Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận môn các đảng chính trị trên thế giới đường lối cải cách của đảng cộng sản trung quốc cầm quyền qua đại hội XV (1997)”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.19 KB, 32 trang )

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tất cả những gì đang diễn ra ở Trung Quốc được cả thế giới theo dõi
chặt chẽ khiến không ai khỏi ngạc nhiên. Trong 30 năm từ năm 1979, GDP
của Trung Quốc đã tăng 15 lần, sản xuất công nghiệp tăng hơn 20 lần; kim
ngạch thương mại tăng hơn 100 lần; hoàn thành công nghiệp hóa và tạo ra
một cơ sở vững chắc để giải quyết các nhiệm vụ do Đại hội lần thứ XVII
Đảng Cộng sản Trung Quốc (2007) đề ra, biến Trung Quốc từ một “công
xưởng của thế giới” thành một “nhà máy của tri thức”.
Vậy con đường phát triển của Trung Quốc là gì? Để trả lời câu hỏi này,
chúng ta phải làm rõ các yếu tố trong hiện tượng thành công của Trung Quốc.
Thứ nhất, đó là chiến lược phát triển đất nước trong khoảng thời gian 50 - 100
năm. Thứ hai, đó là mô hình cải cách kinh tế - xã hội. Và thứ ba, là chủ đề của
cải cách. Và tất cả những chiến lược này đều nằm dưới sự cầm quyền, lãnh
đạo duy nhất – Đảng Cộng sản Trung Quốc. Mặc dù đã từng mắc phải nhiều
sai lầm nhưng kể từ khi đẩy mạnh các cuộc cải cách, Đảng Cộng sản Trung
Quốc thay đổi dần ban lãnh đạo, nhiều chủ trưởng đường lối mới ra đời ảnh
hưởng mạnh mẽ tới quá trình cải cách, tạo ra cho đất nước Trung Quốc một
sức mạnh nội lực thần kỳ.
Tháng 9 năm 1997, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XV Đảng Cộng sản
Trung Quốc họp. Không còn sự có mặt và chỉ đạo của Đặng Tiểu Bình, nhưng
Đại hội này đã họp với chủ đề "Giương cao ngọn cờ vĩ đại của lý luận Đặng
Tiểu Bình, thúc đẩy toàn diện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mang mầu
sắc Trung Quốc tiến vào thế kỉ XXI. Đại hội XV được gọi là Đại hội "xuyên
thế kỷ, tiếp nối bước trước, mở đường tương lai, đảm bảo cho toàn Đảng kế
thừa ý chí của đồng chí Đặng Tiểu Bình, kiên định tiến bước thăng lợi theo
đường lối đúng đắn từ hội nghị TW khóa 3 khóa XI (tháng 12 năm 1978)".


2


Việc Đại hội XV Đảng cộng sản Trung Quốc khẳng định lý luận của
Đặng Tiểu Bình về xây dựng CNXH mang mầu sắc Trung Quốc, coi đây như
lý luận chỉ đạo công cuộc cải cách cho thấy quyết tâm của giới lãnh đạo
Trung Quốc. Họ quyết tâm đoạn tuyệt với bệnh "sơ cứng", giáo điều. Bên
cạnh đó là sự quyết tâm vận dụng mọi biện pháp, không cần biết đó là "họ xã"
hay "họ tư" để phát huy tổng lực sức mạnh của đất nước trong điều kiện thế
giới lúc đó nhằm nhanh chóng đưa Trung Quốc lên hàng ngũ các cường quốc
kinh tế.
Báo cáo chính trị trình bày tại đại hội XV của Đảng cộng sản Trung Quốc
thể hiện một trình độ cao về tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, nâng tổng kết
lên trình độ lý luận cơ bả, cơ sở lý luận. Đặc biệt, vấn đề cải cách thể chế kinh tế
và thể chế chính trị đã có những luận điểm mới mẻ mang tính đột phá.
Tác giả đã lựa chọn đề tài “Đường lối cải cách của Đảng Cộng sản
Trung Quốc cầm quyền qua Đại hội XV (1997)” làm tiểu luận môn Đảng
cầm quyền trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, các sách, các bài viết
về công cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc qua các thời kỳ. Trong đó, đặc
biệt là các học giả Trung Quốc và Việt Nam như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên: “Tìm hiểu tư tưởng cải cách,
mở cửa của Đảng cộng sản Trung Quốc quan các kỳ đại hội XIII, XIV, XV,
XVI”, Phạm Đức Cường (sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền) bảo vệ
năm 2003. Đề tài này cho ta thấy cái nhìn tổng quan và có hệ thống về những
quan điểm của Đảng cộng sản Trung Quốc trong quá trình thực hiện công
cuộc cải cách và mở cửa thông qua việc nghiên cứu và tìm hiểu các văn kiện
Đảng cộng sản Trung Quốc.
- Cuốn “Vấn đề sở hữu và phát triển bền vững ở Việt Nam và Trung

Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI” do PGS.TS Lương Việt Hải (chủ
biên), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008. Nội dung của cuốn sách đề cập
3


đến những vấn đề lý luận quan trọng trong xây dựng CNXH ở Trung Quốc và
Việt Nam, đó là vấn đề sở hữu và vấn đề phát triển bền vững, trong đó nhiều
vấn đề của CNXH mang đặc sắc Trung Quốc đã được đề cập đến, như lý luận
về kinh tế thị trường XHCN, vấn đề xây dựng xã hội hài hòa, quan điểm phát
triển khoa học
- Cuốn “Chủ nghĩa xã hội từ lý luận đến thực tiễn - những bài học kinh
nghiệm chủ yếu” - Lê Hữu Tầng (chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2003. Đây là công trình có ý nghĩa quan trọng trong việc làm sáng tỏ hơn lý
luận về CNXH, về con đường đi lên CNXH của Việt Nam, cũng như những
vấn đề lý luận đang đặt ra trong thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện
nay. Đặc biệt, cuốn sách đã dành toàn bộ phần thứ hai
- “Thực tiễn hiện thực hóa lý luận Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội” để trình bày sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin ở Liên Xô, ở các nước Đông
Âu và Trung Quốc trong khoảng thời gian gần một thế kỷ.
- Gần đây nhất, Viện Nghiên cứu Trung Quốc, thuộc Viện Khoa học xã
hội Việt Nam đã cho xuất bản cuốn “Vấn đề xây dựng xã hội hài hòa xã hội
chủ nghĩa của Trung Quốc” do TS. Hoàng Thế Anh (chủ biên), NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2009. Cuốn sách đã đề cập một cách khá toàn diện về
các nội dung của xã hội hài hòa của Trung Quốc. Trên cơ sở nghiên cứu các
quan điểm đồng thuận và không đồng thuận của các học giả Việt Nam và thế
giới đối với xã hội hài hòa, cuốn sách cũng đưa ra những đánh giá ban đầu về
việc xây dựng xã hội hài hòa của Trung Quốc, về những khó khăn và thuận lợi
của Trung Quốc khi tiến hành xây dựng xã hội hài hòa.
Các công trình nghiên cứu trên là kết quả của tinh thần nghiên cứu khoa
học nghiêm túc và thực sự cầu thị của các học giả trong và ngoài nước đây
được coi là nguồn tài liệu phong phú cho tác giả trong quá trình nghiên cứu.

