1
LUẬN VĂN
THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
2
LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay ,nền kinh tế của toàn thế giới có nhiều sự thay đổi ,các quố
gia dần chuyển mình để hoà nhập với xu thế toàn cầu hoá .Cùng với sự phát
triểncủa nền kinh tế có nhiều vấn đề bất cập xảy ra .Một trong những vấn đề
luôn song hành với nền kinh tế đặc biệt là với thị trường tài chính tiền tệ là
lạm phát .Lạm phát là một trong những vấn đề kinh tế vĩ mô đã trở thành
mối quan tâm lớn nhất của các nhà chính trị và của cả công chúng .Lạm phát
được coi như là một căn bệnh thế kỉ của nền kinh tế thị trường ,nó là một
vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ
mới có thẻe đạt được kết quả khả quan nhất .Lạm phát ảnh hưởng đến toàn
bộ nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là giới lao động,chống lạm phát không chỉ
là việc của doanh nghiệp ,của một cá nhân mà còn là nhiệm vụ của chính
phủ.
Ở Việt Nam,hiện nay về việc kiềm chế lạm phát, giữ vững sự phát
triển ổn định của nền kinh tế là một mục tiêu quan trọng trong việc phát
triển kinh tế xã hội ,nâng cao đời sống nhân dân .
Thật vậy ,vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm, nghiên cứu
và cũng đưa ra phương pháp khắc phục nhằm kiểm soát được lạm phát. Từ
lâu ,tiền giấy xuất hiện và sau một thời gian sẽ diễn ra tình trạng giảm giá
tiền và dẫn đến lạm phát .Nét đặc trưng cơ bản nền kinh tế thị trường khi có
lạm phát là giá cả của hầu hết các hàng hoá đêù tăng cao và sức mua của
đồng tiền ngày càng giảm nhanh .
Nhìn lại lịch sử lạm phát, từ cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 20 ở nước
ta lạm phát diễn ra kéo dài và nghiêm trọng .Lạm phát đã phá vỡ toàn bộ kế
hoạch của nền kinh tế ,phương hại đến tất cả các mối quan hệ trong nền kinh
tế xã hội .
3
PHẦN I :LÝ THUYẾT CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1- CÁC KHÁI NIỆM VỀ LẠM PHÁT :
Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường ,nó xuất
hiện khi các yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hoá không được tôn trọng
,nhất là quy luật lưu thông tiền tệ .Ở đâu còn sản xuất hàng hoá ,còn tòn tại
những quan hệ hàng hoá tiền tệ thì ở đó còn tiềm ẩn khả năng xảy ra lạm
phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi
phạm .Lạm phát đã trở thành mối quan tâm của rất nhiều người .Do đó lạm
phát được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiêm cứu của các nhà
kinh tế .Mỗi người đều đưa ra khái niệm về lạm phát theo quan điểm
,phương hướng nghiên cứu của mình .
- Trong bộ tư bản nổi tiếng của mình ,Các Mác viết :”Việc phát hành tiền
giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các
đại diện tiền giấy của mình “.Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy
do Nhà nước phát hành vào lưu thông vượt qua số lượng vàng mà nó đại
diện thì giá trị của tiền giấy giảm xuống ,giá cả tăng vọt và tình trạng lạm
phát xuất hiện .
Từ đây ,ông cho rằng lạm phát là “bạn đường “của chủ nghĩa tư
bản.Không những chủ nghĩa tư bản bóc lột người lao động bằng giá trị
thặng dư mà còn gây ra lạm phát giảm tiền lương của người lao động.
- Nhà kinh tế học Samuelson cho rằng :”lạm phát xảy ra khi mức
chung của giá cả và chi phí tăng – giá bánh mì ,dầu xăng ,xe ô tô tăng ,tiền
lương ,giá đất, tiền thuê tư liệu sản xuất tăng “.Ông thấy rằng lạm phát chính
là biểu thị sự tăng lên của giá cả .
- Còn Milton Friedman lại quan niệm khác :”Lạm phát là việc giá cả
tăng nhanh và kéo dài “.Ông cho rằng lạm phát là một hiện tượng tiền tệ .
Một số nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ và phái Keynes đều tán thành
ý kiến đó của Friedman.Họ cho rằng khi thị trường tiền tệ phát triển ,ảnh
4
hưởng đến nền kinh tế quốc dân của mỗi nước thì lạm phát có thể xảy ra bất
kì thời điểm nào .Nó chính là một hiện tượng tất yếu của taì chính – tiền tệ
.
- Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa
ra và nó đựoc sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường :”Lạm
phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian“.
- Lạm phát được đo bằng chỉ số giá cả :
+ Chỉ số giá cả được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu
dùng CPI (Consumer Price Index) .CPI tính chi phí của một giỏ hàng tiêu
dùng và dịch vụ trên thị trường .Để tính CPI ,ta dựa vào tỷ trọng của phần
chi cho từng mặt hàng trong tổng chi tiêu cho tiêu dùng của thời kì có lạm
phát .
+ Một chỉ số nữa thường được sử dụng là chỉ số giá cả sản xuất (PPI:
Producer Price Index) ,đây là chỉ số giá bán buôn .PPI dùng để tính giá cả
trong lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn định
Ip = ip.d
ip:chỉ số giá của từng loại nhóm hàng
d:tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng
+ Ngoài 2 chỉ số trên ,chỉ số GNP cũng được sử dụng .Đây chính là
chỉ số giảm phát ,chỉ số giá cả cho toàn bộ NGP :chỉ số giảm phát GNP =
GDP danh nghĩa / GDP thực tế.
2) PHÂN LOẠI LẠM PHÁT :
Có nhiều cách đẻ phân loại lạm phát .Dựa trên các tiêu thức khác
nhau sẽ có các loại lạm phát khác nhau .
a) Căn cứ vào định lượng gồm:
- Lạm phát vừa phải :Còn gọi là lạm phát một con số ,có tỷ lệ lạm
phát dưới 10% một năm .Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương
đối. Trong thời kì này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường ,đời sống
của người lao động ổn định .Sự ổn định đó được biểu hiện : Giá cả tăng
5
chậm ,lãi xuất tiền gửi không cao ,không xảy ra tình trạng mua bán và tích
trữ hàng hoá với số lượng lớn …
Có thể nói đây là mứclạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được ,những
tác động của nó là không đáng kể .Mặt khác ,lạm phát vừa phải tạo tâm lý
an tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập .Trong thời gian này
,các hãng kinh doanh có khoản thu ổn định ,ít rủi ro và sẵn sàng đầu tư cho
sản xuất kinh doanh .
