xúc nảy sinh
trong xã hội, để từ đó đề ra những chủ trương, chính sách cho phù hợp với ý chí
và nguyện vọng của nhân dân.
Thực tiễn phát triển của cách mạng và thành công của công cuộc đổi
mới đất nước hơn hai mươi năm qua đã khẳng định việc phát huy dân chủ
luôn là nhân tố quyết định sự thành công trong đường lối lãnh đạo của Đảng,
phát huy vai trò làm chủ của nhân dân lao động.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta. Từ một xã hội
thuộc địa, nửa phong kiến tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội là một bước
tiến nhảy vọt về chính trị thể hiện ưu việt của xã hội ta nhưng cũng đặt
ra nhiều khó khăn hạn chế trong nhận thức và thực hành dân chủ ở nước
ta. Một trong những nguyên nhân dẫn đến rối loạn xã hội và đổ vỡ ở
nhiều nước chính là thực hành dân chủ tràn lan, khơng có định hướng
để cho xã hội rối loạn tư tưởng và khơng thể kiểm sốt nổi. Kinh
nghiệm thực hành dân chủ của công cuộc đổi mới vừa qua đã cho chúng
ta những bài học quý, đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ cần phải mở rộng

dân chủ hơn nữa, nắm vững tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh và của
Đảng ta để mở rộng dân chủ phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

11

Hồ Chí Minh Tồn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà nội 1995 T 9 - Tr 591

8


Tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn và rất cấp thiết
đối với việc thực hành dân chủ ở nước ta. Tư tưởng dân chủ Hồ Chí
Minh có nguồn gốc, q trình hình thành và phát triển từ thực tiễn lịch
sử xã hội Việt Nam và bối cảnh thế giới cuối thế kỷ XIX đến nửa cuối
thế kỷ XX. Người đã kế thừa tư tưởng dân chủ truyền thống của dân tộc
Việt Nam và tinh hoa dân chủ Phương Đông, dân chủ tư sản Phương
Tây, trong đó tư tưởng dân chủ vơ sản của chủ nghĩa Mác- Lênin là chủ
yếu. Tư tưởng dân chủ đó hình thành và phát triển tự nhiên trong quá
trình lịch sử kết hợp với tài năng và phẩm chất của nhân tố chủ quan Hồ
Chí Minh.
Hồ Chí Minh coi dân chủ với nhân tố trung tâm là con người. Con
người là vốn quý nhất, là mục tiêu và động lực xây dựng xã hội mới.
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa.
Trong xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, nhân tố con người có ý
nghĩa cực kỳ to lớn.Trong bầu trời khơng gì quý rằng nhân dân. Nhân tố
thứ hai của dân chủ là quyền lực thuộc về số đông nhân dân, thứ ba là
thiết chế quan hệ xã hộ theo luật pháp, dân có quyền hạn, lợi ích và
trách nhiệm. "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân
là chủ"1. Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, mà
chính phủ là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Khi ai có điều gì

oan ức, thì có thể do các đồn thể tố cáo lên cấp trên. Đó là quyền dân
chủ của tất cả công dân Việt Nam.
Con người là động lực phát triển xã hội khi họ là chủ và phát huy
được quyền làm chủ của mình. Quyền của nhân dân, quyền của cơng
dân, quyền của từng tập đồn cơng dân trong dân tộc và xã hội. Hồ Chí
Minh thường khuyên chúng ta phải ghi lòng tạc dạ chân lý này: “ Làm
sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ
11

Hồ Chí Minh Tồn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà nội 1995 T 6 - Tr 515

