Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

tiểu luận cao học, tư tưởng hồ chí minh về đảng cầm quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.1 KB, 26 trang )

LỜI NĨI ĐẦU

Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện
Đảng cộng sản Việt Nam. Tên tuổi của Người luôn gắn liền với sự nghiệp
cách mạng của Đảng, với vận mệnh của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao
động và tồn thể dân tộc Việt Nam. Đi theo con đường của Người, Đảng và
nhân dân ta đã giành được những thắng lợi ngày càng to lớn trong cuộc đấu
tranh cho độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khơng chỉ là vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc mà Người còn là một chiến
sĩ lỗi lạc trong phong trào cộng sản quốc tế.
Từ kinh nghiệm lịch sử và những yêu cầu cấp bách trong sự nghiệp đổi
mới đất nước, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng cộng sản Việt
Nam đã khẳng định: “Đảng ta lấy chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản là một bộ phận quan trọng
trong toàn bộ di sản của Người. Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng và phát
triển tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về Đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân vào Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến,
nghèo nàn lạc hậu với hơn 90% dân số là nông dân, giai cấp công nhân nhỏ
bé.
Kể từ khi ra đời tới nay, Đảng ta-đại biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm
của dân tộc và thời đại-lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm “cốt”, luôn là đội tiên
phong dũng cảm, bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp cơng nhân và tồn thể
dân tộc Việt Nam. Cùng với thời gian, Đảng ta sẽ mãi xứng đáng với danh
hiệu vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Đồng thời, Đảng ta cũng là người bạn thuỷ chung, nghĩa tình của bầu bạn
năm châu.

1



Trong bối cảnh thế giới đầy biến động phức tạp hiện nay, hơn bao giờ
hết, vai trò lãnh đạo của Đảng lại được khẳng định là một nhân tố quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta đã khẳng định: “Sức
mạnh của Đảng là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn hệ tư tưởng tiên tiến của giai
cấp công nhân với khí phách, tinh hoa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và
điều này được tập trung thể hiện sáng ngời ở tư tưởng Hồ Chí Minh”. Xác
định được tầm quan trọng đó, Đảng coi việc quán triệt và vận dụng sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới và chỉnh đốn Đảng để Đảng thực sự trong
sạch, vững mạnh, ngang tầm với yêu càu mới của cách mạng là nhiệm vụ
then chốt của toàn Đảng, toàn dân ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền đã được nhiều người nghiên
cứu. Những luận điểm của Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản, Đảng cầm quyền
vô cùng phong phú, quý báu và mang tính thời sự sâu sắc. Nghiên cứu để
hiểu và vận dụng vấn đề quan trọng trên đây vào cơng việc của mình là việc
làm cần thiết đối với mỗi chúng ta.

2


3


NỘI DUNG
I.Đặc điểm của Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền.
1. Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, trở thành Đảng cầm
quyền.
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, người thanh niên Nguyễn Tất Thành
với lòng yêu nước thương dân, với một nỗi buồn vì mất nước, với một tư duy
độc lập, tự chủ đã ra đi quyết tìm đường cứu nước. Trên những chặng đường

đầu tiên, người thanh niên ấy chưa có ý niệm rằng cần phải có một tổ chức
chính trị để lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo tồn dân đấu tranh giải phóng nước
nhà. Qua những năm tháng hoạt động thực tiễn, tìm tịi học hỏi, nghiên cứu
lý luận, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cách mạng ở chủ nghĩa MácLênin và kiên định đi theo con đường của cách mạng Tháng Mười vĩ đại. Khi
trở thành đảng viên Đảng cộng sản Pháp, Hồ Chí Minh-người cộng sản đầu
tiên của Việt Nam đã sớm xác định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Từ lý tưởng cao cả ấy, một vấn đề ln trăn trở trong tư tưởng của Người
là sớm có một Đảng cộng sản. Đây là vấn đề được Người quan tâm hàng đầu,
bởi đó là một nhân tố quyết định sự phát triển, thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Chính vì vậy, từ những năm 20 trở đi, Hồ Chí Minh tích cực chuẩn bị
chu đáo cả ba mặt: chính tri, tư tưởng và tổ chức để ngày 3-2-1930, Đảng
cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một trang mới trong lịch sử dân tộc ta.
Từ việc nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn phong tráo
đấu tranh của giai cấp vô sản và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới
mà trực tiếp là kinh nghiệm của cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh
đã rút ra những nhận xét sâu sắc và đi tới kết luận đúng đắn: sự nghiệp cách
mạng là việc chung của mọi người, của nhiều người chứ không phải chỉ riêng

4


một vài người, một nhóm người hay một giai cấp nào đó. Cách mạng muốn
thành cơng, cần phải có một tổ chức chính trị vững mạnh để giác ngộ, tập
hợp và lãnh đạo quần chúng. Như thế, tư tưởng và đường lối mới thống nhất,
sức mạnh mới tập trung.
Là các nhà lý luận và thực tiễn của phong trào công nhân quốc tế,
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin cũng đã bàn đến sự cần thiết của tổ chức
chính trị đối với bất kỳ cuộc cách mạng nào trên thế giới. Theo V.I.Lênin,
“chừng nào mà người vơ sản cịn là một cá nhân tách biệt, tất cả các khả