- Lạm phát phi mã : lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh
với tỷ lệ 2 con số 1 năm . Ở mức 2 con số thấp :11,12% thì nói chung các
tác động tiêu cực không đán kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được.
Nhưng khi tăng đến hai chữ số cao thì lạm phát sẽ làm cho giá cả chung tăng
lên nhanh chóng ,gây biến động lớn về kinh tế ,các hợp đồng được chỉ số
hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá ,vàng bạc ,bất động sản và không
bao giờ cho vay tiền ở mức lãi xuất bình thường .Như vậy lạm phát sẽ làm
ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó
không nhỏ .Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ổn
định của nền kinh tế
- Siêu lạm phát : 3 con số một năm xảy ra khi lạm phát đột biến tăng
lên với tốc độ rất nhanh ,tỷ lệ lạm phát cao .Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát
vượt xa lạm phát phi mã ,nó như một căn bệnh chết người ,tốc độ lưu thông
tiền tệ tăng kinh khủng ,giá cả tăng nhanh và không ổn định ,tiền luơng thục
tế của người lao động bị giảm mạnh ,tiền tệ mất giá nhanh chóng ,thông tin
không còn chính xác ,các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động sản xuất
khin doanh lâm vào tình trạng rối loạn ,mất phương hướng .Tóm lại ,siêu
lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng
.Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra .
b) Căn cứ vào định tính :
- Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng .
6
* Lạm phát cân bằng : Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của
người lao động ,tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp .Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của
người lao động và dến nền kinh tế nói chung.
* Lạm phát không cân bằng :Tăng không tương ứng với thu nhập của
người lao động.Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra .
-Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường
* Lạm phát dự đoán trước : là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong
một thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn .Loại lạm phát
này có thể dự đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo.Về mặt
tâm lý ,người dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị
trước.Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống ,đến kinh tế .
* Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất
hiện .Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý ,đời sống người dân vì họ
chưa kịp thích nghi .Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với
nền kinh tế và niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút
Trong thực tế lịch sử của lạm phát cho thấy lạm phát ở nước ta đang
phát triển thường diễn ra trong thời gian dài ,vì vậy hậu quả của nó phức tạp
và trầm trọng hơn .Và các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ lệ
khác nhau : lạm phát kinh liên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới
50% một năm ,lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ
lạm phát trên 50% và siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát
trên 200% một năm .
3. TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT :
Lạm phát có nhiều loại,cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng của
lạm phát đối với nền kinh tế .Xét trên góc độ tương quan ,trong một nền
kinh tế lạm phát là một nỗi lo của toàn xã hội và ta cũng thấy được các tác
động của nó .
a) Tác động đến lĩnh vực sản xuất :
7
Ở vị trí các nhà sản xuất ,khi tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu
vào và đầu ra biến động không ngừng gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình
sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm cho vô hiệu hoá hoạt động hoạch
toán kinh doanh .Hiệu quả sản xuất – kinh doanh ở một vài doanh nghiệp có
thể thay đổi gây ra những biến động về kinh tế .Nếu một doanh nghiệp nào
đó có tỷ xuất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
Tuy nhiên ,xét ở góc độ nào đó ,khi tỷ lệ lạm phát thấp ,không gây
ảnh hưởng đến kinh tế thì có thể sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế .Từ đó sẽ
khuyến khích các doanh nghiệp đi vay để mở rộng sản xuất ,sản lượng sẽ
tăng lên .Ngoài ra cũng khuyến khích tiêu dùng ,cầu tiêu dùng tăng lên ,do
đó hàng hoá bán chạy và cũng làm sản lượng tăng .
b) Đối với lĩnh vực lưu thông:
Lạm phát tăng lên cao thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan
hiếm hàng hoá .Lúc này những người thừa tiền và giàu có dùng tiền của
mình để vơ vét và thu gom hàng hoá ,tài sản ,tình trạng này càng làm mất
cân đối nghiêm trọng quan hệ cung – cầu hàng hoá trên thị trường giá cả
hàng hoá tăng lên nhiều hơn .
Ngoài ra khi tỷ lệ lạm phát khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh
vực sản xuất sẽ gặp phải những rủi ro cao .Do có nhiều người tham gia vào
lĩnh vực lưu thông lên lĩnh vực này trở lên hỗn loạn .Tiền vừa ở trong tay
người bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông ,tốc đọ lưu
thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng .
c) Đối với lĩnh vực tiền tệ ,tín dụng:
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng ,thương mại và ngân hàng bị thu
hẹp .Số tiền người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều do giá trị đồng
tiền bị giảm xuống .Về phía hệ thống ngân hàng ,do lượng tiền gửi vào ngân
hàng giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay ,cộng
với việc sụt giá quá nhanh của đồng tiền ,sự điều chỉnh lãi suất tiền gưỉ
không làm an tâm những cá nhân ,doanh nghiệp hiện đang có lượng tiền mặt
8
nhàn rỗi trong tay.Như vậy ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động
vốn ,hệ thống ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì mứclãi suất ổn định .Mà
lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát ,khi tỷ lệ lạm phát tăng
cao ,muốn lãi suất thực ổn định thì lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng
với tỷ lệ lạm phát .
Trong khi đó người đi vay là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá
đồng tiền nhanh chóng .Do vậy hoạt động của hệ thống Ngân hàng không
còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiềntệ bị hạn chế, không
cònnguyên vẹn bởi khi có lạm phátthì chẳng có ai tích trữ tiền mặt dưới hình
thức tiền mặt.
d) Tác động đến cán cân ngân sách – chính sách tài chính của nhà
nước :
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá,
khi lạm phát xảy ra thì những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động
của giá cả và làm cho thị trường bị rối loạn. Khi đó người ta khó phân biệt
được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời làm cho nhà nước
thiếu vốn, các khoản thu cho ngân sách nhà nước không tăng. Do đó, nhà
nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã
hội, các nghành, các lĩnh vực dự định được chính phủ đầu tư hỗ trợ vốn bị
thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì
các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều
kiện để thực hiện.
4. NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT :
a) Lạm phát do cầu kéo :
Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung – cầu. Nguyên nhân
chính là do tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc
tăng không kịp.
Việc tăng cung ứng tiền tệ là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc tăng
cầu về hàng hoá và dịch vụ. Nhưng đây không phải là nguyên nhân duy nhất
9
làm tăng cầu. Áp lực lạm phát sẽ tăng sau từ 1 đến 3 năm, nếu cầu về hàng
hoá vượt quá mức cung, song sản xuất vẫn không được mở rộng hoặc do sử
dung máy móc với công suất giới hạn hoặc vì nhân tố sản xuất không đáp
ứng được sự ra tăng của cầu. Sự mất cân đối sẽ được giá cả lấp đầy từ đó
mà lạm phát do cầu tăng lên (lạm phát do cầu kém xuất hiện. Chẳng hạn như
ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc là một chỉ số có ích phản ánh lạm phát
trong tương lai ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc trên 83% dẫn tới lạm phát
tăng
2
Lúc đầu nền kinh tế đạt ở mức cân bằng tại điểm 1 .Khi các nhà hoạch
định chính sách muốn có một tỷ lệ thất nghiệp dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên , họ sẽ đưa ra những biện pháp nhằm đạt được chỉ tiêu sản lượng lớn
hơn mức sản lượng tiềm năng (Yt > Yn).Từ đó sẽ làm tăng tổng cầu và
đường tổng cầu sẽ dịch chuyển đến AD2 nền kinh tế chuyển đến điểm 1’
.Lúc này sản lượng đã đạt tới mức Yt lớn hơn sản lượng tiềm năng và mục
tiêu của các nhà hoạch định chính sách đã thực hiện được .
Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp thực tế thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
nên tiền lương tăng và đường tổng cung sẽ di chuyển đến AS2 ,đưa nền kinh
tế từ điểm 1’ sang 2’ .Nền kinh tế quay trở về mức sản lượng tiềm năng và
tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng ở một mức giá cả P2 > P1 .Lúc này tỷ lệ
thất nghiệp lại cao hơn mục tiêu ban đầu .Do đó các nhà hoạch định chính
AS
3
AS
2
3
2'
AS
1
AD
3
AD
2
AD
1
Y
(Tổng sản phẩm)
Y
t
Y
n
1'
1
P
P
3
P
2
P
1
0
(Tổng mức giá)
10
sách lại tìm cách làm tăng tổng cầu .Quá trình này cứ tiếp diễn và đẩy giá cả
trong nền kinh tế lên cao hơn .
b) Lạm phát do chi phí đẩy :
Hình thức của lạm phát do chi phí đẩy phat sinh từ phía cung ,do chi
phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng .Điều này chỉ có
thể đạt trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả
với giá cao hơn .Ví dụ : Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi
phí sản xuất và dịch vụ và nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng xuất lao
động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên .Nếu nhà sản xuất có thể chuyển
việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên ,công nhân
và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước đẻ phù hợp với chi phí
sinh hoạt taưng lên điều đó tạo vòng xoáy lượng giá .
Một yếu tố chi phí khác là giá cả nguyên nhiên vật liệu tăng do tỷ giá
tăng hợac khả năng khả thác hạn chế.Một ví dụ điển hình cho thấy giá cả
nguyên nhiên vật liệu là giá dầu thô tăng .Trong năm 1972-1974 hầu như
giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát tăng từ 4,6% đến 13,5% bình
quân trên qoàn thế giới .Ngoài ra sự suy sụp của giá dầu (1980) làm cho lạm
phát giảm xuống mức thấp chưa từng thấy .
Bên cạnh đó giá cả nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu dùng nội
địa cũng là một yếu tố gaay lên lạm phát .Nhập khẩu càng trở lên đắt đỏ khi
đồng nội tệ yếu đi hợac mất giá so với đồng tiền khác
c) Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thuộc phía tiền tệ ,khi cung
tiền tệ tăng lên kéo dài làm cho mức giá tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát
.Có thể thấy ngưỡng tăng cung tiền để gây lạm phát là nền kinh tế toàn dụng
.Khi nền kinh tế chưa toàn dụng thì nguồn nguyên nhiên vật liệu còn nhiều
,chưa khai thác nhiều .Có nhiều nhà máy xí nghiệp bị đóng cửa chưa đi vào
hoạt động .Do đó nhân viên nhàn rỗi lớn và tỷ lệ thất nghiệp cao … Trong
trường hợp này ,khi tăng cung tiền thì dẫn đến lãi xuất giảm đến một mức độ
11
nào đó ,các nhà đầu tư thấy rằng có thể có lãi và đầu tư tăng nhiều.từ đó các
nhà máy ,xí nghiệp mở cửa để sản xuất ,kinh doanh .Lúc này nguyên nhiên
vật liệu bắt đầu được khai thác ,người lao động có việc làm và sản lượng
tăng lên .
Ở nền kinh tế toàn dụng ,các nhà máy ,xí nghiệp được hoạt động hết
công suất ,nguồn nguyên nhiên vật liệu được khai thác tối đa .Khi đó lực
lượng lao động được sử dụng một cách triệt để và làm sản lượng tăng lên rất
nhiều.Tuy nhiên tình hình sẽ dẫn đến một vài kênh tắc nghẽn trong lưu
thông .Chẳng hạn khi các nhà máy ,xí nghiệp hoạt động hết công suất sẽ dẫn
đến thiếu năng lượng ,thiếu lao động ,nguyên vật liệu dần bị han hiếm
…Vai trò của chính phủ và các nhà quản lý phải xác định được kênh lưu
thông nào bị tắc nghẽn và tìm cách khơi thông nó .Nếu không sẽ gây ra lạm
phát.Lúc đó sản lượng không tăng mà giá cả tăng nhiều thì lạm phát tất yếu
sẽ xảy ra .