9


của mình, dám nói, dám làm”1. Vì quan niệm dân là trên hết, nên Người
cho rằng mọi lợi ích là vì dân, mọi quyền hạn là của dân. Trong thiết
chế của nền dân chủ ấy nhân dân ở địa vị cao nhất.
Dân chủ là một cơ chế quyền hạn khẳng định vai trò làm chủ của
nhân dân trong hệ thống chính trị. Trước hết là nhà nước, là quyền bầu
cử, quyền kiểm soát, quyền miễn nhiệm các cơ quan và nhân viên nhà
nước. Dân chủ là một chế độ nhà nước mặc dù nó khơng chỉ được bảo
đảm bằng nhà nước mà là cả một cơ chế mang tính hệ thống bao gồm
Đảng, nhà nước, đoàn thể quần chúng... Đảng lãnh đạo, nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ. Đó là một hệ thống thiết chế dân chủ mới. Dân
chủ là nghiã vụ và trách nhiệm của công dân, công việc đổi mới, xây
dựng là trách nhiệm của dân. Người luôn luôn nhắc nhở cần vận động
nhân dân, làm cho nhân dân thực sự là người chủ, thực hiện dân chủ
thực sự trong xã hội ta.
Thực hành dân chủ là chìa khố giải quyết mọi khó khăn và tìm ra
nhiều giải pháp hay để phát triển xã hội. ,"Có dân chủ mới làm cho cán

bộ và quần chúng đề ra sáng kiến"2.Chỉ có tin tưởng, gắn bó với nhân
dân thì mới thấy ở nhân dân những sáng kiến vĩ đại, những con đường,
biện pháp, lực lượng để đổi mới xây dựng đất nước. Chỉ có thực hành
dân chủ, coi việc nước là việc chung, mọi người cùng lo toan thì sẽ tìm
thấy sáng kiến hay và lịng hăng hái của mọi người sẽ nhân lên gấp bội
Khi nói tới dân chủ chúng ta đều hiểu là nhân dân làm chủ vận mệnh
của mình, làm chủ trên tất cả lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội.
Dân chủ luôn là khát vọng của con người, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thôi thúc hàng triệu người đấu tranh để giành và vươn tới khát vọng
đó. Cuộc đấu tranh vi dan chủ ln gắn liền với đấu tranh giải phóng
Hồ Chí Minh Tồn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà nội 1995 T 5 - Tr 155
Hồ Chí Minh Tồn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà nội 1995 T 6 - Tr 174

11
2

10


giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người, thực hiện tiến bộ,
công bằng xa hội.
Đảng ta nhận thức sâu sắc về xây dựng một xã hội xã hội chủ
nghĩa bền vững về mặt xã hội có nghĩa là phải tạo ra một xã hội công
bằng, cuộc sống của mọi người được bảo đảm và bình an. Muốn xã hội
không rơi vào trạng thái xung đột, phải làm sao để có mơi trường xã hội
thực sự dân chủ, bình đẳng, mọi người đều được thụ hưởng các thành
quả của sự tăng trưởng kinh tế. Xã hội của một nước không thể tồn tại
bền vững nếu để một tầng lớp người hay nhóm người bị gạt ra ngồi lề
tiến trình phát triển của quốc gia. Thế giới cũng không thể có phát triển
bền vững nếu cuộc sống và tính mạng của một bộ phận nhân loại hay

một số quốc gia đang bị đe dọa vì nhiều lý do: chiến tranh, xung đột,
bệnh tật, nghèo nàn và thiếu các điều kiện sống tối thiểu, như nước
sạch, khơng khí sạch, nhà ở, ăn uống, thuốc men...
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền dân chủ nhất
nguyên về chính trị. Tính nhất nguyên chính trị được thể hiện ở chỗ:
Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo hệ thống trị và toàn xã hội
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; Nhà nước Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có chức năng thể chế hố đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về các quyền tự do, dân chủ của nhân dân thành hiến pháp, pháp
luật, chính sách và tổ chức thực hiện Hiến pháp, pháp luật, chính sách
đó; quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ là nền tảng lý luận, tư tưởng của dân chủ xã hội chủ nghĩa; dân
chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu chung của xã hội, hệ thống chính trị và
của tồn dân; khơng chấp nhận các khuynh hướng, các lực lượng chính
trị có tư tưởng trái với mục tiêu dân chủ xã hội chủ nghĩa, trái với lý
luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực tiễn xây dựng dân chủ
ở các nước xã hội chủ nghĩa nói chung, ở nước ta nói riêng đã khẳng
11