năng hy vọng và nguyện vọng của người vô sản đều sinh ra từ tổ chức”
(V.I.Lênin, toàn tập, t.13, NXB tiến bộ, M.1978, tr.372). Như vậy, người vơ
sản có tài giỏi đến mấy cũng khơng thể phát huy hết tài trí của mình khi
khơng nằm trong một tổ chức. Mặt khác, nếu trong tổ chức chỉ có những
người vơ sản thì cùng lắm làm cho phong trào bùng lên rồi lắng xuống. Khi
tổng kết kinh nghiệm cách mạng, V.I.Lênin đã rút ra kết luận quan trọng “Xét
về mặt lịch sử, giai cấp nào lãnh đạo được quần chúng nhân dân thì giai cấp
đó sẽ thắng…chỉ giành được thắng lợi khi nào có khả năng lãnh đạo đa số
dân chúng” (V.I.Lênin, toàn tập, sđd, t.25, tr.395) và V.I.Lênin cho rằng
chúng ta phải lấy kết luận này làm kim chỉ nam cho tồn bộ hành động của
mình.
Nhưng ở những năm đầu của thế kỷ XX này, cái thiếu của dân tộc ta là lý
luận cách mạng tiên tiến, thiếu một tổ chức chính trị chặt chẽ để lãnh đạo
quần chúng. Chính vì vậy, sau khi tìm thấy con đường cứu nước, vào tháng
6-1925, Hồ Chí Minh đã thành lập tổ chức “Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên” và trực tiếp đào tạo ra lớp cán bộ đầu tiên. Các bài giảng của Người
được tập hợp lại và ấn hành vào đầu năm 1927 lấy tên là “Đường kách
mệnh”.
Trong “Đường kách mệnh”. Hồ Chí Minh đã khẳng định vị trí, vai trị và
tầm quan trọng của Đảng cách mạng, nhân tố đầu tiên quyết định sự thắng lợi
của cách mạng. Thấu hiểu bài học lịch sử về sức mạnh của quần chúng, lại

5


được soi rọi dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Người chỉ rõ: công
nông là gốc cách mạng, nhưng “Trước hết là phải làm cho nhân giác ngộ”
(V.I.Lênin, toàn tập, sđd, t.2, tr.267-268). Nhân dân phải được tổ chức,
được lãnh đạo thì mới trở thành lực lượng to lớn, mới là chủ, là gốc cách
mạng được. Nếu dân không được tổ chức thì như đũa “mỗi nơi một chiếc”.

Để thực hiện được điều đó, “Trước hết phải có Đảng cách mệnh để trong thì
vận động, tổ chức quần chúng nhân dân, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp
bức và vơ sản giai cấp ở mọi nơi” (V.I.Lênin, tồn tập, sđd, t.2, tr.267268). Để Đảng vững được “phải có chủ nghĩa làm cốt” (V.I.Lênin, toàn tập,
sđd, t.2, tr.267-268). Thành lập Đảng là để mọi thành viên trong Đảng đó
thống nhất về tư tưởng, từ đó thống nhất trong hành động “Nên trong Đảng
ai cũng phải hiểu, ai cũng phải làm theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có
chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”
(V.I.Lênin, toàn tập, sđd, t.2,tr.267-268), Người đã nghiên cứu nhiều học
thuyết trên thế giới, tìm tịi, suy ngẫm, so sánh, đối chiếu lựa chọn và khẳng
định “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”. Tóm lại, Hồ Chí Minh nhất
quán cho rằng cách mạng Việt Nam muốn thành công phải đi theo chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Như vậy, Đảng cộng sản Việt Nam bao giờ cũng là Đảng cách mệnh
chân chính, mang bản chất của giai cấp cơng nhân. Đảng không bao giờ “Hy
sinh quyền lợi của giai cấp cơng nhân và nơng dân cho giai cấp khác”. Đảng
dìu dắt giai cấp vô sản, lãnh đạo giai cấp vô sản, lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, là để đem lại cuộc sống tự do, hạnh phúc cho toàn thể dân tộc. Đảng
không phải là một tổ chức tự thân và vì vậy mục đích tơn chỉ của Đảng là
“Tận tâm”, “Tận lực”, “Phụng sự” và “Trung thành” với lợi ích của dân tộc
Việt Nam; ngồi lợi ích của giai cấp, của nhân dân và toàn thể dân tộc Việt
Nam, Đảng khơng cịn lợi ích nào khác.

6


Chỉ có một Đảng như thế mới có thể đem lại độc lập cho dân tộc. tự do
hạnh phúc cho nhân dân, phồn vinh cho đất nước và đưa cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Sự ra đời của Đảng cộng sản là kết quả của sự vận động hợp quy luật,

của chân lý độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là sản phẩm của sự
kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhần và phong trào
yêu nước ở Việt Nam.
Với đường lối chính trị đúng đắn, tổ chức chặt chẽ, Đảng đã lãnh đạo
tồn thể dân tộc giành chính quyền, thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hồ. Đó cũng là thời điểm Đảng cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm
quyền.
2.Trong điều kiện có chính quyền, bản chất chính trị của Đảng khơng thay
đổi.
Khi chưa có chính quyền, nhiệm vụ chính của các cuộc đấu tranh của
dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là lật đổ chính quyền của bè lũ thực dân,
phong kiến thiết lập chính quyền của nhân dân. Phương thức lãnh đạo, công
tác chủ yếu của Đảng là giáo dục, thuyết phục, vận động tổ chức quần chúng,
đưa quần chúng vào đấu tranh giành chính quyền.
Khi Đảng ta lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền từ địa vị nô lệ, bị
trị giai cấp công nhân cùng với giai cấp nông dân, nhân dân lao động và các
tầng lớp xã hội tiến bộ khác đứng lên giữ vai trò làm chủ đất nước. Do địa vị
thay đổi, nhiệm vụ của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các tầng lớp
tiến bộ xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng cũng thay đổi căn bản so với khi
chưa có chính quyền. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ vững chính quyền trở
nên cực kỳ quan trọng. Nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế xã hội trở
thành nhiệm vụ trung tâm của Đảng và cả xã hội. Nhiệm vụ mới của Đảng ta
là sử dụng phương thức lãnh đạo, quản lý xã hội, tổ chức huy động lực lượng
quần chúng bằng biện pháp hành chính, pháp lý thông qua bộ máy nhà nước.