Trong việc chống lạm phát các Ngân hàng trung ương luôn giảm sút
việc cung tiền .
Trường hợp tăng cung tiền có thể đạt được bằng hai cách :
Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi xuất thấp và điều
kiện kinh doanh tốt ) hợac các ngân hàng thương mại có thẻ tăng tín dụng
.Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí
.Về mặt trung và dài hạn ,điều đó dẫn đến cầu và hàng hoá và dịch vụ tăng
.Nếu cung không tăng tương ứng với cầu thì việc dư cầu sẽ được bù đắp
bằng việc tăng giá.Tuy nhiên giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng
sau đó 2-3 năm .In tiền để trợ cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm
phát nghiêm trọng .Ví dụ năm 1966-1967 ,chính phủ Mỹ đã sử dụng việc
tăng tiền để trả cho những chi phí leo thang của cuộc chiến tranh taị Việt
Nam ,lạm phát tăng từ 3%(năm 1967) đến 6% (năm 1970).
Xét trong dài hạn lãi xuất thực tế (i) và sản lượng thực tế (Y) đạt mức cân
bằng ,nghĩa là (i) và (Y) ổn định .Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P
12
cũng không đổi .Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ
tăng lên với tỷ lệ tương ứng .Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ .Đây
cũng chính là lý do tại sao Ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến nguyên
nhân này.
d) Các nguyên nhân khác
Ngoài các nguyên nhân chủ yếu đã đề cập ở trên ,một số các nguyên
nhân khác cũng gây ra lạm phát .Thứ nhất có thể kể đến là tâm lý của dân cư
.Khi người dân không tin tưởng vào đồng tiền của Nhà nước ,họ sẽ không
giữ tiền mà đẩy vào lưu thông bằng việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư
vào một lĩnh lực kinh doanh nào đó … Như thế cầu sẽ tăng lên mà cung cấp
không đáp ứng được cân bằng cung cầu trên thị trường hang hoá không còn
nữa và tiếp tục đẩy giá lên cao ,từ đó lạm phát sẽ xảy ra .Có thể thấy giá cả
tăng lên làm tiêu dùng tăng ,cứ như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát.Thứ hai
thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng
tiền tệ và gây ra lạm phát cao.
Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì có thể khắc
phục bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ đẻe vay vốn từ người dân
nhằm bù đắp phần thiếu hụt .Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số
tiền và do vậy mà làm tăng mức cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát
.Tuy nhiên khi sự thâm hụt trầm trọng và kéo dài thì chính phủ phải áp dụng
biện pháp in tiền.Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ làm
tăng mức cung ứng tiền ,đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm
phát .TUy nhiên,đối với các nước đang phát triển ,việc phát hành trái phiếu
chính phủ gặp nhiều khó khăn vì nguồn vốn trên thị trường còn hạn chế
.Biện pháp in tiền được coi là có hiệu quả nhất .Vì thế mà khi thâm hụt ngân
sách càng nhiều và càng kéo dài thì tiền tệ sẽ tăng theo và tỷ lệ gây lạm phát
càng lớn.
Còn đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc phát
hành trái phiếu có lợi hơn.Nhưng việc phát hành này kéo dài sẽ làm cầu về
13
vốn sẽ tăng và lãi xuất tăng cao hơn .Lúc này để giảm lãi xuất trên thị
trưòng Ngân hàng Trung ương lại phải mua vào các trái phiếu đó .Như thế
mức cung tiền lại tăng lên và dễ gây lạm phát.
Tóm lại , nếu như thâm hụt ngân sách kéo dài thì trong mọi trường
hợp vẫn làm tăng cung tiền và lạm phát xảy ra là một điều chắc chắn.
Một nguyên nhân nữa có thể gây ra lạm phát là tỷ giá hối đoái .Khi tỷ
giá tăng đồng bản tệ sẽ bị mất giá Khi đó tâm lý những người sản xuất trong
nước muốn đẩy giá hàng lên tương ứng với mức tăng tỷ giá hối đoái .Mặt
khac khi tỷ giá hối đoái tăng ,chi phí cho các nguyên vật liệu ,hàng hoá nhập
khẩu sẽ tăng lên .Do đó giá cả của các hàng hoá này tăng lên cao.Đây chính
là lạm phát do chi phí đẩy
Bên cạnh đó các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước
,chính sách thuế ,chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý ,mất cân đối cũng
xảy ra lạm phát.
5. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC LẠM PHÁT
Khi lạm phát tăng cao và kéo dài sẽ gây ra những hậu quả lớn ,ảnh
hưởng trầm trọng đến đời sống nhân dân lao động và sự tăng trưởng kinh tế.
Ở mỗi nước tỷ lệ lạm phát khác nhau với những nguyên nhân và tác động
khác nhau .Do đó chính phủ ở các nước sẽ có những biện pháp khác nhau .
Tuỳ vào từng hoàn cảnh cụ thể chính phủ sẽ áp dụng biện pháp tình thế và
các biện pháp có tính chiến lược .
Từ lịch sử chống lạm phát ở các nước sẽ có những biện pháp điển
hình sau:
- Những biện pháp tình thế: là những biện pháp áp dụng nhằm làm
giảm tức thời cơn sốt lạm phát
Đầu tiên biện pháp tình thế mà các nước thường áp dụng là giảm
lượng tiền cung ứng trong lưu thông .Đây được gọi là biện pháp thắt chặt
lượng cung tiền tệ hay còn gọi là đóng bảng tiền tệ .Cụ thể là Ngân hàng
trung ương ngừng thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối
14
với các tổ chức tín dụng ,dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên
thị trường tiền tệ ,không phát hành tiền đề bù đắp bội chi ngân sách nhà
nước .Bên cạnh đó ,đểlàm giảm lượng tiền cung ứng thì ngân hàng trung
ương sẽ bán các chứng khoán ngắn hạn ,bán ngoại tệ ,phát hành các công cụ
nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế .Và ngân hàng cũng có thể ấn
định mức lãi xuất cao ,từ đó sẽ khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân
hàng ,doanh nghiệp gửi tiền không kì hạn ,dẫn đến lượng tiền trong lưu
thông giảm.