Tuy nhiên, các công trình, chưa có một công trình, bài viếtnào nghiên cứu cụ
thể đường lối cải cách của Đảng Cộng sản Trung Quốc cầm quyền qua đại hội
XV. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Đường lối cải cách của Đảng Cộng sản
Trung Quốc cầm quyền qua Đại hội XV (1997)”.
4


3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Từ những vấn đề lý luận về Đảng cầm quyền, đề tài làm rõ quá trình
cầm quyền, cải cách của Đảng Cộng sản Trung Quốc qua Đại hội XV
(1997) với những bước cải cách đột phá. Qua đó, đề tài rút ra những bài
học gợi mở cho Việt Nam.
Để đạt được mục tiêu này, tác giả xác định cần thực hiện những nhiệm
vụ nghiên cứu dưới đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về đảng cầm quyền và đảng cộng sản
Trung Quốc cầm quyền
- Phân tích bối cảnh ra đời và nội dung đường lối cải cách, mở cửa của
Đảng cộng sản Trung Quốc qua Đại hội XV
- Rút ra một số bài học tham khảo về chủ trương, đường lối cải cách,
mở cửa kinh tế và chính trị trong giai đoạn Đảng Cộng sản Trung Quốc cầm
quyền.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những nội dung cải cách của Đảng
Cộng sản Trung Quốc cầm quyền qua Đại hội XV (1997)
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc
lần thứ XV (1997)
5. Ý nghĩa của đề tài
Tiểu luận góp phần phân tích, làm rõ những chủ trương đường lối cải
cách đột phá trong giai đoạn Đảng Cộng sản Trung Quốc cầm quyền tại Đại
hội XV

Đề tài cũng cấp tư liệu tham khảo cho người nghiên cứu chính trị nói
chung và cho những sinh viên chuyên ngành Chính trị học nói riêng.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Tiểu luận sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin: chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử,
đồng thời sử dụng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm của Đảng
Cộng sản Trung Quốc về đường lối, chủ trương của đảng cầm quyền.
5


- Phươg pháp nghiên cứu chung: Vì giới hạn nghiên cứu là những sự
kiện, quá trình diễn ra trong quá khứ - hiện tại – tương lại nên tác giả sử dụng
phương pháp nghiên cứu như: phương pháp logic - lịch sử. Trong quá trình
triển khai tác giả cũng coi trọng sử dụng một cách hợp lý các phương pháp;
phân tích – tổng hợp, trừu tượng hóa…
- Phương pháp cụ thể: Sử dụng phương pháp thu thập, nghiên cứu và
phân tích tài liệu, sắp xếp và tóm tắt tài liệu…Ngoài ra, tác giả còn tiến hành
trao đổi, thảo luận với các thầy cô và các học viên cùng lớp để củng cố, bổ
sung thêm những trí thức quý báu cho việc hoàn thiện tiểu luận của mình.
7. Kết cấu nội dung tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phần phụ lục, tiểu luận có kết cấu gồm 3 chương 8 tiết
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đảng cầm quyền
1.1. Khái niệm đảng cầm quyền
1.2. Khái quát chung về quá trình cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung
Quốc
Chương 2: Bối cảnh ra đời và nội dung đường lối cải cách, mở cửa của
Đảng cộng sản Trung Quốc qua Đại hội XV
2.1. Bối cảnh ra đời đường lối cải cách mở cửa
2.2. Nội dung đường lối cải cách thể chế kinh tế và thể chế chính trị

2.3. Một số bài học về cải cách, mở cửa kinh tế và chính trị rút ra từ
Đại hội XV

6


Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN
1.1. Khái niệm đảng cầm quyền
Trong lĩnh vực chính trị học, Đảng cầm quyền là một khái niệm được
sử dụng rộng rãi ở các nước phương Tây ngay khi xã hội bắt đầu hình thành
các đảng chính trị. V. Lê-nin cũng đề cập nhiều vấn đề liên quan đến đảng
cầm quyền. Theo V. Lê-nin, đảng cầm quyền được hiểu là “đảng nắm chính
quyền” bằng những người đại diện của đảng trực tiếp thực hiện công việc
quản lý trong bộ máy nhà nước. Những cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà
nước phải hoạt động làm sao bảo đảm vừa với tư cách là người đại diện cho
Đảng thực hiện việc tuyên truyền, vận động nhân dân đi theo Đảng, tức là
hoạt động “lãnh đạo”, vừa với tư cách là người đại diện cho Đảng, đồng thời
là đại biểu của nhân dân thực hiện công việc quản lý nhà nước, tức là hoạt
động “cầm quyền”. Đảng cầm quyền là khái niệm gắn với quyền lực. Tức là
Đảng có quyền lực chính trị mà cụ thể là ở việc “nắm chính quyền”.
Theo quan niệm của các nước phương Tây, Đảng cầm quyền (tiếng
Anh: ruling party hay governing party) trong một đại nghị chế là đảng chính
trị hay liên minh chính trị chiếm đa số ghế trong quốc hội hay nghị viện.
Trong một đại nghị chế, khối đa số trong quốc hội cũng kiểm soát luôn
cả ngành hành pháp của chính phủ vì thế không có khả năng hai đảng hay hai
khối chính trị đối nghịch nhau cùng lúc chiếm được ngành lập pháp và ngành
hành pháp của chính phủ như kiểu tổng thống chế của Mỹ là kiểu thể chế mà
đảng của tổng thống không nhất thiết cũng phải chiếm được đa số ghế ở quốc
hội. Trong tuyên ngôn chính trị của mình có tựa đề Sách Xanh, nhà lãnh

đạo Libya, Muammar al-Gaddafi đả kích cái khả năng của đảng cầm quyền,
lấy đó làm cái cớ căn bản cho việc ông chống đối nền chính trị đảng phái.

7


Đảng cầm quyền bao giờ cũng giữ vai trò lãnh đạo, chi phối toàn bộ hệ
thống chính trị, đặc biệt và trực tiếp nhất là nhà nước; bằng nhà nước và thông
qua nhà nước để thực hiện mục tiêu, chiến lược của mình. Giành, giữ và thực
thi quyền lực nhà nước là một hoạt động cơ bản của các đảng chính trị. Tùy
theo điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của từng nước cũng như mục
tiêu theo đuổi mà mỗi đảng cầm quyền có những phương thức tổ chức và hoạt
động khác nhau, song đều nhằm tới một hướng đích là giành, thực thi và chi
phối quyền lực nhà nước, từ đó chi phối và thực thi quyền lực của đảng mình
đối với các đảng khác và với toàn xã hội.
Các đảng chính trị khi đã cầm quyền đều tuân theo những nguyên tắc
chung là lãnh đạo, chi phối, sử dụng quyền lực nhà nước, sử dụng sức mạnh,
các phương tiện vật chất đã được thiết chế hóa của nhà nước để thực hiện mục
tiêu của đảng mình, của giai cấp mình. Song, mỗi đảng chính trị khác nhau
đều có những phương thức lãnh đạo và cách thức tổ chức thực hiện khác nhau
tùy thuộc vào quan điểm, tư tưởng, tương quan lực lượng trong hệ thống
chính trị, tùy thuộc vào điều kiện khách quan của tình hình chính trị, kinh tế,
xã hội của đất nước và cả nhân tố chủ quan của chính đảng cầm quyền. Vì
thế, đảng cầm quyền là vấn đề quan trọng của hệ thống chính trị của tất cả các
quốc gia.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rất sớm về Đảng cầm
quyền, tuy nhiên, không nêu rõ khái niệm Đảng cầm quyền là như thế nào, và
hầu như chỉ có một lần trong Di chúc, Người mới nói rõ “Đảng ta là một
Đảng cầm quyền”; nhưng qua những bài viết, bài nói, Người cho rằng “Đảng
cầm quyền” là một khái niệm khác với “Đảng lãnh đạo”, Đảng cầm quyền là