7


Đó là cơng cụ của Đảng cộng sản trong quản lý xã hội, bộ máy nhà nước đó
phải thực sự là của dân, do dân và vì dân.

Sự nghiệp xây dựng một xã hội mới-xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam diễn ra
trong điều kiện một nước kinh tế chậm phát triển, lại bị chiến tranh tàn phá
liên tục trong 30 năm qua quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa nên càng khó khăn phức tạp lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế xã hội có tính chất quá độ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản chất của Đảng khơng thay đổi. Mục
đích lý tưởng của Đảng vẫn là giải phóng giai cấp, triệt để giải phóng con
người, xây dựng cuộc sống ấm no cho nhân dân và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, khi có chính quyền trong tay, một vấn đề mới cực kỳ to
lớn cũng là thử thách hết sức nặng nề của Đảng là người đảng viên cộng sản
không được lãng qn nhiệm vụ, mục đích của mình, phải tồn tâm tồn ý
phục vụ nhân dân. Cán bộ đảng viên khơng được chủ quan, tự mãn dẫn tới
thoái hoá biến chất trở thành “Quan cách mạng”. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh
“Độc lập, tự do, hạnh phúc” là bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là điểm
xuất phát để xây dựng Đảng ta xứng đáng với danh hiệu “Đảng cầm quyền”.
3. Đảng phải xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Vấn đề cơ bản của một cuộc cách mạng là chính quyền, tuy nhiên theo
Mác đó mới chỉ là cánh cửa vào xã hội mới chứ chưa phải là xã hội mới. Vì
vây, vấn đề quan trọng là chính quyền thuộc về ai, phục vụ cho ai. Hồ Chí
Minh đã nghiên cứu kinh nghiệm và lý luận của cách mạng trên thế giới và
kết luận “Cách mạng rồi thì giao quyền cho dân chúng số nhiều, chớ để
trong tay một số người”. Như vây, theo Hồ Chí Minh quyền lực phải thuộc
về nhân dân. Người đề cập đến việc xây dựng một nhà nước của dân, do dân
và vì dân. Người đã thấy hai mặt của quyền lực:
Thứ nhất, quyền lực là công cụ sắc bén cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới, thúc đẩy bước tiến của lịch sử.

8



Thứ hai, quyền lực là cơng cụ đàn áp, kìm hãm ghê gớm sự phát triển xã
hội.
Quyền lực sẽ phát huy mặt tích cực khi Đảng cầm quyền cịn là đầy tớ
trung thành của nhân dân, được nhân dân ủng hộ. Quyền lực sẽ bộc lộ mặt
tiêu cực, mặt xấu và Đảng sẽ trở thành độc tài chuyên chế khi quyền lực phụ
thuộc vào tay một số ít người. Với nhãn quan chính trị rộng lớn, Người đã
nêu rõ quan điểm:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Cơng cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân: sự nghiệp kháng
chiến kiến quốc là của dân. Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do
dân cử ra. Đồn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại:
“Quyền hành, lực lượng đều ở nơi dân” (Hồ Chí Minh, tồn tập, sđd, t.5,
tr.698).
Hồ Chí Minh coi đây là sự khác biệt giữa Đảng cộng sản và Đảng tư sản.
Người nhấn mạnh rằng Đảng lãnh đạo cách mạng là để lãnh đạo và củng cố
quyền làm chủ của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, quyền lực thuộc về nhân
dân là bản chất, là nguyên tắc của chế độ mới, một khi rời xa nguyên tắc này,
Đảng sẽ trở thành đối lập với nhân dân. Dân làm chủ, Đảng là người lãnh
đạo, là đầy tớ thì Đảng phải lấy dân làm “Gốc” bởi:
“Gốc có vững cây mới bền
xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”
Mặt khác, dân muốn làm chủ thực sự thì phải theo Đảng. Mỗi người dân
phải biết lợi ích và bổn phận của mình tham gia vào xây dựng chính quyền.
Vớí một tư tưởng hết sức nhân văn, hết sức cao cả về mối quan hệ biện
chứng giữa Đảng với dân, Người luôn suy tư và trăn trở để tìm ra một cơ chế,
một giải pháp hữu hiệu nhằm thực hiên ý tưởng trên. Theo Hồ Chí Minh, cơ