Tiếp đến ,đẻ khắc phục lạm phát chính phủ có thể sử dụng biện pháp
thắt chặt chi tiêu của mình như giảm cầu tiêu dùng của chính phủ ,làm giảm
sự tăng nhanh của tổng cầu .Nhà nước cũng có thể hạn chế tăng tiền lương
làm giảm lượng cầu chi tiêu của dân cư.Ngoài ra chính phủ có thể đi vay và
xin viện trợ từ nước ngoài… Một biện pháp nữa được áp dụng là cải cách
tiền tệ khi tỷ lệ lạm phát tăng quá cao trong khi các biện pháp nêu trên chưa
đạt được hiệu quả.
- Cùng với những biện pháp tình thế ,các nước còn sử dụng các biện
pháp chiến lược nhằm tác động đến sự phát triển lâu dài của nền kinh tế và
làm cho cơ số tiền tệ ổn định bền vững .Đó là các biện pháp :
Đẩy mạnh quá trình sản xuất hàng hoá ,mở rộng lưu thông hàng hoá
.Hàng hoá trong nước ngày càng nhiều ,quỹ hang tăng lên với số lượng
,chủng loại đa dạng phong phú .Ngoài ra chính phủ còn nhập hàng hoá về để
bổ xung cho hàng hoá thiếu hụt trong nước .Xuất kho dự trữ vàng và ngoại
tệ để bán cho dân chúng ,phát triển các ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu
và ngành du lịch .
Các doanh nghiệp thực hiện chiến lược cạnh tranh hoàn hảo :Sản
phẩm để người tiêu dùng chấp nhận được là yếu tố quan trọng .Như vậy cần
phải cạnh tranh giá cả bằng việc tìm mọi cách giảm chi phí .
Biện pháp chiến lược khác là kiện toàn bộ máy hành chính ,cắt giảm biên
chế quản lý hành chính .Điều này sẽ làm giảm mức chi tiêu thường xuyên
15
của Ngân sách nhà nước .Mặt khác cần phải tăng cường công tác quản lý
điều hành Ngân sách nhà nước dựa trên việc tăng các khoản thu cho Ngân
sách một cách hợp lý chống thất thu như thất thu về thuế và điều chỉnh các
khoản chi p
PHẦN II
THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
1. THỰC TRẠNG VÀ LỊCH SỬ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM.
Từ năm 1980 trở về trước, lạm phát cũng đã tồn tại của nó không
công khai, các nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam không sử dụng khái
niệm lạm phát mà chỉ sử dụng cụm từ “ chênh lệch giữa thu và chi giữa
hàng và tiền" "Thị trường vật giá không ổn định…”
Sau một thời gian, lạm phát đã bộc phát công khai với mức bộc phát
phi mã. Đảng đã kịp thời nhận định tình hình này.
“ Chúng ta chưa có chính sách cơ bản về tài chính gắn liền với chính
sách đúng đắn về giá cả, tiền tệ, tín dụng. Các khoản chi ngân sách mang
nặng tính bao cấp và một thời gian dài vượt quá nguồn thu. Việc sử dụng
vốn vay và viện trợ kém hiệu quả. Tất cả những cái đó gây ra thâm hụt ngân
sách là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thâm hụt ngân sách trầm trọng “.
Trong điều hành vĩ mô phát triển nền kinh tế, mọi quốc gia trên thế giới
đều phải quan tâm tới chính sách tài chính, tiền tệ để chống lạm phát. Đối
với nước ta hiện nay, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả đang là một vấn đề
lớn đặt ra trong điều hành của chính phủ, của các nhà quản lý vì sự phát
triển và ổn định. Và về phương diện này, Việt Nam đã thành công. Lạm phát
đã giảm từ hơn 70% một năm vào năm 1986 xuống còn 35% một năm vào
năm 1989. Đây là một thành công lớn, phản ánh kết quả từ nhiều yếu tố như
tự do hoá nền kinh tế, áp dụng một tỷ giá hối đoái thực tế hơn, ngươi dân
không còn tồn trữ hàng hoá, vàng và đô la bắt đầu tích luỹ bằng đồng tiền
trong nước, xuất khẩu dàu thô ngày càng tăng…Tuy nhiên, những tiến bộ
16
vượt bậc trong năm 1989 đã không được củng cố ngay bằng các chính sách
tiền tệ và tài khoản thận trọng, do đó trong các nhu năm 1992 và 1993, giá
cả đã tăng gần 70% năm.
Lịch sử của lạm phát ở Việt Nam có thể chia thành những thời kỳ như
sau :
- Giai đoạn thứ nhất : Từ năm 1980 trở về trước, lạm phát được hiểu
giống như định nghĩa của Mác, cho nên chống lạm phát là tìm mọi cách hạn
chế việc phát hành tiền vào lưa thông.
- Thời kỳ 1938-1945 : Ngân hàng Đông Dương cấu kết với chính
quyền thực dân Pháp đã lạm phát đồng tiền Đông Dương để voư vét của cải
của nhân dân Việt Nam. Số tiền đó được đem về Pháp đóng góp cho cuộc
chiến chống phát xít Đức. Hậu quả năng nề của lạm phát là nhân dân Việt
Nam phải chịu giá sinh hoạt từ năm 1939-1945 bình quân là 25 lần.
- Thời kỳ 1946-1954 : chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay cho
đòng Đông Dương và sau đó là đòng ngân hàng thay cho sức người, sức của
toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm đánh đuổi quân xâm lược Pháp,
kết quả giải phóng hoàn toàn nửa đất nước.
- Thời kỳ 1955-1965 : chính phủ tay sai Mỹ ở miền Nam Việt Nam
liên tục lạm phát đồng tiền miền Nam để bù lại cuộc chiến tranh chống lại
phong trào giải phóng dân tộc ở miền Nam. Mặc dù được chính phủ Mỹ đổ
vào miền Nam một khối lượng hàng viện trợ khổn lồ, giá trị hàng trăm tỉ
USD cũng không thể bù đắp được chi phí bỏ ra.