khái niệm gắn với quyền lực. Theo Người, Đảng cầm quyền cũng là Đảng
nắm chính quyền, nghĩa là Đảng có quyền lực trong thực tế. Tuy nhiên, Đảng
ta là đội tiên phong không chỉ của giai cấp công nhân mà là của cả dân tộc.
“Đảng là đảng của cả giai cấp lao động, mà cũng là đảng của toàn dân”; đồng

8


thời những cán bộ, đảng viên của Đảng trực tiếp thi hành những nhiệm vụ
quản lý trong bộ máy nhà nước nhưng đều chỉ là những người được nhân dân
“ủy thác”, bầu ra để phục vụ nhân dân. Người viết: “Nhân dân là ông chủ nắm
chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền
ấy”. Có thể thấy, đây là một nét đặc thù của Đảng cầm quyền ở Việt Nam hiện
nay. Điều này không có được đối với đảng cầm quyền ở nhiều nước trên thế
giới, khi mà đảng cầm quyền chỉ là đại diện của một lực lượng trong nhiều
lực lượng khác nhau của các giai cấp, tầng lớp dân chúng trong xã hội.
Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng khi đã giành được chính
quyền khác rất nhiều so với khi chưa có chính quyền.
Trước khi có chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu là
các tổ chức đảng và đảng viên trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ
trương đến các hội, đoàn thể, quần chúng “cốt cán”, thậm chí đến từng người
dân; từ đó tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Quan
hệ của Đảng với nhân dân là quan hệ máu thịt; mọi sự xa rời nhân dân đều có
thể dẫn đến tổn thất cho cách mạng, cho sinh mệnh của ngay bản thân tổ chức
đảng và đảng viên. Trong điều kiện chưa có chính quyền, trong Đảng không
có điều kiện để phát sinh, phát triển các tệ nạn như quan liêu, mệnh lệnh, ức
hiếp quần chúng.
Khi đã có chính quyền thì chính quyền là công cụ mạnh mẽ, sắc bén
nhất để đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống, bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Trong phương thức cầm

quyền, ngoài cách thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân, Đảng
lãnh đạo chính quyền (Nhà nước) thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch… và tổ chức nhân dân
thực hiện.
Thực chất của Đảng cầm quyền là: Đảng lãnh đạo chính quyền và
thông qua chính quyền để nhân dân làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội. Trong
điều kiện Đảng đã có chính quyền, V.I.Lênin đã cảnh báo các nguy cơ: sai lầm
9


về đường lối, quan liêu, xa rời quần chúng và kiêu ngạo cộng sản. Ngay sau
khi giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã cảnh báo nguy cơ
sai lầm về đường lối và suy thoái của cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu cần
phải chiến thắng ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu; nếu
không sẽ làm đổ vỡ cả sự nghiệp của một Đảng cầm quyền.
1.2. Khái quát chung về quá trình cầm quyền của Đảng Cộng sản
Trung Quốc
Đảng cộng sản Trung Quốc là đội tiền phong của gia cấp công nhân
Trung Quốc , đồng thời là đội tiền phong của nhân dân Trung Quốc và dân tộc
Trung Hoa , là nòng cốt lãnh đạo sự nghiệp xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc
Trung Quốc , đại diện yêu nhu cầu phát triển sức sản xuất tiên tiến của Trung
Quốc , đại diện phương hướng phát triển văn hóa tiên tiến của Trung Quốc ,
đại diện lợi ích căn bản của đông đảo nhân dân ở Trung Quốc.
Lý tưởng tối cao và mục tiêu cuối cùng của Đảng cộng sản Trung Quốc
là thực hiện chủ nghĩa cộng sản . Điều lệ Đảng quy định : Đảng cộng sản
Trung Quốc lấy chủ nghĩa Mác Lê-nin , tư tưởng Mao Trạch Đông , lý luận
Đặng Tiểu Bình và tư trưởng Ba đại diện quan trọng làm kim chỉ nam hành
động của mình.
Đảng cộng sản Trung Quốc thành lập tháng 7 năm 1921 . Từ năm 1921
đến năm 1949, Đảng cộng sản Trung Quốc lãnh đạo nhân dân Trung Quốc

tiến hành đấu tranh gian khổ , lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc , chủ
nghĩa phong kiến và chủ nghĩa tư bản quan liêu . Sau khi thành lập nước
Trung Hoa mới , Đảng cộng sản Trung Quốc lãnh đạo nhân dân các dân tộc cả
nước giữ gìn độc lập và an ninh quốc gia , thực hiện chuyển biến thành công
xã hội Trung Quốc từ chủ nghĩa dân chủ mới sang chủ nghĩa xã hội , triển
khai công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa có kế hoạch và quy mô lớn , khiến
sự nghiệp kinh tế và văn hóa ở Trung Quốc được phát triển to lớn chưa từng
có trong lịch sử .

10


Sau khi hoàn thành cơ bản cải tạo chủ nghĩa xã hội đối với chế độ tư
hữu tư liệu sản xuất , vì thiếu kinh nghiệm , Đảng cộng sản Trung Quốc có
những sai lầm trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ;
Từ năm 1966 đến 1976 , xẩy ra Đại cách mạng văn hóa , một sai lầm mang
tính toàn cục diễn ra trong thời gian dài .
Tháng 10 năm 1976 , Đại cách mạng văn hóa kết thúc , Trung Quốc
bước vào thời kỳ phát triển mới trong lịch sử . Sau hội nghị toàn thể lầu thứ 3
khóa 11 Đảng cộng sản Trung Quốc triệu tập cuối năm 1978 , thực hiện bước
ngoặc vĩ đại có ý nghĩa sâu xa kể từ ngày nước Trung Hoa mới thành lập . Từ
năm 1979 , Đảng cộng sản Trung Quốc thực thi chính sách cải cách mở cửa
do đồng chí Đặng Tiểu Bình đề xướng . Sau khi thi hành cải cách mở cửa ,
nền kinh tế quốc dân và phát triển xã hội Trung Quốc thu được thành tựu
khiến cả thế giới quan tâm , diện mạo đất nước biến đổi long trời lở đất , là
thời kỳ tình hình tốt nhất kể từ ngày thành lập nước Trung Hoa mới , cũng là
thời kỳ nhân dân được lợi nhiều nhất.
Đảng cộng sản Trung Quốc chủ trương tích cực phát triển quan hệ đối
ngoại , phấn đấu tạo môi trường quốc tế có lợi cho công cuộc cải cách mở cửa
và xây dựng hiện đại hóa ở Trung Quốc . Trong công việc quốc tế , Đảng