9



chế ấy chỉ có thể trở thành hiện thực, khơng bị vi phạm khi cán bộ, đảng viên
còn là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (1947), Người tiếp tục mở rộng
và hoàn chỉnh nguyên tắc giáo dục và rèn luyện cán bộ đảng viên và chỉnh
đốn Đảng. Người nhắc lại phận sự của cán bộ đảng viên là “Phải trọng lợi
ích của Đảng trên hết…vì lợi ích Đảng tức là lợi ích của dân tộc, của Tổ
quốc”. Mỗi cán bộ đảng viên phải thực hiện cho được năm điều: nhân, trí,
nghĩa, dũng, liêm, đồng thời “Những khuyết điểm sai lầm” mà biểu hiện của
nó là: tham lam, lười biếng, hiếu danh, vô kỷ luật. Người coi “Chủ nghĩa cá
nhân” là một thứ vi trùng rất độc, do đó là sinh ra những thứ bệnh rất nguy
hiểm. Theo Người ba căn bệnh chính, nguy hiểm nhất là “Tham ơ, lãng phí,
quan liêu”. Đó là những thứ giặc “Nội xâm”dẫn tới nguy cơ của một Đảng
cầm quyền.
Như vậy, “Sửa đổi lối làm việc” còn mang ý nghĩa về giáo dục đạo đức,
nhân cách và tác phong cách mạng. Với Người “Nếu chính phủ làm hại cho
dân thì dân có quyền đuổi chính phủ”. Thật vậy, những người cộng sản ln
khắc ghi trong lịng lời cảnh tỉnh chân lý đó ở mọi thời kỳ. Đảng cầm quyền
chỉ có thể đứng ở vị trí lãnh đạo khi lấy nhân dân làm mục đích phấn đấu, vì
nhân dân mà phục vụ, mà hy sinh.
“Giàu sang khơng thể quyến rũ
Nghèo khó khơng thể lay chuyển
Uy lực khơng thể khuất phục”
Di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng thực sự vẫn là hành
trang trong cuộc đời cách mạng. Đây là cuốn sách gối đầu giường cho mỗi
đảng viên hôm nay.
4. Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành
của nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam “Là người lãnh đạo,

là người đầy tớ trung thành của nhân dân” trước hết trong việc xác định

10


“Người lãnh đạo”, đó là Đảng cộng sản Việt Nam; là quyền lãnh đạo duy
nhất của Đảng đối với toàn bộ xã hội và khi có chính quyền, Đảng lãnh đạo
chính quyền nhà nước, quyền đó khơng thể chia rẽ cho bất kỳ ai. Đối tượng
lãnh đạo của Đảng là toàn thể quần chúng nhân dân trong toàn dân tộc, nhằm
đem lại độc lập cho dân tộc, tự do ấm no và hạnh phúc cho nhân dân-mà
trước hết là quần chúng nhân dân lao động. Nhưng muốn lãnh đạo được nhân
dân thì Đảng trước hết phải có tư cách, phải có đủ phẩm chất, năng lực cần
thiết. Vì “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức” và
“Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa
nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới
giành được địa vị lãnh đạo” (Hồ Chí Minh, tồn tập, sđd, t.3, NXB chính
trị quốc gia, H.1995,tr.139).
“Là người lãnh đạo”, theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo phải bằng giáo dục,
thuyết phục để thu phục và chinh phục quần chúng nhân dân; nghĩa là Đảng
phải làm cho dân tin, dân phục để dân theo. Đảng lãnh đạo nhưng quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân, cho nên Đảng “Phải đi đường lối quần chúng,
khơng được quan liêu mệnh lệnh và gị ép nhân dân” (Hồ Chí Minh, tồn
tập, sđd, t.10, NXB chính trị quốc gia, H.1996,tr.606), mà phải giáo dục
tuyên truyền giác ngộ cho dân chúng để thức tỉnh họ. Đồng thời Đảng phải tổ
chức, đoàn kết họ lại thành một khối thống nhất, bày sách lược cho dân và
hướng dẫn cho họ hành động. Vì vậy, nói đến Đảng là nói đến chức năng
lãnh đạo, sự lãnh đạo của Đảng phải đảm bảo trên tất cả các mặt, các lĩnh vực
của đời sống xã hội, phải quan tâm chăm lo đến đời sống của nhân dân từ
việc nhỏ đến việc lớn: “Đảng vừa lo tốt công việc lớn, đổi nền kinh tế và văn
hoá lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế, văn hố tiên tiến, đồng thời lại

ln quan tâm đến những việc nhỏ như: tương, cà, mắm, muối cần thiết cho
đời sống hàng ngày của nhân dân” (Hồ Chí Minh, tồn tập, sđd, t.10, NXB
chính trị quốc gia, H.1996,tr.4), Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, là một bộ phận của giai cấp và của dân tộc, chứ

11


không phải là tổ chức đứng trên giai cấp, trên nhân dân. Mọi cán bộ, đảng
viên đều phải nhận thức được rằng: Nhân dân là cội nguồn sức mạnh của
Đảng, của cách mạng; sức mạnh đó được bắt nguồn từ mối quan hệ máu thịt
với nhân dân, chứ không phải là “Vị cứu tinh của nhân dân”. Đảng phải luôn
luôn một lịng, một dạ phục sự nhân dân “Vì ngồi lợi ích của giai cấp, của
nhân dân, của dân tộc, Đảng ta khơng có lợi ích nào khác”( Hồ Chí Minh,
tồn tập, sđd, t.10, NXB chính trị quốc gia, H.1996,tr.4). Do đó mọi đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng đều phải xuất phát từ tâm tư, nguyện
vọng và những quyền lợi căn bản thiết thực của nhân dân, đồng thời Đảng
phải chịu trách nhiệm với nhân dân trước các quyết định của mình.
Đảng là người lãnh đạo, nhưng Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: Đảng phải sâu
sát, gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân, khiêm tốn học
hỏi nhân dân và phải chịu sự kiểm soát của nhân dân, bởi “ Sự lãnh đạo
trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ quần chúng ra, trở lại nơi
quần chúng”( Hồ Chí Minh, tồn tập, sdd, t.5, NXB chính trị quốc gia,
H.1995, tr.290). Đảng phải thực hành triệt để dân chủ, mà trước hết là dân
chủ trong nội bộ Đảng, để phát huy mọi khả năng trí tuệ sáng tạo của quần
chúng; lãnh đạo nhưng phải chống bao biện, làm thay, phải thông qua chính
quyền nhà nước “Của dân, do dân và vì dân” để Đảng thực hiện quyền lãnh
đạo của mình đối với tồn xã hội.Do đó Đảng phải lãnh đạo nhà nước một
cách tồn diện, mà trong đó trước hết là lãnh đạo xây dựng luật pháp nhà
nước để quản lý, điều hành xã hội; đồng thời Đảng phải thường xuyên coi