- Thời kỳ 1965-1975 : ở miền Bắc Việt Nam, chính phủ Việt Nam dân
chủ cộng hoà phải tiến hành một cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước,
chống chiến tranh phá hoại của Mỹ tại miền Bắc, giải phóng miền Nam thốn
nhất đất nước, đã phát hành số tiền lớn (gấp 3 lần tiền lưa thông của năm
1965 ở miền Bắc) để huy động lực lượng toàn dân đánh thắng quân xâm
17
lược. Nhưng nhờ có sự viện trợ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước
XHCN anh em nên chúng ta đã hạn chế được lạm phát trong thời gian này.
- Thời kỳ 1976 đến nay : sau khi thống nhất đất nước, chúng ta thiếu
nhiều kinh nghiệm trong thời bình nên duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp toàn diện, không mở rộng sản xuất. XHCN không tiến hành
hạch toán kinh doanh nên đã tự gây cho mình nhiều khó khăn, sản xuất
không đủ tiêu dùng, ngân sách không đủ chi tiêu, lạm phát tiền giấy liên tục
và bùng nổ dữ dội với tỷ lệ lên tới 3 con số. Nhưng kể từ năm 1999 đến nay,
với sự chỉ đạo đúng đắn của Nhà nước thì lạm phát hiện nay chỉ dừng ở mức
độ tưong đối tốt cho sự phát triển nền kinh tế (15-17%). Có thể nói, đây là
một thành công không nhỏ của đất nước ta.
2. ĐẶC TRƯNG CỦA LẠM PHÁT Ở NƯỚC TA.
Lạm phát ở Việt Nam cũng có những biểu hiện chung giống với lạm
phát ở các quốc gia khác như : chỉ số giá cả nói chung tăng phổ biến do vậy
giá trị của đồng tiền giảm. Song lạm phát ở Việt Nam có đặc trưng riêng do
điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể.
- Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển trong đó khu vực kinh
tế nhà nước có địa vị thống trị. Khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam chiếm
1 tỷ trọng lớn hiếm có trên thế giới. Thế nhưng, khu vực với số vốn đầu tư
lớn và tỷ lệ chất xám cao này lại chỉ có thể làm ra từ 30%-37% tổng sản
phẩm xã hội. Các xí nghiệp quốc doanh nhìn chung nộp cho ngân sách nhà
nước một số tiền rất thấp so với số tiền nhà nước cung cấp để bù lỗ, bù giá,
cấp phát tín dụng, lãi xuất thấp. Ngược lại, khu vực tư nhân làm ăn có hiệu
quả và đóng góp một phần quan trọng trong ngân sách nhà nước. Chính
những hoạt động của các hãng kinh tế nhà nước với lãi giả lỗ thật đã làm
cho thị trường hônx loạn, lỗ lãi khó kiểm tra, từ đó hiệu quả kinh doanh
giảm sút. Do vậy mà công tác giảm sút của nhà nước không có hiệu quả dẫn
đến thu không đủ bù chi và lạm phát xảy ra.
18
- Lạm phát của một nền kinh tế độc quyền mà nhà nước có địa vị thốn
trị trên mọi lĩnh vực, cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp. Trong nền kinh tế thị
trường, một công ty mới giành thế độc quyền phải tiến hành trang thiết bị
máy móc, tổ chức lao động, tập trung nguồn vốn…và khi đã ở vị trí độc
quyền, nó sẽ bóp chết các địch thủ khác và cũng ít chú ý hơn đến việc áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật dẫn đến sự suy thoái trong kinh doanh. Trên
thực tế, độc quyền ở Việt Nam cũng như ở các nước XHCN khác đã khống
chế toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Và cùng với cơ chế quan liêu,
mệnh lệnh đã triệt tiêu mất các quan hệ thị trường làm cho nền kinh tế Việt
Nam xa lạ với thị trường. Đây cũng là nguyên nhân góp phần làm tăng lạm
phát.
- Ngoài những đặc điểm trên thì lạm phát Việt Nam có cơ cấu gồm
những ngành kém hiệu quả có sự ưu tiên phát triển. Mọi người đều thấy sự
mất cân đối khi ưu tiên phát triển công nghiệp nặng (vốn lớn, thu hồi lãi
chậm)
- Lạm phát ở một nước chịu ảnh hưởng nặng nề của các cuộc chiến
tranh kéo dài do đó chi phí cho lĩnh vực quốc phòng lớn, tiền trợ cấp cho gia
đình chính sách nhiều. Những khoản này làm tăng thâm hụt ngân sách và
tăng lạm phát.
- Việt Nam là nước nông nghiệp mà luôn chịu ảnh hưởng của thiên
tai, hạn hán, mất mùa…Do đó, ngân sách hụt đi do phải trợ cấp cho các
vùng bị thiên tai.
3) NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN LẠM PHÁT Ở NƯỚC TA.
Phần trước, chúng ta đã đề cập đến nguyên nhân lạm phát nói chung,
phần này ta xét đến nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam ở thời điểm cụ thể.
Nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam có nhiều.
- Thứ nhất : lạm phát nảy sinh từ trong chính các thể chế kinh tế quan
liêu bao cấp, đóng cửa…, hướng nền kinh tế Việt Nam phát triển các nghành
có chi phí cao, tách rời cầu thị trường, cô lập với thế giới bên ngoài dẫn đến
19
sự mất cân đối giữa cung và cầu, thu với chi ngân sách thể hiện nền kinh tế
kém hiệu quả, các xí nghiệp làm ăn thua lỗ…Đó là những nguyên nhân dẫn
đến lạm phát phi mã.
- Thứ hai : do sự điều hành sai lầm của bộ máy nhà nước, như xác
định cơ cấu không xuất phát từ hiệu quả. Sự đổi tiền và tăng giá năm 1985 là
chính sách phá giá đồng tiền, làm giảm niềm tin của dân vào đồng tiền của
nhà nước, chính sách lãi xuất thấp so với mức trượt giá làm cho người dân
không muốn gửi tiết kiệm. Sự mất cân đối tài chính gây lạm phát qua kênh
tín dụng, ngân hàng nhà nước luôn phải phát hành tiền để cân đối các nguồn
vốn cho vay của ngân hàng, đáp ứng yêu cầu của các nghành kinh tế và xây
dựng cơ bản ngày càng tăng. Nhà nước lại không chủ động trong việc cân
bằng cung cầu hàng hoá, gây ra sự rối loạn trên thị trường, giá cả thay đổi
một cách bất hợp lý so với giá quốc tế. Mặt hàng giá cả bị nhích lên do cơn
sốt xi măng, thép, xăng dầu và ngoại tệ.