cộng sản Trung Quốc kiên trì chính sách ngoại giao hoà bình độc lập tự chủ ,
giữ gìn độc lập và chủ quyền của Trung Quốc , phản đối chủ nghĩa bá quyền
và chính trị cường quyền , giữ gìn hoà bình thế giới , thúc đẩy tiến bộ loài
người . Trên cơ sở 5 nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
nhau , không xâm phạm lẫn nhau , không can thiệp công việc nội bộ của nhau
, bình đẳng cùng có lợi cùng chung sống hoà bình , phát triển quan hệ với các
nước trên thế giới . Đảng cộng sản Trung Quốc xây dựng và phát triển quan
hệ hữu nghị với chính đảng các nước trên thế giới trên cơ sở 4 nguyên tắc độc
lập tự chủ , bình đẳng hoàn toàn , tôn trọng lẫn nhau , không can thiệp công
việc nội bộ của nhau . Hiện nay , Đảng cộng sản Trung Quốc giữ gìn quan hệ
hữu nghị với hơn 300 chính đảng của hơn 120 nước trên thế giới .
11


Đảng cộng sản Trung Quốc là một chỉnh thể thống nhất căn cứ cương
lĩnh và điều lệ của mình , thể theo nguyên tắc chế độ tập trung dân chủ . Điều
lệ Đảng cộng sản Trung Quốc quy định : công nhân , nông dân , quân nhân ,
tri thức và phần tử tiên tiến trong các tầng lớp xã hội tròn 18 tuổi , công nhận
cương lĩnh và điều lệ Đảng , nguyện tham gia và tích cực làm việc trong một
tổ chức của Đảng , thi hành nghị quyết của Đảng , nộp đảng phí định kỳ , có
thể xin gia nhập Đảng cộng sản Trung Quốc.
Tổ chức trung ương Đảng bao gồm : Đại hội đại biểu toàn quốc , Ban
chấp hành , Bộ chính trị , Ủy ban thường vụ ban chấp hành , Ban bí thư trung
ương , Quân uỷ trung ương và Ủy ban kiểm tra kỷ luật trung ương . Đại hội
đại biêu toàn quốc cuả Đảng năm năm tổ chức một lần . Trong thời gian đại
hội bế mạc , ban chấp hành là cơ quan lãnh đạo tối cao của Đảng cộng sản
Trung Quốc .
Đảng cộng sản Trung Quốc hiện có gần 70 triệu đảng viên , tổng bí thư
đương nhiệm là đồng chí Tập Cận Bình.
Ở Trung Quốc , ngoài Đảng cộng sản Trung Quốc , còn có 8 chính đảng

được gọi là đảng phái dân chủ : Ủy ban cách mạng Quốc dân đảng Trung
Quốc , Đồng minh dân chủ Trung Quốc , Hội kiến quốc dân chủ Trung Quốc ,
Hội xúc tiến dân chủ Trung Quốc , Đảng dân chủ nông công Trung Quốc ,
Đảng trí công Trung Quốc , Học xã Cửu Tam , Đồng minh tự trị dân chủ Đài
Loan . Phần lớn hình thành và phát triển trong chiến tranh chống Nhật và
chiến tranh giải phóng toàn quốc .
Các đảng phái dân chủ không phải là đảng không nắm quyền , cũng
không phải là đảng đối lập, mà là đảng tham chính. Đảng cộng sản Trung
Quốc trước khi áp dụng các biện pháp quan trọng hoặc quyết định về những
vấn đề quan trọng liên quan tới quốc kế dân sinh của Nhà nước đều tiến hành
thương lượng với các đảng phái dân chủ và nhân sĩ không đảng phái, sau khi
đạt được nhận thức thống nhất mới hình thành quyết sách; Các đảng phái dân
12


chủ và nhân sĩ không đảng phái đều có tỷ lệ đại biểu nhất định trong Quốc hội
và Ủy ban thường vụ quốc hội, trong các ủy ban chuyên môn của Quốc hội và
trong Hội đồng nhân dân các cấp, để tham gia bàn bạc các công việc chính trị
một cách càng tốt hơn và phát huy vai trò giám sát; phát huy đầy đủ vai trò
của các đảng phái dân chủ và nhân sĩ không đảng phái trong Chính hiệp nhân
dân; tiến cử nhân sĩ các đảng phái dân chủ và nhân sĩ không đảng phái đảm
nhiệm chức vụ lãnh đạo trong các cấp chính quyền và cơ quan tư pháp. Đây
chính là chế độ hợp tác đa Đảng và Hiệp thương chính trị dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Trung Quốc.
“Cùng tồn tại trường kỳ, giám sát lẫn nhau, sống chết có nhau và vinh
nhục có nhau” là sự đúc kết lịch sử hợp tác giữa Đảng cộng sản Trung Quốc
với các đảng phái dân chủ, cũng là phương châm cơ bản của sự hợp tác với
nhau. Đảng cộng sản Trung Quốc là hạt nhân lãnh đạo của sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, là Đảng cầm quyền. Tám đảng phái dân chủ là các tổ
chức chính trị liên hệ một bộ phận quần chúng của mình, là đảng bạn, đảng

tham chính hợp tác gắn bó với Đảng cộng sản, cùng nhau dốc sức cho sự
nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Điểm cơ bản tham gia bàn bạc các công việc nhà nước của các đảng
phái dân chủ là: Tham gia chính quyền nhà nước, tham gia hiệp thương về các
phương châm chính sách lớn của nhà nước và tuyển chọn lãnh đạo nhà nước,
tham gia quản lý các công việc nhà nước, tham gia xây dựng và thi hành các
phương châm, chính sách, luật pháp và pháp qui của Nhà nước. Đảng cộng
sản Trung Quốc và các Đảng phái dân chủ đều lấy Hiến pháp làm nguyên tắc
hoạt động cơ bản, có trách nhiệm giữ gìn danh dự của hiến pháp, đảm bảo
việc thực thi của hiến pháp.
Hình thức hợp tác đa đảng và chính trị hiệp thương chủ yếu gồm:
1/ Hội nghị chính trị hiệp thương Nhân dân Trung Quốc
13


2/ Trung ương đảng và đảng ủy các cấp địa phương tổ chức các cuộc
hội nghị hiệp thương và tọa đàm với các đảng phái dân chủ và nhân sĩ không
đảng phái.
3/ Các nhà lãnh đạo chủ chốt của Trung ương mời các nhà lãnh đạo chủ
chốt của các Đảng phái dân chủ và nhân sĩ không đảng phái tham gia các hoạt
động toạ đàm cấp cao và trong phạm vi hẹp một cách không định kỳ căn cứ
theo đòi hỏi của tình hình. Chủ yếu là để giao lưu tư tưởng và trưng cầu ý
kiến về các vấn đề cùng quan tâm.