trọng công tác giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, viên chức hoạt
động trong bộ máy nhà nước, luôn đảm bảo cho nhà nước thực sự vững
mạnh, trong sạch, thực sự là nhà nước “ Của dân, do dân và vì dân”.
Để thực hiện đầy đủ chức năng của “ Người lãng đạo”, Hồ Chí Minh
cịn đề cập một cách sâu sắc đến thực hiện chế độ kiểm tra và phát huy vai trò
tiên phong của đội ngũ đảng viên, cán bộ của Đảng. Bởi theo Người, Đảng ta

12


khơng chỉ tiên phong về lý luận, mà cịn phải tiên phong trong cả hành động ;
chỉ rõ trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên “Lời nói phải đi đơi với việc
làm”; “Làm thì phải có kiểm tra”.Vì có kiểm tra thì mới phát hiện được việc
tốt, việc chưa tốt. Tìm ra cái đúng cái sai; ở đâu, nơi nào làm chưa đúng,
chưa tốt; chủ trương , chính sách nào của Đảng chưa “Ăn khớp”. Để từ đó
mà kịp thời xử lý, uốn nắn và bổ sung làm cho đường lối đúng đắn hơn, sáng
tạo hơn, để mọi người thơng suốt. Do đó lãnh đạo mà khơng có kiểm tra, coi
như không lãnh đạo. Mặt khác bàn đến vai trị , chức năng lãnh đạo theo Hồ
Chí Minh, Đảng ta lãnh đạo khơng chỉ bằng đưịng lối, chủ trương và các chỉ
thị, nghị quyết, mà còn bằng vai trò tiên phong gương mẫu của đội ngũ đảng
viên, cán bộ của Đảng. Người coi đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến
mọi thành bại của cách mạng. Bởi từ mục đích, tính chất mà phương thức
lãnh đạo của Đảng ta, Đảng là người đề ra đường lối, chủ trương nhưng đồng
thời Đảng cũng là người tổ chức, hướng dẫn cho quần chúng nhân dân thì
đảng viên , cán bộ phải làm “ Mực thước” để họ học tập, noi theo. Trong
nhân dân ta có câu “Đảng viên đi trước làng nước theo sau”, cho nên “Đảng
viên, cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, đúng như lời Bác dạy.
Với tư cách Đảng “Là người lãnh đạo” theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
cũng có nghĩa bao hàm cả trách nhiệm “Là người đầy tớ” của dân. Song
“Đầy tớ” ở đây theo quan điểm của Hồ Chí Minh khơng có nghĩa là “Tơi tớ,

tơi địi hay theo đi quần chúng”. Mà là “Đầy tớ” của Đảng cho tập thể
đông đảo quần chúng nhân dân lao động, là nhằm đem lại các quyền và lợi
ích cho quần chúng nhân dân, là thể hiện sự tận tâm, tận lực phụng sự nhân
dân và Người nhấn mạnh “Đã phụng sự nhân dân phải phụng sự cho ra trị.
Nghĩa là việc gì có lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được, việc gì có hại cho
dân, thì phải hết sức tránh”( Hồ Chí Minh, tồn tập, sdd, t.6, NXB chính
trị quốc gia, H.1995, tr.88).Người sử dụng cụm từ “Đầy tớ thật trung
thành”là để nhắc nhở và chỉ rõ vai trò, trách nhiệm của mỗi đảng viên, cán
bộ trong mọi hoạt động của mình đều phải quan tâm thực sự đến lợi ích của

13


nhân dân “Khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, tận tuỵ với công việc, gương
mẫu trước nhân dân, phải thường xuyên tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa
chữa như mỗi nhày phải rửa mặt”( Hồ Chí Minh, tồn tập, sdd, t.5, NXB
chính trị quốc gia, H.1995, tr.239). Phải làm cho dân tin, dân phục để dân
hết lòng ủng hộ giúp đỡ. Mỗi cán bộ, đảng viên “Đều là công bộc của dân
nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu dân như
trong thời kỳ thống trị của Pháp - Nhật”( Hồ Chí Minh, tồn tập, sdd,
t.4,NXB chính trị quốc gia, H.1995, tr.56).
Mặt khác nghĩa “Đầy tớ thật trung thành của nhân dân” theo tư tưởng
Hồ Chí Minh cịn địi hỏi ở mỗi đảng viên, cán bộ của Đảng khơng chỉ có sự
nhiệt tình, lịng hăng hái mà cịn phải có tri thức khoa học, trình độ chun
mơn, nghiệp vụ giỏi; thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng: “Cần, kiệm,
liêm, chính, chí cơng vô tư”. Không chỉ nắm vững và thực hiện tốt quan điểm
đường lối của Đảng, mà còn phải biết tuyên truyền, vận động lôi cuốn quần
chúng, thu phục quần chúng quyết tâm đi theo Đảng đưa sự nghiệp cách
mạng đi đến thắng lợi cuối cùng.
Như vậy, “Là người lãnh đạo”; “Là người đầy tớ” tuy hai khái niệm,