- Thứ ba : cho đến nay, xương sống của nền kinh tế Việt Nam vẫn là
các doanh nghiệp. những doanh nghiệp này đóng góp 37% vào ngân sách
nhà nước. Việc làm ăn của nhiều công ty xuất nhập khẩu hàng năm nhà
nước phải bù lỗ, bù giá qua lớn chiếm gần 40% tổng số thu chi cho ngân
sách.
- Thứ tư : môi trường đầu tư chậm cải tiến, tích luỹ ở trong nước còn
ở mức thấp. Đầu tư nhũng công trình có vốn lớn, thời gian thi công kéo dài
qua sức chịu đựng của nền kinh té trong khi đó nguồn thu hạn hẹp, thất thu
lớn. Tình hình đó làm cho nguồn tài chính quốc gia bị thâm hụt, không còn
cách nào khác nhà nước buộc phải in tiền giấy bù đắp và đã gây ra lạm phát.
- Thứ năm : nguyên nhân từ cơ chế kinh tế độc quyền, cơ chế quan
liêu bao cấp nặng nề. Nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động của nền
kinh tế. Các quan hệ tiền tệ không phát huy một cách đầy đủ tác dụng kích
thích, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
20
Cùng với những yếu kém của nền kinh tế, chúng ta còn đứng trước tác
động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đang lan rộng trong
khu vực.
21
PHẦN III
CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở NƯỚC TA.
1. CÁC QUAN ĐIỂM VỀ KHẮC PHỤC LẠM PHÁT.
- Tăng lãi suất ngân hàng cao hơn mức lạm phát : thuyết tiền tệ
Friedman được áp dụng. Muốn khắc phục lạm phát cần phải thi hành chính
sách “ hạn chế tiền tệ “ hay “ khắc khổ “ thu, tăng lãi suất tín dụng của ngân
hàng trung ương, hạn chế tăng lương, duy trì thất nghiệp ở mức thấp.
- Các cách tiếp cận khác :
+ Đối với mọi cuộc siêu lạm phát và lạm phát phi mã, hầu như đều
gắn liền với sự tăng trưởng nhanh chóng về tiền tệ, thâm hụt ngân sách
lớn… nên đề ra những biện pháp giảm mạnh tốc độ tăng cung tiền, cắt giảm
mạnh mẽ chi tiêu và kiểm soát có hiệu quả việc tăng lương danh nghĩa, chắc
chắn sẽ chặn đứng và đẩy lùi lạm phát.
+ Đối với lạm phát vừa phải, muốn kiềm chế và đẩy lùi từ từ xuống
mức thấp hơn cũng đòi hỏi áp dụng chính sách nói trên. Tuy nhiên, biện
pháp này kéo theo suy thoái và thất nghiệp – một giá đắt – nên viẹc kiểm
soát chính sách tiền tệ tài khoá trở nên phức tạp và đòi hỏi phải hết sức thận
trọng.
Có thể xoá bỏ lạm phát hay không ? Cái giả phải trả của việc xoá bỏ
hoàn toàn lạm phát không tương xứng với lợi ích đem lại của nó, vì vậy các
quốc gia thường chấp nhận lạm phát ở mức thấp và xử lý ảnh hưởng của nó
chỉ số hoá các yếu tố chi phí như tiền lương, giá vật tư, lãi suất… Đó là cách
làm cho sự thiệt hại của lạm phát ít nhất.
2. CÁC GIẢI PHÁP CHỐNG LẠM PHÁT Ở NƯỚC TA :
a. Giải pháp của Đảng và nhà nước :
22
Đảng cần nâng cao nhận thức chính trị, kinh tế. Đảng viên phải theo
hướng đổi mới trên mọi lĩnh vực. Đồng thời nhà nước phải vững mạnh
chuyên chính vô sản, lập lại trật tự kỷ cương xã hội, giữ vững phép nước
phải kiên quyết thực hiện nguyên tắc tập chung dân chủ trong hệ thống
Đảng và các cơ quan nhà nước, đấu tranh không khoan nhượng, xoá bỏ
những đặc quyền, đặc lợi, những tư tưởng cục bộ địa phương đang làm trì
trệ, tê liệt những chủ trương chính sách nhà nước. Để làm được việc này,
nhà nước cần ban hành những đạo luật chung về kinh tế, các đạo luật cụ thể
về giá cả, lao động, tái chính, ngân hàng… làm cơ sở thống nhất cho việc thi
hành trong cả nước đồng thời phải đề ra chức năng thoái soát kiểm kê của
nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, xã hội… Ngoài ra, nhà nước tạo
điều kiện phát triển kinh tế ngoài quốc doanh. Nhà nước cho phép các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh được kinh doanh trên nhiều lĩnh vực. Pháp
luật của nhà nước đảm bảo các quyền lợi, quyền bình đẳng, không phân biệt
đối xử giữa các thành phần kinh tế. Từ đây, các thành phần kinh tế tạo nên
được cạnh tranh trong hoạt động, gây sức ép với nhau để đổi mới, tạo ra
nhiều việc làm cho người lao động. Mục tiêu cụ thể giảm tỷ lệ lạm phát
xuống khoảng 30-40% năm 1994 và dưới 12% năm 1997, năm 1999 còn
3,6%.
b) Các biện pháp tiền tệ – tín dụng, thanh toán và giải pháp của
ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại.
“ Kiên quyết đẩy lùi và khống chế lạm phát, ổn định về tăng cường
nền tài chính, tiền tệ, tạo môi trường cho sản xuất hàng hoá phát triển có
hiệu quả “.
Như vậy, Đảng đã thấy rõ tầm quan trọng của việc đẩy lùi và kiềm
chế lạm phát với việc thi hành các chính sách tài chính, tín dụng, tiền tệ, xây
dựng một nền tài chính lành mạnh. Các giải pháp đó gồm :
+ Xoá bao cấp qua tín dụng
23
+ Đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối, hạ cơn sốt ngoại tệ
+ Đổi mới cơ cấu và phương thức cân đối ngân sách, cải tiến việc
phân cấp quản lý ngân sách
+ Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý, giáo dục. Việc thực
hiện giải pháp này không nằm ngoài nội dung hoàn thiện chính sách lãi suất.