định: q trình củng cố, hồn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá
trình tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, gắn liền với xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh, không ngừng nâng
cao ý thức, năng lực làm chủ của nhân dân, thu hút và động viên họ
tham gia tích cực, tự giác vào công việc quản lý Nhà nước,quản lý xã
hội.
Một lần nữa chúng ta phải khẳng định rằng nền dân chủ ở Việt
Nam hiện nay là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, sản phẩm thắng lợi của
cuộc cách mạng “Tư sản dân quyền cách mạng là thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản”, của các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và

bảo vệ Tổ quốc, thống nhất nước nhà, của công cuộc đổi mới đất nước
vì hạnh phúc nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đã được
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam dốc lòng và đồng tâm xây
dựng nhiều chục năm qua, đạt nhiều thành tựu, thì tất yếu phải là một
nền dân chủ nhất nguyên chính trị. Bởi vì, xét về tính chất giai cấp thì
nền dân chủ nào cũng có tính giai cấp, Ở một số nước phương Tây,
người ta thực hiện hình thức dân chủ đa nguyên, nhưng về thực chất,
bao giờ cũng là nhất nguyên, do đảng của giai cấp cầm quyền chi phối
việc xây dựng và thực hiện dân chủ. Cái gọi là “đa nguyên chính trị”
chẳng qua chỉ là luận điệu lừa mị của giới tư sản đối với những người
non kém chính trị” rồi trở lại tước quyền dân chủ của nhân dân lao động
do gian khổ đấu tranh mới giành được mà thơi.
Trong chiến lược “Diễn biến hồ bình” chống Việt Nam, chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lại rêu rao một cách ác ý rằng “ở
Việt Nam thực hiện chế độ độc đảng lãnh đạo nên đã dẫn tới chế độ
“Đảng trị”; rằng “độc đảng thì kéo theo: độc tài, độc đoán, độc quyền”;
rồi họ yêu cầu: “Việt Nam phải xoá bỏ sự độc quyền lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam”, vì “cịn thực hiện “độc đảng” lãnh đạo thì Việt
12


Nam khơng có dân chủ” và họ “khun”: “Để có dân chủ, Việt Nam
nên thực hiện đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập”, bởi “Đa nguyên,
đa đảng bao giờ cũng tốt hơn chế độ nhất nguyên độc đảng. Độc tài,
đảng trị là cái gốc sai chính của nhà nước cầm quyền Việt Nam hiện
đại”… Từ ngày ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã toàn tâm,
toàn ý phục vụ nhân dân, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập cho
dân tộc, ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, lập nên Nhà nước dân
chủ cộng hịa đầu tiên ở Đơng Nam Á. Nhà nước đó ngay từ đầu đã
được Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố là nhà nước của dân, do dân, vì

dân: “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… quyền hành và lực lượng đều
ở nơi dân”.
Gần tám mươi năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ln dày
cơng tìm tịi, sáng tạo, khơng ngừng đổi mới và hồn thiện phương thức
lãnh đạo của mình đối với nhà nước Nhà nước, nhằm làm cho Nhà nước
không ngừng vững mạnh và thực sự là cơ quan quyền lực, cơng cụ biểu
hiện ý chí, nguyện vọng, thực hiện và bảo vệ quyền dân chủ thực sự của
nhân dân. Đặc biệt là từ ngày thực hiện đường lối đổi mới đất nước đến
nay, sinh hoạt dân chủ trong xã hội Việt Nam ngày càng được mở rộng,
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân mỗi ngày một nâng cao, tiếng
nói tâm huyết của nhân dân vì một xã hội cơng bằng, bình đẳng, dân
chủ, văn minh được các cấp chính quyền lắng nghe, tơn trọng và tiếp
thu đúng đắn. Năm 1998, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá VIII ban hành Chỉ thị về xây dựng và thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở, Chính phủ ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã,
phường nhằm tiếp tục phát huy, mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân
dân... đã tạo nên một sắc thái dân chủ mới trong xã hội. Sự thật đó nói
lên rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang từng bước được thực hiện ngày càng
13