14


Chương 2:
BỐI CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI CẢI CÁCH, MỞ CỬA
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN TRUNG QUỐC QUA ĐẠI HỘI XV

2.1. Bối cảnh ra đời đường lối cải cách mở cửa
2.1.1. Bối cảnh về kinh tế
Cho đến nửa sau thế kỉ XX, Trung Quốc vẫn còn là nước nông nghiệp
lạc hậu nhất thế giới. Vì vậy, đói nghèo ở nông thôn có quy mô tương đối lớn.
Cuộc cải cách ở giai đoạn đầu đạt thành tựu to lớn là nhờ đã bấm trúng huyệt
đói nghèo bằng cách thực hiện chính sách nông nghiệp làm cho hơn một tỉ
người thoát nạn đói, ổn định được xã hội sau bao năm xáo động không ngừng.
Nền kinh tế lạc hậu của Trung Quốc còn bị kìm hãm lâu dài trong cơ chế
kế hoạch tập trung quan liêu gần ba thập kỉ (1950-1978) đã được chuyển sang
kinh tế thị trường. Tạo ra sự phồn vinh trong nông nghiệp - làm cơ sở cho sự
phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp nhẹ truyền thống vốn rất nổi tiếng,
kể cả thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp trong nông thôn.
Trong lĩnh vực công nghiệp, Trung Quốc đã chuyển từ hệ thống "công
nghiệp xã hội chủ nghĩa " trước đây sang hệ thống khu chế xuất, khu công
nghiệp thời mở cửa, tạo ra nhịp độ tăng trường cao chưa từng thấy.
Năm 1997, GDP của Trung Quốc đạt gần 900 tỉ USD, với nhịp độ tăng
trưởng 8 - 9% nhưng Trung Quốc còn đang đứng trước những khó khăn lớn
về kinh tế.
Tình trạng doanh nghiệp nhà nước lỗ vốn nghiêm trọng. Cơ cấu kinh tế
lạc hậu nên mất cân đối giữa các vùng nghiêm trọng. 19 khu vực có thu nhập
thấp chiếm gần 54,4% dân số cả nước và chỉ đóng góp 29,6%. Còn 5 khu vực
có thu nhập cao với số dân 11,9% nhưng đóng góp 23% GDP. Ngoài ra còn
tình trạng thất nghiệp đang tăng dần (Nguồn: "Nghiên cứu tình hình quốc gia
- những thách thức và cơ hội" của Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc.
Chương 4)
15


2.1.2.Bối cảnh xã hội
Vốn là xã hội nông thôn chuyển sang cơ chế thị trường nên những đặc

điểm chung về phân tầng xã hội, phân hóa giầu nghèo … quá trình đô thị hóa,
nhất là sự ra đời hàng loạt khu chế xuất, khu công nghiệp đã thúc đẩy mạnh mẽ
những mặt ấy phát triển. Nét đáng chú ý về mặt xã hội của Trung Quốc là vấn
đề dân số. Cơ cấu xã hội, dân cư, một mặt do tác động của phân công lao động
mới theo quy luật từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, mặt khác: tác
động của tăng dân số và giải pháo về dân số ở Trung Quốc mà một thời gian
dài mới thấy hệ quả. Nét đáng chú ý nữa là dân số nông thôn chiếm tỷ trọng
lớn nên khi công nghiệp bắt đầu phát triển đã xuất hiện làn sóng di dân.
2.1.3. Bối cảnh văn hóa
Trung Quốc vốn là cường quốc "văn hóa phương Đông", có nền văn
hóa lâu đời với những đỉnh cao và thế giới khâm phục. Chính các giá trị văn
hóa đó là cơ sở của sự đoàn kết số dân khổng lồ và là sợ dây liên kết mấy
chục triệu người Hoa ở nước ngoài, cũng như nó đã phát huy thời kì Trung
Quốc bị đô hộ.
Trong giai đoạn này, nét chú ý là quá trình mở cửa và tác động toàn cầu
hóa, trên lĩnh vực văn hóa đang diễn ra sự giao thoa, lựa chọn phê phán đấu
tranh giữa "văn hóa phương đông" Trung Quốc với "văn hóa phương Tây".
2.1.4. Bối cảnh chính trị
Từ thời đại Đặng Tiểu Bình đã thổi làn gió mới vào tư duy chính trị
truyền thống Trung Quốc . Có lẽ Trung Quốc là nước phát triển tư duy chính
trị đối nội và đối ngoại sớm nhất. Hoàn cảnh một nước lớn suốt quá trình
phân tranh và thống nhất đã tạo ra một đội ngũ chính khách có học vấn và tài
năng trong chính sách đối nội và đối ngoại.
Sáng tạo lớn trong giai đoạn Đặng Tiểu Bình với hoàn cảnh bên trong
và bên ngoài khó khăn hơn trước rất nhiều:
Dân số đông và đói nghèo nên vấn đề bảo đảm đời sống là quan trọng. Vì
vậy, tư diu chính trị của ông lấy mục tiêu phát triển lực lượng sản xuất là chính ,
16



hình thức quan hệ sản xuất là điều kiện (mèo trắng mèo đen bắt được chuột là
được). Là một người cộng sản vốn có truyền thông sùng bái "Quan hệ sản xuất"
như mục tiêu mà đổi mới như vậy là sáng tạo.
Trung Quốc tuy lớn nhưng bị chia cắt một phần lãnh thổ. Vậy sách lược
làm thế nào để vừa cải cách vừa thu hồi đất đai. Sách lược "một nhà nước hai
chế độ" thực sự là một sự vận dụng phép biện chứng tài tình. Năm 1997 Hồng
Kông - như một con rồng trở về với Trung Quốc là kết quả của sách lược đó.
Quan hệ với Mỹ và cuộc chạy đua giữa hai cường quốc này là một nét
nổi bật trong lĩnh vực chính trị Trung Quốc. Hai bên dè chừng nhau nhưng
buộc phải mở rộng quan hệ với nhau. Sau khi Liên Xô sụp đổ và Trung Quốc
liên tục phát triển làm cho mối quan hệ hai bên phức tạp hơn nhiều so với
quan hệ Trung Quốc ở châu Á.
Cuối cùng đó là hệ thống chính trị của Trung Quốc chưa vững mạnh. Các
vụ tham ô, hối lộ, lạm dụng chức quyền tăng lên: đã điều tra hơn 16.000 cán bộ
trong cơ quan và chính quyền, hơn 17000 cán bộ ngành tư pháp, hơn 8000 cán
bộ cơ quan sự nghiệp, hơn 13000 cán bộ quản lý kinh tế (Báo cáo của Viện kiểm
sát tối cao ở kỳ họp quốc hội khóa IX).
2.2. Nội dung đường lối cải cách thể chế kinh tế và thể chế chính trị
2.2.1. Cải cách thể chế kinh tế ở Trung Quốc
Năm 1979, Trung Quốc quyết định đi vào cải cách. Năm 1992, xác
định được mục tiêu cải cách thể chế kinh tế là thiết lập nền kinh tế thị trường
XHCN. Hai sự kiện đó được coi là hai lần giải phóng tư tưởng. Đại hội XV
Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1997 đã đưa ra những luận điểm mới về cải
cách kinh tế, được coi là một bước đột phá mới - "lần giải phóng thứ 3" trong
quá trình cải cách.
Những nội dung chính của đường lối cải cách này đó là:
a. Về vai trò của "kinh tế công hữu" trong nền kinh tế nhiều thành phần
"Chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế sở hữu nhiều thành phần cùng
phát triển" là "chế độ kinh tế cơ bản trong giai đoạn đầu của CNXH" của
17