hai cụm từ khác nhau, nhưng được Hồ Chí Minh sử dụng để chỉ ra sự gắn bó
thống nhất, có mối quan hệ biện chứng với nhau làm toát lên sự trong sáng,
vĩ đại của một Đảng cách mạng chân chính, đó là Đảng của giai cấp cơng
nhân Việt Nam. Do đó chỉ trên cơ sở làm tốt chức năng của “ Người lãnh
đạo” mới có cơ sở và ngược lại. Dù là “Người lãnh đạo” hay “Người đầy
tớ” theo quan điểm của Hồ Chí Minh đều cùng chung một mục đích là: Vì
dân. Làm tốt chức năng “Lãnh đạo” và làm trịn nhiệm vụ của “Người đầy
tớ” của nhân dân, là cơ sở vững chắc nhất bảo đảm cho uy tín và năng lực
lãnh đạo của Đảng không những được ăn sâu, bám chắc trong lòng giai cấp,
mà còn trong cả các tầng lớp quần chúng nhân dân lao động và trong toàn thể
dân tộc Việt Nam.

14


Hiện nay, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đang ra sức thi đua lập
nhiều thành tích kỷ niệm 75 năm ngày Đảng ta ra đời, thực hiện nghị quyết
của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và tiếp tục thực hiện nề nếp có hiệu
quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng của nghị quyết trung ương VI
( lần hai) khố VIII đề ra. Đó cũng là dịp để chúng ta ôn lại truyền thống hào
hùng của Đảng ta trong 75 năm qua, cũng là 75 năm vượt qua chông gai đầy
thử thách, lãnh đạo dân tộc làm cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước, đưa cả nước từng bước đi lên trên con đường Xã Hội Chủ Nghĩa mà
Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn ngay từ đầu. Bên cạnh những thành công chói
lọi, những thành tựu vẻ vang, song đứng trước địi hỏi của sự nghiệp cách
mạng trong thời kỳ mới và trước sự biến đổi nhanh chóng vơ cùng phức tạp
của tình hình thế giới, đặc biệt là âm mưu thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của chủ
nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực phản động thù địch, từ
thực trạng bản thân của Đảng, chúng ta cũng phải nghiêm túc và dũng cảm
nhìn thẳng vào sự thật để đánh giá một cách khách quan cả những thành công

lẫn thất bại của Đảng trong suốt 75 năm qua, tìm ra nguyên nhân, rút ra bài
học thiết thực quý báu nhằm khẳng định vị trí và vai trị của Đảng trong sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
5. Mục đích, lý tưởng của Đảng cầm quyền.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng ta khơng có lợi ích nào khác ngồi lợi ích của
tổ quốc, của nhân dân, đó là mục đích, lý tưởng của Đảng ta. Mục đích, lý
tưởng đó khơng bao giờ thay đổi trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam. Người chỉ rõ: “Những người cộng sản như chúng ta không một
phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho tổ quốc hoàn
toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và
trên toàn thế giới”. khi trở thành Đảng cầm quyền, mục đích, lý tưởng đó
khơng những khơng thay đổi mà cịn có thêm những sức mạnh nhằm hiện
thực hố mục đích, lý tưởng ấy.

15


Như vậy, vấn đề mục đích, lý tưởng của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Tuy nhiên, việc nhận thức và thực hiện nó khơng phải dễ dàng. Khi trở
thành Đảng cầm quyền, phần lớn cán bộ, đảng viên được giao nhiệm vụ trọng
trách trong bộ máy hành chính – xã hội có liên quan trực tiếp tới vấn đề chính
quyền và lợi ích của nhân dân lao động. Vì vậy Người đã cảnh báo những
đảng viên cộng sản khơng được sao nhãng mục đích và lý tưởng của mình .
Trước kia, Đảng và nhân dân ta tập trung vào một kẻ thù là chủ nghĩa đế
quốc thực dân thì nay một kẻ thù bên trong là “Chủ nghĩa cá nhân” đang tìm
cơ hội ngóc đầu dậy trong chính mỗi cán bộ, đảng viên. Trên thực tế đã có
một số đảng viên thối hóa, biến chất, từ một người “Có cơng” trở thành một
người “Có tội”. Trong điều kiện mới, việc giữ vững và phát huy phẩm chất
cách mạng là một quá trình đấu tranh gian khổ, phức tạp bội phần. với Hồ

Chí Minh, trong điều kiện Đảng cầm quyền thì một trong những kẻ thù nguy
hiểm nhất là “Chủ nghĩa cá nhân” và nhiệm vụ của mỗi cán bộ đảng viên là
phải giác ngộ mục đích, lý tưởng của Đảng, nâng cao đạo đức cách mạng, để
đánh thắng kẻ thù ấy. Mọi sự sao nhãng mục đích, lý tưởng của Đảng đều
biến mỗi cán bộ đảng viên thành “Quan nhân dân”, “Quan cách mạng”.
II.Nguy cơ của Đảng cầm quyền.
Đã có một số luận văn liên quan tới Đảng cầm quyền, nhưng trực tiếp đề
cập tới vấn đề nguy cơ của Đảng cầm quyền và giải pháp đẩy lùi nguy cơ đó
thì cịn ít. Lần này, Đảng chủ trương “Tổng kết một số vấn đề lý luận-thực
tiễn qua 20 năm đổi mới”, thì việc đổi mới tìm tịi, nghiên cứu cách tiếp cận
là rất cần thiết. Thái độ của Đảng ta khi bước vào cơng cuộc đổi mới là
“Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Cùng với việc
đánh giá đúng những thành tích đã đạt được…, chú trọng kiểm điểm những
mặt yếu kém, phân tích sâu sắc những sai lầm và khuyết điểm, vạch rõ
nguyên nhân, nêu ra biện pháp khắc phục” (Đảng cộng sản Việt Nam, văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB sự thật, Hà Nội, 1987,