tốt hơn theo đà phát triển của dân trí Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta
cũng thẳng thắn thừa nhận rằng, hiện nay, “Nền kinh tế phát triển chưa
vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp,.. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành
thị và thiếu việc làm ở nơng thơn cịn ở mức cao... Một số giá trị văn
hóa và đạo đức xã hội suy giảm... Mức sống nhân dân, nhất là nông dân
ở một số vùng quá thấp... Sự phân hố giàu nghèo giữa các vùng, giữa
thành thị và nơng thơn, giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh chóng.
Tình trạng khiếu kiện của nhân dân ở nhiều nơi kéo dài và phức tạp,

chưa đuợc các cấp các ngành giải quyết kịp thời... Các tệ nạn xã hội,
nhất là nạn ma tuý và mại dâm lan rộng... Trật tự an toàn xã hội chưa
được bảo đảm vững chắc... Cơ chế, chính sách khơng đồng bộ...Tình
trạng tham nhũng, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng...Tình
trạng lãng phí, quan liêu cịn khá phổ biến”, đã làm hạn chế mức độ
thực hiện dân chủ của xã hội ta và là nguyên cớ để kẻ thù và bọn cơ hội,
bất mãn, cơng kích chúng ta. Do vậy, để kiên trì bảo vệ và xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa - nền dân chủ nhất nguyên chính trị do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta một
mặt phải kiên quyết khăc phục những yếu kém; mặt khác phải thực sự
kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cảnh giác và
kiên quyết đấu tranh vạch trần mọi luận điệu xuyên tạc, dụ dỗ, lừa mị
của kẻ thù, cùng nhau đồn kết một lịng chung quanh Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, quyết tâm đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng và
nhân dân ta tiến lên giành nhiều thành tựu hơn nữa.
Là chế độ chính trị của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong đó dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao
động thực sự được Nhà nước tạo mọi điều kiện để thực hiện quyền làm
chủ tập thể của mình trong việc tham gia quản lý Nhà nước, xây dựng
14


chủ nghĩa xã hội. Từ khi thành lập, mục tiêu của Đảng ta là hướng tới
xây dựng một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa theo quan điểm tiến bộ của
chủ nghĩa Mác – Lê nin, bởi vì “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hình
thức thể hiện quyền tự do, bình đẳng của cơng dân, xác định nhân dân
là chủ thể của quyền lực. Chế độ dân chủ bắt nguồn từ chính bản chất
của chế độ xã hội chủ nghĩa. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân là
điều kiện cơ bản để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nền dân chủ xã

hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới,
phát triển đất nước. Sự sáng tạo của nhân dân, quyền lực của nhân dân
và sự bình đẳng, tự do cá nhân là cơ sở lý luận và thực tiễn của nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Trên quan điểm quyền lực nhân dân dưới chế độ
xã hội chủ nghĩa, đặt ra nhiệm vụ phấn đấu để mọi thành viên trong xã
hội đều tham gia vào việc hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước. Chế độ xã hội chủ nghĩa tạo nên những hình thức dân chủ
hoàn toàn mới, phù hợp với điều kiện kinh tế của xã hội, làm cho nền
dân chủ đó ngày càng phong phú, đa dạng. Dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa, bên cạnh nền dân chủ có tính chất dân cử, những hình thức dân
chủ trực tiếp khác nhau cũng được phát triển hài hoà, thể hiện trong các
hoạt động của những tổ chức xã hội, tổ chức dân lập, trong hệ thống
kiểm soát của nhân dân. Dân chủ xã hội chủ nghĩa ghi nhận toàn bộ
những quyền tự do cá nhân, tự do ngơn luận, tự do báo chí, hội họp, đi
lại, tự do tín ngưỡng, quyền bất khả xâm phạm về thân thể và nhà ở,
quyền nghỉ ngơi, học hành. Nhà nước xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho tất
cả cơng dân được hưởng những quyền đó. Tạo cho công dân những khả
năng rộng rãi để bày tỏ nguyện vọng và trình bày những ý kiến của
mình về những vấn đề của đời sống xã hội” 1.

11

Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội X của Đảng, NXBCTQG Hà Nội 2006, trang 212 – 213.