Giảm hoặc rút bớt về một khối lượng lớn giấy bạc. Để thực hiện được
điều này, chính phủ và ngân hàng thường sử dụng các hình thức thu hút vốn
vào quỹ ngân hàng như sau :
- Khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân gửi tiền vào ngân hàng (kể cả
tiền gửi tiết kiệm của người dân ) bằng cách nâng cao mức lãi suất trên mức
lạm phát , với sự sụt giá đồng bảng và chính sách bảo vệ bảo hiểm giá trị
đồng vốn gửi vào ngân hàng.
- Thu hẹp khả năng thanh toán cuối cùng các hối phiếu hoặc kỳ phiếu
thương mại đối với ngân hàng thương mại thông qua việc hạn chế chiết khấu
và nâng cao tỷ lệ quỹ vốn lao động.
- Ấn định giá hối đoái, hợp lý đồng bạc quốc gia theo chế độ một giá
hối đoái và thực hiện nghiêm ngặt điều kiện quản ký ngoại hối, biện pháp
náy cho phép ngân hàng nhà nước thu về một khối kượng tiền tệ đáng kể
trên thị trường tăng thu nhập ngân sách, đó là cách để bù đắp một phần thiếu
hụt cán cân thi chi ngân sách.
- Hạn chế và thu hẹp tín dụng ngân hàng nói chung, nhất là tín dụng
do hoạt động thương mại thuần tuý, hối đoái trong điều kiện sản xuất là sản
xuất hàng tiêu dùng bị đình đốn. Song có thể ra tăng khối lượng tiêu dùng
ngắn hạn hướng vào sản xuất háng tiêu dùng thiết yếu bằng số ngoại tệ thu
được qua xuất khẩu, cung ứng dịch vụ đối ngoại hoặc vay nợ viện trợ. Biện
pháp này có thể giảm đi một khối lượng tiền tệ đáng kể do việc buôn bán
vòng vèo, ăn chênh lệch giá mà bấy lâu nay không kiểm soát nổi. Mặt khác
24
do hướng tín dụng ngân hàng có lựa chọn và chú trọng tính hiệu quả của nó
có thể tạo ra một khối lượng hàng hoá nhất định bán và thu tiền về, đồng
thời giảm đi một khối lượng đáng kể số tiền sẽ chi cho các kỳ phiếu thương
mại giữa ngân hàng và khách hàng cũng như các hoạt động tái chiết khấu và
tín dụng cuối cùng của ngân hàng nhà nưóc và ngân hàng thương mại.
- Để hạn chế và điều hoà tín dụng, ngân hàng Trung ương thường sử
dụng các biện pháp : tăng hay giảm lãi suất để giảm hay tăng khối lượng tín
dụng, nghĩa là đối với công cụ lãi suất này sẽ khuyến khích hoặc hạn chế
trong hoạt động kinh doanh, thực hiện mua hay bán các chứng khoán tại thị
trường bỏ ngỏ.
c. Điều chỉnh giá cả và sự quản ký của nhà nước.
Nhà nước thả nổi giá cả hầu hết các mặt hàng, giờ đây giá cả hàng
hoá do thị trường định đoạt. Nhà nước chỉ dừng lại ở mức quy định một ít
mặt hàng theo giá của nhà nước đưa ra. Từ năm 1989, giá cả hầu hết các
hàng hoá được thị trường xác định, đến nay nhà nước chỉ còn xác định giá
cước tải liên lạc, giá năng lượng, xăng dầu. Một số mặt hàng quan trọng nhà
nước can thiệp bằng các biện pháp kinh tế tích cực chẳng hạn như giá gạo hạ
thấp, nhà nước bỏ tiền ra mua với giá cao hơn thị trường tự do để giữ vững
và khuyến khích sản xuất nông nghiệp, giá vàng lên cao, ngân hàng nhà
nước bán vàng ra thị trường với mức giá thấp hơn để kéo giá vàng hạ
xuống. Với giải pháp này, nhà nước đã xoá bỏ tình trạng ngân sách phải bao
cấp cho các xí nghiệp và các tổ chức kinh tế.
Nhà nước Việt Nam cho phép ngân hàng quốc gia được xác định tỷ
giá ngoại tệ xấp xỉ với thị trường tự do, biện pháp này có tác dụng xoá bỏ
hiện tượng đầu cơ vàng và ngoại tệ gây rối loạn thị trường. Hiện nay, nhà
nước cùng với ngân hàng Trung ương đang tiến dần đến việc điều chỉnh giá
vàng và giá đô la thoe mức giá cả của thị trường thế giới, đây là một trong
những kế hoạch hoà nhập kinh tế Việt Nam với thế giới.
25
Bên cạnh đó, nhà nước mở rộng quyền xuất nhập khẩu mở cửa biên
giới khuyến khích các nguồn nhập khẩu vào Việt Nam đã làm cho thị trường
ngày càng phong phú, làm cho cung và cầu cân bằng hơn. Việc nhập khẩu
vào Việt Nam còn có tác dụng gây sức ép với hàng hoá trong nước buộc họ
phải nâng cao chất lượng để đáp ứng thị hiếu của khách hàng, hoạt động
nhập khẩu cần có nhiều vốn ngoại tệ, từ đó mà xuất khẩu gia tăng. Nhà nước
sớm thực hiện chính sách bảo hộ một số nghành trong nước, việc này không
có nghĩa là cấp nhập khẩu mà là đầu tư vốn, kỹ thuật để chất lượng hàng hoá
đạt tiêu chuẩn, giá thành hạ để đủ sức cạnh tranh với thị trường quốc tế.
Việt Nam đã đạt đượcnhững thành tựu đáng kể trong cuộc sống lạm
phát nhừ áp dụng các giaỉ pháp nêu trên. Tuỳ từng hoàn cảnh, từng giai đoạn
mà chúng ta có thể linh hoạt sử dụng các biện pháp khác nhau nhằm đạt
được hiệu quả kinh tế lớn.