16


tr.12).Cịn Hồ Chí Minh, lúc sinh thời, thường nói tới các căn bệnh của Đảng
cầm quyền mà nếu không kịp thời chữa trị-dù chỉ một biểu hiện nào đó,
chẳng hạn “Giấu khuyết điểm của mình” là “Đảng hỏng” (Hồ Chí Minh,
toàn tập, sdd, t.5, tr.261); hoặc “Cách xa dân chúng, khơng liên hệ chặt chẽ
với dân chúng” thì Đảng “Nhất định thất bại” (Hồ Chí Minh, tồn tập, sdd,
t.5, tr.286).
Đọc kỹ Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh, ta thấy các bậc thầy ở
những cách tiếp cận khác nhau đã bàn tới nguy cơ của Đảng cầm quyền. Và
nếu chịu khó tổng kết thực tiễn Việt Nam chứ không phải giáo điều, thì bên
cạnh những kết quả lớn, cũng thấy rõ những việc chưa làm được.

Bàn tới nguy cơ của Đảng cầm quyền, trong các bài viết, bài nói chuyện
suốt thời gian từ tháng 9-1945 đến 1969, Hồ Chí Minh đã cảnh tỉnh với cán
bộ, đảng viên và toàn Đảng những nguy cơ thách thức của Đảng và chính
quyền.
 Đó là nguy cơ tha hoá, biến chất của Đảng dẫn tới sai lầm về đường
lối.
Hồ Chí Minh phân tích: Khi Đảng lên cầm quyền, cán bộ, đảng viên của
Đảng nắm hầu hết những chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị. Có
chức thì con người thường tính đến quyền, có quyền thì tính đến lợi. Nếu
đảng viên chỉ tính đến lợi ích riêng mà quên quyền lợi chung, quên trách
nhiệm trước Đảng, trước nhân dân thì Đảng sẽ bị tha hố, Đảng sẽ đánh mất
vai trị cầm quyền của mình. Khi có chính quyền, một số cán bộ, đảng viên
xuất hiện tư tưởng thoả mãn với kết quả đạt được, tự cao tự đại, “Vác mặt
quan cách mạng”, không chịu học tập, phấn đấu, rèn luyện để nâng cao trình
độ mọi mặt. Họ rơi vào tụt hậu, những biểu hiện tiêu cực làm cho Đảng bị tha
hố.
 Đó là chủ nghĩa cá nhân phát triển làm suy yếu Đảng.
Chủ nghĩa cá nhân là căn bệnh nguy hiểm làm hư hỏng đội ngũ cán bộ đảng
viên. Cán bộ, đảng viên ở trong tổ chức Đảng, nhà nước và các đoàn thể nhân

17


dân có bộ phận hư hỏng thì dẫn tới hệ quả: tổ chức thiếu trong sạch, lành
mạnh, pháp luật bị khinh nhờn, trật tự, kỷ cương xã hội khơng cịn được tôn
trọng, đạo đức xuống cấp.
Chủ nghĩa cá nhân “Như là vi trùng” sinh ra nhiều thứ bệnh nguy hiểm. Nó
thâm nhập hồnh hành cơ thể Đảng. Nó là “kẻ thù nội xâm” mà Đảng cầm
quyền cần đề phòng: bệnh kiêu ngạo, địa phương cục bộ, óc bè phái, óc qn
phiệt quan liêu, óc hẹp hịi, vơ kỷ luật, ích kỷ, tham nhũng, hủ hoá… là từ

chủ nghĩa cá nhân mà ra.
Hậu quả nghiêm trọng mà do chủ nghĩa cá nhân gây ra: phá hoại tư
tưởng, tổ chức của Đảng, phá hoại tình đồng chí thiêng liêng. Danh dự, uy tín
của Đảng bị chủ nghĩa cá nhân làm xói mịn. Nó là nguy cơ trực tiếp làm cho
Đảng mất dần quần chúng. Khi Đảng mất tín nhiệm với nhân dân, cán bộ,
đảng viên đã bị “Mắc bệnh”cá nhân chủ nghĩa, khơng cịn là đầy tớ của nhân
dân nữa. Nhà nước do Đảng lãnh đạo cũng khơng cịn là nhà nước của nhân
dân, do dân và vì nhân dân nữa. Vì vậy, Đảng cộng sản khi đã trổ thành Đảng
cầm quyền phải chống chủ nghĩa cá nhân và xây dựng ý thức một lịng một
dạ phục vụ nhân dân. Đó vừa là mục đích, vừa là lý do và điều kiện tồn tại
của Đảng cộng sản với tư cách là Đảng cầm quyền.
 Mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và dân bị giảm sút.
Khi nói mối quan hệ tức là nói lãnh đạo với đảng viên và nhân dân. Một thực
tế như Bác Hồ đã chỉ ra “Dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết
quả của sự lãnh đạo của ta”(Hồ Chí Minh, tồn tập, sdd, t.5, tr.285). Mối
quan hệ này bị giảm sút thì chẳng khác gì “Đảng đứng lơ lửng giữa trời,
nhất định thất bại”. Bác nói Đảng “Lấy dân làm gốc”, “Gốc” cần hiểu cả
lực lượng và trí tuệ của dân.
Nguy cơ tiềm ẩn là ở chỗ Đảng khẳng định “Lấy dân làm gốc” nhưng
một số đảng viên thực hiện một cách hình thức, chưa phát huy thực sự quyền
làm chủ của nhân dân. Một số đảng viên, cán bộ, kể cả cán bộ có chức có
quyền chưa phân biệt được phải – trái, đúng – sai, trắng – đen, dẫn đến vàng