15


Tãm l¹i, Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thức thể hiện
quyền tự do, bình đẳng của cơng dân, xác định nhân dân là chủ thể của
quyền lực. Chế độ dân chủ bắt nguồn từ chính bản chất của chế độ xã

hội chủ nghĩa. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân là điều kiện cơ
bản để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, phát
triển đất nước. Sự sáng tạo của nhân dân, quyền lực của nhân dân và sự
bình đẳng, tự do cá nhân là cơ sở lý luận và thực tiễn của nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa. Trên quan điểm quyền lực nhân dân dưới chế độ xã
hội chủ nghĩa, đặt ra nhiệm vụ phấn đấu để mọi thành viên trong xã hội
đều tham gia vào việc hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước.
2.2. Phát triển nền Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Có thể nói rằng: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta vừa mang những đặc trưng chung của kinh tế thị trường, vừa
mang tính đặc thù, đó là định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng
xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy
luật kinh tế thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh
tế thị trường ở nước ta với các nước khác.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta
thể hiện trước hết ở việc xác định nội dung các mục tiêu chiến lược
phát triển kinh tế thị trường và đặc trưng xã hội của nền kinh tế thị
trường. Như trên đã phân tích, trong nhiều đặc tính có thể dùng làm tiêu
thức để phân biệt nền kinh tế thị trường này với nền kinh tế thị trường
khác, phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế - xã hội mà nhà
nước và nhân dân đã lựa chọn làm định hướng chi phối sự vận động của

16


nền kinh tế. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà

nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm
theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước
trên thế giới"31.
Cương lĩnh cũng xác định rõ mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi
kết thúc thời kỳ quá độ là "xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh
tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư
tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ
nghĩa phồn vinh" 2.
Phát triển nền kinh tế thị trường là biện pháp, là phương tiện để đạt
được mục đích kinh tế - phát triển nhanh, hiệu quả. Nhưng những hạn chế,
những mặt trái của kinh tế thị trường, tự thân nó, khơng thể bảo đảm cho sự
phát triển bền vững. Trong kinh tế thị trường, con người có thể kiếm được
nhiều tiền lãi bằng hành động hủy hoại ngay cả một nguồn của cải có ích nào
đó do chính bàn tay con người chế tạo ra. Chẳng hạn, có nước tư bản đã đổ
31
22

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,nxb sự thật,HN,1991.Tr8-9
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,nxb sự thật,HN,1991.Tr,11

17



xuống biển hàng chục nghìn tấn khoai tây để chống rớt giá. Những bế tắc của
kinh tế thị trường đang đặt ra vấn đề cần có sự thay đổi một cách căn bản, có
tính cách mạng trong phương thức sản xuất, tác động vào giới tự nhiên để tạo
ra các giá trị sử dụng cần thiết cho con người phải đi đôi với việc định hướng
tiêu dùng, xây dựng văn hóa tiêu dùng. Nguyên lý “cứng nhắc” của thị trường
về sự khan hiếm sẽ bị thu hẹp tầm ảnh hưởng trong tương lai bằng sự xuất
hiện những thành tựu mới về công nghệ, năng lượng, vật liệu, kinh tế tri
thức... Hay nói cách khác, các lợi thế về tài nguyên thiên nhiên sẽ lùi dần vào
vị trí thứ yếu, thay vào đó là nguồn lực trí tuệ của con người đang tìm kiếm
những nguồn nhiên liệu mới, những loại vật liệu mới, nhưng công nghệ tiêu
tốn ở mức thấp nhất nhiên liệu... nghĩa là nới rộng dần giới hạn khan hiếm cố
hữu của cách tiếp cận thị trường.
Với những định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì
mục tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được xác định
là giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế,
động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội tạo ra sự phát triển năng động,
hiệu quả cao của nền kinh tế, trên cơ sở đó, cải thiện từng bước đời
sống của nhân dân, từng bước thực hiện sự cơng bằng, bình đẳng và
lành mạnh các quan hệ xã hội. Từ đó sẽ khắc phục được tình trạng tự
túc tự cấp của nền kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát
triển, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động. Áp dụng
khoa học, công nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất
lao động xã hội, tăng số lượng, chủng loại và chất lượng hàng hóa, dịch
vụ. Thúc đẩy tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa
các địa phương, các vùng lãnh thổ, với các nước trên thế giới. Động
viên mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài.
Phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi

18


đơn vị kinh tế, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền
kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Đưa nước ta
thốt khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển, thực hiện được
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.
Vì vậy, có thể nói, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là "đòn xeo"
để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, là phương tiện để thực hiện xã
hội hóa xã hội chủ nghĩa nền sản xuất, tiến hành công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta vừa chủ trương tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, vừa
không ngừng đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước.
Trong những nội dung của quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường Đảng
ta cũng đã có quan điểm rất rõ ràng về phát triển bền vững. Tư tưởng chiến
lược trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta là phát triển kinh
tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ mơi trường. Như vậy, có thể khẳng định
rằng, phát triển bền vững là một nội dung quan trọng của định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
Điểm yếu nhất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là ở chỗ nó
khơng bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Trong phát triển bền vững, nhiều
quốc gia trên thế giới thể hiện thái độ phê phán đối với chủ nghĩa tư bản, cho
rằng phương thức sản xuất này là nguyên nhân chính gây ra các thảm họa về
xã hội, môi trường... và làm tiêu tan những ước muốn của lồi người có một
xã hội lý tưởng, cơng bằng hơn, hợp lý hơn. Nhiệm vụ của chúng ta là phải
tăng cường hợp tác với các trào lưu tiến bộ trên thế giới, mở cửa hơn nữa nền
kinh tế để làm phong phú thêm nội dung của phát triển bền vững trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quán triệt quan điểm tiếp thu

những giá trị tiến bộ trong việc phân tích những điểm tương đồng theo
19


phương châm “cầu đồng, tồn dị” về mục tiêu và phương thức thực hiện phát
triển bền vững của các thể kinh tế thị trường khác nhau. Chủ nghĩa xã hội sẽ
không trở thành hiện thực nếu chúng ta không bảo đảm được phát triển bền
vững. Nhưng có phát triển bền vững chưa hẳn đã có chủ nghĩa xã hội. Vậy, sự
khác nhau ở đây chính là ở bản chất của chủ nghĩa xã hội có nội hàm rộng lớn
hơn, bao gồm tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giải phóng
và phát triển tồn diện con người.
Càng đi sâu phân tích càng thấy, vấn đề không chỉ dừng lại ở GDP tăng
lên bao nhiêu phần trăm, mà là ở chất lượng của tăng trưởng GDP, là ở việc
làm ra số GDP ấy như thế nào, bao gồm những sản phẩm gì?  Ngay như câu
hỏi cho 20 năm sau, Việt Nam hội nhập sâu vào kinh tế thế giới, cơ bản trở
thành nước cơng nghiệp, thì lúc đó sẽ xuất khẩu sản phẩm gì, nhập khẩu chủ
yếu sản phẩm gì? đang rất cần có những câu trả lời từ bây giờ. Trong vấn đề
này chủ nghĩa thành tích ln có hại. Cần sớm khắc phục những trào lưu chạy
theo những con số khuếch trương về lượng, trong khi lại xem nhẹ yếu tố về
chất, trình độ công nghệ nhập của các dự án đầu tư. Nếu không, gánh nặng nợ
nần không những sẽ trút lên vai các thế hệ mai sau, mà còn biến Việt Nam
thành bãi thải cơng nghệ.
Có một mối quan hệ bổ trợ cho nhau giữa phát triển bền vững với định
hướng xã hội chủ nghĩa. Khi nói kinh tế thị trường là một thành tựu của nền
văn minh nhân loại, thì cũng phải thấy được rằng chủ nghĩa xã hội cũng là
một sản phẩm của tư duy con người, thực hiện ước mơ ngàn đời của con
người vươn tới cái đẹp, cái tốt, cái bền vững. Nguồn của cải dồi dào là cơ sở
cho sự tồn tại xã hội cộng sản khác hẳn với nguyên lý khan hiếm các nguồn
lực trong kinh tế thị trường. Vậy những nhân tố mới có thể làm cho các nguồn
lực sẽ trở nên khơng cịn khan hiếm nữa là gì? Bằng thực tiễn chúng ta phải

chứng minh được rằng, chỉ có bằng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mới
bảo đảm tốt nhất cho phát triển bền vững. Từ cách đặt vấn đề như vậy mới có
20



×