Trung Quốc. Quan điểm này đã được xác định trong Hội nghị trung ương 3
khóa 14. Trong nghị quyết của Đại hội XV được giải thích một cách cụ thể
hơn: "một là, nước ta là nước XHCN, cần phải kiên trì lấy chế độ công hữu
làm cơ sở của chế độ kinh tế XHCN; hai là, nước ta vào giai đoạn đầu của
CNXH, cần phát triển nhiều loại hình sở hữu kinh tế trong điều kiện chế độ
công hữu làm chủ thể; ba là, mọi hình thức chế độ sở hữu phù hợp với "3 có
lợi" (có lợi cho sự phát triển sức sản xuất, có lợi cho việc tăng cường sức
mạnh đất nước, có lợi cho việc nâng cao mức sống nhân dân) đều có thể và
cần được sử dụng phục vụ cho CNXH" (Trích báo cáo chính trị của Đại hội
XV).
b. Về hàm nghĩa của "kinh tế công hữu"
"Kinh tế công hữu không chỉ bao gồm kinh tế nhà nước và kinh tế tập
thể, mà còn bao gồm thành phần nhà nước và thành phần tập thể trong kinh tế
sở hữu hỗn hợp. Vai trò chủ thể của kinh tế công hữu chủ yếu thể hiện ở chỗ
tài sản công hữu chiếm ưu thế trong tổng tài sản xã hội. kinh tế nhà nước
kiểm soát huyết mạch của nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò chủ đạo phát
triển kinh tế" (Trích báo cáo chính trị của Đại hội XV).
Ở Trung Quốc xuất hiện thành phần kinh tế sở hữu hỗn hợp với sự
tham gia của nhà nước, tập thể, doanh nghiệp, tư nhân, tư bản ngoại. Nếu coi
kinh tế công hữu chỉ là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể cộng lại thì tỷ
trọng của nó đang giảm dần và vai trò "chủ thể" của nó khó có thể giữ vững
được. Nhưng nếu bao gồm cả thành phần nhà nước và thành phần tập thể
trong kinh tế sở hữu hỗn hợp thì năm 1996 tỷ trọng của kinh tế công hữu
trong tổng giá trị sản phẩm quốc nội (GDP) vẫn giữ được mức 76%, nghĩa là
vẫn đủ tiêu chuẩn về lượng để giữ vai trò chủ thể.
Đến đại hội XV, vai trò "chủ đạo" của nền kinh tế nhà nước được giải
thích lại " chủ đạo không phải là chiếm ưu thế về lượng. mà chủ yếu là nắm
các khâu then chốt để chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Đó là vai

trò "chủ thể" của kinh tế công hữu và vai trò "chủ đạo" của kinh tế nhà nước
18


trong toàn quốc, còn đối với từng địa phương, từng ngành nghề thì có thể có
sự khác biệt.
c. Vấn đề đa dạng hóa hình thức chế độ công hữu
Đa dạng hóa hình thức chế độ công hữu, mạnh dạn sử dụng các phương
thức kinh doanh và các hình thức tổ chức phản ánh quy luật xã hội hóa sản
xuất.
Trước đây Trung Quốc quan niệm chế độ công hữu chỉ thực hiện qua
hai hình thức nhà nước và tập thể. Nhưng sau đó xuất hiện thêm nhiều
phương thức kinh doanh và hình thức tổ chức mang kinh tế mang tính chất
hỗn hợp, trong đó chủ yêu là chế độ cổ phần và chế độ hợp tác cổ phần, với
sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế thuộc các chế độ sở hữu khác nhau.
Các học giả Trung Quốc cho rằng : các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác chủ
trương "tính chất xã hội củ nền sản xuất đòi hỏi phải xã hội hóa quyền chiếm
hữu tài sản…". Nhưng hình thức cụ thể của quyền chiếm hữu tài sản xã hội
hóa ấy (tức chế độ công hữu) là như thế nào thì Mác và Ăng ghen chưa trình
bày một cách tường tận, mà giao nhiệm vụ đó cho hậu thế. Chủ nghĩa xã hội
chỉ có thể áp dụng hai hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể
(với sự khống chế của nhà nước) là quan điểm của Xtalin đưa ra trong bối
cảnh Liên Xô những năm 20. Quan điểm đó trở thành quan điểm truyền thống
ở Trung Quốc và các nước XHCN khác. Ngày nay "Không được coi sở hữu
nhà nước là hình thức cao nhất của chế độ công hữu và là mục tiêu phải đạt
tới (1). Do vậy, hiện nay Trung Quốc chủ trương đa dạng hóa hình thức chế
độ công hữu, cải tổ chiến lược nhằm thu hẹp phạm vi kinh tế nhà nước, thực
hiện chính sách dối xử bình đẳng đối với các thành phần kinh tế."
d. Về chế độ cổ phần
Chế độ cổ phần là một hình thức tổ chức vốn của doanh nghiệp hiện

đại, CNTB có thể sử dụng, CNXH cũng có thể sử dụng. Trong thời gian qua
đã có nhiều ý kiến khác nhau về thuộc tính của chế độ cổ phần. Có người
trích Mác, nói rằng chế độ cổ phần thuộc "chế độ tư hữu"; một số người khác
19


cũng trích lời Mác, nói rằng chế độ cổ phần là một khâu quá độ để phát triển
lên chế độ công hữu. Báo cáo chính trị tại đại hội XV cho rằng : "chế độ cổ
phần là một hình thức tổ chức vốn của doanh nghiệp hiện đại, có lợi cho việc
tách quyền sở hữu và quyền kinh doanh, có lợi cho việc nâng cao hiệu quả
vận hành xí nghiệp và hiệu quả sử dụng vốn, chủ nghĩa tư bản có thể sử dụng,
chủ nghĩa cũng có thể sử dụng. Không thể nói chung chung chế độ cổ phẩn là
công hữu hay tư hữu, điều then chốt là xem quyền khống chế cổ phần nằm
trong tay ai. Nếu nhà nước và tập thể khống chế cổ phần thì sẽ mang tính chất
công hữu rõ rệt, sẽ có lợi cho việc mở rộng phạm vi chi phối của vốn công
hữu, tăng cường vai trò chủ thể của chế độ công hữu."
e. Về chế độ doanh nghiệp hiện đại
Xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại là phương hướng cải cách
doanh nghiệp nhà nước. Trung Quốc đã phấn đấu phần lớn các doanh nghiệp
chủ yếu của nhà nước có quy mô lớn và vừa, bước đầu xây dựng chế độ
doanh nghiệp hiện đại. Bốn yêu cầu đặt ra là "quyền sở hữu tài sản rõ ràng;
quyền hạn và trách nhiệm phân minh; tách chính quyền với doanh nghiệp;
quản lý một cách khoa học"
Hai vấn đề nổi bật trong cải cách kinh tế nhà nước đó là nhà nước tpaj
trung nắm những doanh nghiệp lớn tổ chức thàh những tập đoàn xí nghiệp có
sức mạnh cạnh tranh, và tiến hành cải cách cơ cấu của Quốc vụ viện theo yêu
cầu "tách chính quyền với doanh nghiệp".
Nguyên tắc số 1 của cải tổ là "căn cứ vào yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường XHCN, chuyển biến chức năng của chính phủ, tách chính quyền với xí
nghiệp… thực sự trao quyền sản xuất kinh doanh cho xí nghiệp ( trích báo cáo