18


– thau lẫn lộn. Tuy nhiên, cần phải nhận thức: Bất kỳ nơi nào có quần chúng,
thì nhất định có ba hạng người: hạng hăng hái, hạng vừa vừa, hạng kém. Mà
trong ba hạng đó hạng vừa vừa, hạng giữa nhiều hơn hết, hạng hăng hái và
hạng kém đều ít hơn. Vì vậy người lãnh đạo phải dùng người hăng hái làm

trung kiên cho sự lãnh đạo, do trung kiên đó mà nâng cao hạng vừa vừa, kéo
hạng kém tiến lên. Thực tế có nơi, có lúc làm chưa đúng theo tư tưởng Hồ
Chí Minh dựa vào ý kiến một số đa số cứng nhắc, nên không phân biệt được
thện – ác, chính – tà, từ đó sinh ra hậu quả khơn lường.
 Đó là, cách lãnh đạo khơng được dân chủ.
Lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra, vì khơng lắng tai nghe ý kiến
của đảng viên, của nhân dân, nhất là ý kiến của những người trung thực,
thẳng thắn, nên cấp trên và cấp dưới cách biệt nhau.
Khi bàn về dân chủ trong lãnh đạo, Bác Hồ có viết rằng, ai nói chúng ta
khơng dân chủ, thì chúng ta khó chịu. nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì
thật có như thế. Vì thiếu dân chủ nên đảng viên và cán bộ dù có ý kiến cũng
khơng dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, khơng dám phê bình. ở đây
khơng nên trách tinh thần đấu tranh, phê bình của đảng viên kém, mà phải
nghiêm túc xem xét từ phía cơ quan lãnh đạo.
Tiềm ẩn nguy cơ của Đảng cầm quyền nằm ở chỗ cấp trên, cấp lãnh đạo
tưởng cái gì cũng tốt đẹp. nhiều cơ quan lãnh đạo tự huyễn hoặc mình bằng
giá trị ảo, tự ru ngủ bởi bệnh thành tích, tự thấy tốt đẹp bởi khơng thấy ai phê
bình mà lại có nhiều lời khen. Bác Hồ đã cảnh báo “Họ khơng nói, khơng
phải vì họ khơng có ý kiến, nhưng vì họ nghĩ nói ra cấp trên cũng khơng
nghe, khơng xét, có khi lại bị “Trù”là khác”. Nguy cơ của Đảng cầm quyền
được ấp ủ từ chỗ cán bộ, đảng viên để trong lòng, rồi sinh ra uất ức, chán
nản. Từ đó dẫn tới thói “Khơng nói trước mặt, chỉ nói sau lưng”, “Trong
Đảng im tiếng, ngồi Đảng nhiều mồm”, sinh ra thói “Thậm thà, thậm thụt”,
“Thì thầm thì thào”….Khơng nghiêm túc đi vào thực tiễn, kết luân kỹ sẽ khó

19


nhận ra một tình hình bên ngồi tưởng chừng tốt đẹp nhưng bên trong có thể
đang tiềm ẩn những nguy cơ.

III.Vai trị của Đảng trong hệ thống chính trị.
Bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng cộng sản khơng
chỉ là đội tiên phong chính trị của giai cấp cơng nhân, mà cịn là đội tiên
phong chính trị của toàn xã hội, là lực lượng lãnh đạo toàn bộ quá trình xây
dựng và bảo vệ đất nước. Đây là sự thay đổi căn bản vị trí, vai trị của Đảng
cộng sản trong điều kiện có chính quyền
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Đảng, nhà nước và các đồn thể chính trịxã hội của quần chung nhân dân hợp thành hệ thống chính trị của xã hội. Đảng
là bộ phận trong hệ thống chính trị, nhưng với vị trí, vai trị của mình trong xã
hội, Đảng cịn là lực lượng lãnh đạo, là bộ phận hạt nhân, chụi trách nhiệm
trước giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc thực hiện sứ mệnh
lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị ấy. Vị trí, vai trị, trách nhiệm đó xuất phát
từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, từ sự thống nhất cơ bản về lợi ích
giữa giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và dân tộc. Khi chính quyền đã là
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và đất nước phát triển lên chủ nghĩa
xã hội thì vai trị lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, với tồn xã hội
là một tất yếu khách quan, không phải do ý kiến chủ quan, áp đặt của những
người cộng sản. Mỗi một xã hội đều gắn liền một bản chất giai cấp nhất định,
do bản chất của giai cấp thống trị xã hội quyết định. Xã hội tư bản chủ nghĩa
không tách rời với bản chất giai cấp của giai cấp tư sản, còn xã hội xã hội chủ
nghĩa gắn liền với bản chất giai cấp của giai cấp công nhân. Cách mạng xã hội
chủ nghĩa- với bản chất giai cấp của nó tất yếu địi hỏi chỉ duy nhất có Đảng
cộng sản lãnh đại. Khơng thể có “Đa ngun”, “Đa đảng” lãnh đạo đất nước
đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đang diễn ra trên thế giới và ở ngay các

20



×