của La Cán tại kỳ họp quốc hội khóa 9 ngày 06/03/2008) ". Một số bộ quản lý
công nghiệp đã được giải thể, chuyển sang hình thức tổng công ty. Tuy nhiên,
trên quá trình thực hiện cải cách trên, Trung Quốc phải vượt qua những thử
thách gay go, nhất là giải quyết việc làm cho những người mất việc do cải tổ
doanh nghiệp và cải cách hành chính
20


f. Về kinh tế "phi công hữu"
"Kinh tế phi công hữu" được coi là một bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa Trung Quốc. Báo cáo chính trị tại
Đại hội 15 nhấn mạnh "Cần tiếp tục cổ vũ, hướng dẫn kinh tế phi công hữu,
như kinh tế cá thể, tư doanh, làm cho chúng phát triển lành mạnh… Cần kiện
toàn pháp chế về tài sản, dựa vào luật pháp để bảo hộ lợi ích hợp pháp và
cạnh tranh công bằng của các doanh nghiệp, đồng thời giám sát, quản lý
chúng".
g. Về bình đẳng quyền lợi và cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế
Bảo đảm quyền lợi hợp pháp và cạnh tranh công bằng của các loại
doanh nghiệp. Các học giả Trung Quốc cho rằng kinh tế thị trường là nền
"kinh tế pháp trị" và là nền "kinh tế cạnh tranh". Tất cả các doanh nghiệp đi
vào thị trường đều phát đáp ứng yêu cầu của quy luật giá trị, thích ứng với sự
thay đổi của quan hệ cung cầu, kinh doanh theo luật pháp, cạnh tranh một
cách công bằng. Do vậy, phải thực sự khắc phục tình trạng bất công giữa các
doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp tư nhân, khắc phục tình trạng
doanh nghiệp nhà nước bị gắn chặt với sự can thiệp của chính quyền, quản lý
kém hiệu quả, kinh doanh thua lỗ và được nhà nước trợ cấp bù lỗ. Phải thực
sự tôn trọng quy luật cạnh tranh bình đẳng: tốt thì tồn tại phát triển, xấu thì sẽ
bị đào thải.
h. Về nguyên tắc phân phối thu nhập
Nguyên tắc phân phối theo lao động làm chủ thể, đồng thời thực hiện

các hình thức phân phối khác, kết hợp phân phối theo lao động với phân phối
theo yếu tố sản xuất, cho phép các yếu tố sản xuất như tiền vốn, kĩ thuật tích
cực tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh và phân phối lợi nhuận. Phải
xây dựng một cơ chế phân phối thu nhập vừa ưu tiên hiệu quả, vừa bảo đảm
sự công bằng. Sự kết hợp giữa hiệu quả và công bằng là yêu cầu của kinh tế
thị trường XHCN, hai mặt đó vừa thúc đầy lẫn nhau vừa ràng buộc lẫn nhau.
Nguyên tắc ưu tiên hiệu quả là phân phối theo số lượng, chất lượng, hiệu quả
21


lao động của người lao động, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không
làm không hưởng; là phân phối lợi nhuận cho những chủ đầu tư tiền vốn và
các yếu tố sản xuất khác, đầu tư nhiều hưởng lợi nhiều, đầu tư ít hưởng lợi ít,
không đầu tư không được hưởng. Nguyên tắc đảm bảo công bằng là bảo hộ
thu nhập hợp pháp, ngăn chặn thu nhập phi pháp, chỉnh đốn thu nhập không
hợp lý, điều tiết thu nhập quá cao, đảm bảo mức sống tối thiểu cho những
người thu nhập thấp, có chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp với tình hình cụ thể
của đất nước ( bảo hiểm tuổi già, bảo hiểm y tế, trợ cấp thất nghiệp…)
Trên đây là những nội dung chủ yếu về quan điểm và chủ trương cải
cách thể chế kinh tế ở Trung Quốc được khẳng định trong Đại hội XV của
Đảng cộng sản Trung Quốc. Những quan điểm đó được đánh giá là bước đột
phá mới về lý luận trong quá trình cải cách. "Bước đột phá" đó không phải
xuất hiện một cách đột ngột, mà là sự tổng kết cảu Đảng và Nhà nước Trung
Quốc về quá trình cải cách kinh tế, nhất là từ khi khẳng định mục tiêu thiết
lập nền kinh tế thị trường. Đó cũng là sự tổng kết cuộc tranh luận diễn ra
tương đối gay gắt và phức tạp ở Trung Quốc về bản chất của chủ nghĩa xã hội
và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Toàn bộ các quan điểm trên đây được hình thành trên cơ sở quan điểm
về bản chất của chủ nghĩa xã hội và lý luận về xây dựng CNXH mang đặc sắc
Trung Quốc của Đặng Tiểu Bình được Đại hội XV của Đảng cộng sản Trung

Quốc khẳng định trong cương lĩnh của Đảng ngang tầm với chủ nghĩa Mác Lê
nin và tư tưởng Mao Trạch Đông. Những năm cuối đời, Đặng Tiểu Bình chỏ
ằng, bản chất của CNXH là giải phóng sức sản xuất xã hội, phát triển sức sản
xuất, tiêu diệt bóc lột, xóa bỏ phân hóa 2 cực, cuối cùng đi đến giầu có; nhiệm
vụ trung tâm cơ bản nhất của CNXH ở Trung Quốc phải phát huy mọi tiềm
năng của các thành phần kinh tế để phát triển sức sản xuất.
2.2.2. Cải cách thể chế chính trị
Cải cách thể chế chính trị là một phương diện quan trọng trong chiến
lược cải cách nói chung của Trung Quốc. Tuy nhiên, nội dung của cải cách thể
22


chế chính trị rất phức tạp, nó khônbg những có liên quan đến quyền lực và lợi
ích của nhiều người mà còn là một vấn đề nhạy cảm,rất dễ gây nên tranh luận.
Trogn tiến trình cải cách của Trung Quốc mấy chục năm qua, cải cách về kinh
tế có nhiều thuận lợi và đặt được nhiều thành tựu., nhưng cải cách chính trị thì
lại chậm chạp và có nhiều khó khăn.
Tuy nhiên các nhà lãnh đạo Trung quốc nhận thấy một điều là, nếu chỉ
tiến hành cải cách thể chế kinh tế, không tiến hành cải cách thể chế chính trị thì
cải cách kinh tế cũng rất khó thành công. Đặng Tiểu Bình từng nói: “Chỉ cách
cái thể chế kinh tế, không cải cách thể chế chính trị, cải cách thể chế kinh tế sẽ
không thông, bởi vì trước tiên nó gặp phải sự cản trở của con người. Công việc
phải do con người thực hiện, anh đề ra hạ phóng quyền lực, nhưng người ta lại
thâu tóm quyền lực, vậy thì anh có tư cách gì? Tức góc độ này mà nói, mọi cải
cách của chúng ta cuối cùng rồi sẽ không thành công, vẫn là do cải cách thể chế
chính trị quyết định”.
Trước khi Đại hội 15 diễn ra, ý tưởng về cải cách thể chế chính trị đã
được Đặng Tiểu Bình thể hiện trong bài nói chuyện của ông tại Hội nghị mở
rộng Bộ Chính trị Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc ngày 31 tháng 8
năm 1980. Lúc này ông chưa dùng khái niệm cải cách thể chế chính trị mà

dùng là cải cách chế độ lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Những tư tưởng này của
ông đã được quán triệt trong Báo cáo chính trị của Đại hội XII Đảng cộng sản
Trung Quốc, nêu rõ: Cải cách thể chế lãnh đạo, cơ cấu lãnh đạo Đảng và Nhà
nước chủ yếu là xóa bỏ các căn bệnh như tình trạng quyền lực quá tập trung,
kiêm chức và chức phó quá nhiều, cơ cấu trùng lặp, chức trách không rõ ràng,
người nhiều hơn việc, Đảng và chính quyền không tách rời…; khắc phục chủ
nghĩa quan liêu và nâng cao hiệu suất công tác.
Từ đó về sau, cải cách thể chế chính trị được thảo luận, tuyên truyền
công khai và từ năm 1986 đến 1988 đã phát triển thành cao trào. Tuy nhiên,
sau sự kiện Thiên An Môn mùa hè năm 1989 đã giáng một đòn mạnh vào
công cuộc cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc.
23


Tóm lại, từ sau Hội nghi trung ương 3 khóa XI (1978) đến trước đại hội
XV Đảng Cộng sản Trung Quốc, công cuộc cải cách mở cửa và xây dựng hiện
đại hóa ở Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu. Nhưng về chính trị thì sự
trì trệ đã thể hiện ngày một rõ. Các nhà khoa học Trung Quốc cho rằng, muốn
thúc đẩy cải cách chính trị thì cần phải giải quyết 4 mối quan hệ lớn là :
+ Quan hệ giữa ĐCS với các đảng phải dân chủ khác
+ Quan hệ giữa ĐCS với Đại hội đại biểu nhân dân
+ Quan hệ giữa Đảng với chính quyền
+ Quan hệ giữa Chính quyền với xí nghiệp.
Đến Đại hội XV, vấn đề cải cách được đề cập một cách rõ nét hơn. Đại
hội XV diễn ra trong hoàn cảnh thể chế kinh tế của Trung Quốc có những
thay đổi về cơ bản, một bộ phận thuộc thượng tầng kiến trúc của thế chế
chính trị cũng đã có những thay đổi nhất định, nhưng vẫn chưa thực sự thích
ứng với hạ tầng kinh tế. Vì vậy , muốn cho cải cách thể chế kinh tế tiếp tục đi
sâu thì phải thúc đẩy cải cách thể chế chính trị. Báo cáo chính trị của Đại hội
XV nhấn mạnh: "sự phát triển xuyên thế kỉ, đi sâu cải cách kinh tế và xây

dựng hiện đại hóa XHCN… yêu cầu chúng ta tiếp tục thúc đẩy cải cách thể
chế chính trị , mở rộng hơn nữa dân chủ XHCN, kiện toàn pháp chế XHCN,
dựa vào luật để trị nước, xây dựng nhà nước pháp chế XHCN"
Báo cáo cũng chỉ rõ, "trong thời gian hiện nay và sau này, nhiệm vụ
chủ yếu của cải cách thể chế chính trị là phát triển dân chủ, tăng cường pháp
chế, thực hiện tách rời chính quyền với xí nghiệp, tinh giản cơ cấu, hoàn thiện
chế độ giám sát dân chủ, giữ vững đoàn kết ổn định". Sau đây là một số nội
dung chính của cải cách thể chế chính trị được nêu lên trong báo cáo chính trị
của Đại hội XV
a. Về kiện toàn chế độ dân chủ
Báo cáo chính trị của Đại hội XV nêu rõ:
- Một là phải kiên trì hoàn thiện chế độ Đại hội đại biểu nhân dân, Đây
thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa Đảng với cơ quan quyền lực nhà
24


nước. Hiến pháp Trung Quốc đã quy định: Trung Quốc là nước XHCN
chuyên chính dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo lấy liên minh
công nông làm nền tảng. Họ gọi đây là chính thể. Còn hình thức tổ chức chính
quyền chuyên chính dân chủ nhân dân là chế độ Đại hội đại biểu nhân dân,
được gọi là quốc thể. Chính thể phản ánh thực chất của nhà nước, còn quốc
thể thể hiện hình thức tổ chức của nhà nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng CS,
nhân dân thông qua Đại hội đại biểu nhân dân các cấp thực hiện quyền lực
nhà nước. Báo cáo chính trị khẳng định: Đại hội đại biểu nhân dân phải tăng
cường công tác lập pháp và giám sát, liên hệ mật thiêys với nhân dân.
- Hai là, kiên trì chế độ Hiệp thương chính trị và hợp tác nhiều đảng
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Đây chính là giải pháp nhằm giải quyết
mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với các đảng phái dân chủ khác ở Trung
Quốc hiện nay. Báo cáo chính trị lần này nêu rõ: cần tiếp tục kiên trì phương
châm "cùng tồn tại lâu dài, giám sát lẫn nhau, vinh nhục cùng chịu"; đồng

thời nhấn mạnh phải "tiếp tục thúc đẩy quy phạm hóa chế độ hóa hiệp thương
chính trị, giám sát dân chủ, tham gia nghị chính của tổ chức Chính hiệp nhân
dân làm cho nó trở thành quỹ đạo quan trọng để Đảng đoàn kết với các giới"
- Ba là, củng cố và phát triển mặt trận thống nhất yêu nước rộng
rãi,trong đó có chính sách đối với dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách
kiều vụ… Đồng thời phát huy vai trò của các đoàn thể quần chúng như công
đoàn, thanh niên , phụ nữ,,,, để những tổ chức này trở thành sợi dây và nhịp
cầu nối liền Đảng với quần chúng nhân dân.
Trong 3 mối quan hệ nêu trên, thì việc xử lý mối quan hệ giữa Đảng với
Đại hội đại biểu nhân dân, giữa Đảng Cộng sản với các đảng phái dân chủ khác
là điều quan trọng nhất, nếu không xử lý tốt thì sẽ rơi vào "hữu khuynh". Những
điều được nhấn mạnh trong báo cáo chính trị lần này nói lên rằng, địa vị lãnh
đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với đất nước này không thể
thay đổi, họ sẽ quyết không thực hiện chế độ đa đảng, chế độ nghị viện và tự do
hóa tư sản như của phương Tây.
25


×