Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Tiểu luận lịch sử tư tưởng chính trị, thuật cai trị trong tư tưởng hàn phi tử và việc vận dụng trong quản lý cán bộ ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.82 KB, 39 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Học thuyết Pháp trị của Trung Quốc ra đời đã trên 2000 năm, mặc dù
có nhiều hạn chế do lịch sử, do bản chất giai cấp nhưng vẫn toát lên được
những giá trị thực tiễn mà ngày nay vẫn áp dụng và phát huy được trong
công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền. Học thuyết Pháp trị bên cạnh
việc nêu ra vai trò của pháp luật và vị thế của người đúng đầu nhà nước cịn
có một thành tố hết sức cơ bản là đưa ra những phương pháp, cách thức để
quản lý nhà nước, đó là thuật cai trị. Trong sự vận hành của nhà nước dù là
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa thì
những người đứng đầu nhà nước đều cần có sự quản lý, đặc biệt là vấn đề
quản lý con người, đó được xem như nhân tố quyết định của quản lý nhà
nước.
Ngày nay, trước xu thế hội nhập của thế giới, Việt Nam đang chuyển
mình để hồ chung vào xu thế đó, vì vậy địi hỏi phải có một nền chính trị
khoa học, hiện đại. Nền chính trị đó phải được xây dựng bởi những con
người có tri thức, có tài năng như thế nào thì tất cả phải được vận hành dưới
sự quản lý từ cao đến thấp. Trong nhà nước Pháp quyền XHCN như ở nước
ta đội ngũ cán bộ chính là những người chịu trách nhiệm quản lý đó, nên
cần và rất cần thiết trong quản lý phải có một nghệ thuật quản lý sử dụng
người hiện đại. Ta có thể tìm thấy rất nhiều kinh nghiệm phong phú và bổ
ích, cũng như hồn tồn có thể áp dụng một cách linh hoạt nghệ thuật quản
lý con người trong tư tưởng về thuật cai trị của Hàn Phi Tử. Hơn nữa, tư
tưởng chính trị của Hàn Phi Tử cũng là một nội dung quan trọng trong
nghiên cứu lịch sử tư tưởng chính trị. Chính vì lý do đó mà em chọn đề tài:
"Thuật cai trị trong tư tưởng Hàn Phi Tử và việc vận dụng trong quản lý cán
bộ ở nước ta hiện nay".


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về vấn đề quản lý nhà nước cũng như quản lý con người trước nay đã


có nhiều cơng trình khoa học, bài viết đề cập đến như:
- Đặng Huy Trú: "Bàn về vấn đề trị nước của người xưa", Nxb văn
hóa thơng tin, Hà nội, 2002.
- Lương Xuân Quý (chủ biên): "Quản lý nhà nước trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Nxb lý luận chính trị,
Hà nội, 2006.
- Nguyễn Anh Tuấn (chủ biên): "Vấn đề quản lý nhà nước trong triết
học Trung Quốc cổ đại, Nxb Đồng Nai, 2002.
Tuy nhiên, do quá trình tìm kiếm tài liệu của em chưa thu thập đầy đủ
hết những tài liệu và bài viết về vấn đề em nghiên cứu nên trong q trình
viết có thể chưa cập nhật đầy đủ và phản ánh chọn vẹn, chính xác ý nghĩa
của vấn đề, em cũng mong rằng qua những gì em sưu tầm và trình bày sẽ
góp phần tìm ra những giá trị trong tư tưởng của Hàn Phi Tử về "Thuật cai
trị" mà đến nay vẫn cịn có ý nghĩa thực tiễn đối với việc quản lý con người
ở nước ta hiện nay.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
a. Mục tiêu
Đề tài góp phần nghiên cứu tìm hiểu rõ về nội dung của thuật cai trị
trong tư tưởng của Hàn Phi Tử. Đồng thời phân tích, làm rõ thực trạng của
đội ngũ cán bộ ở nước ta. Từ đó đề tài tập trung vào việc đưa ra những giải
pháp để vận dụng những ý nghĩa của tư tưởng đó vào việc quản lý và xây
dựng đội ngũ cán bộ ở nước ta hiện nay.
b. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục tiêu trên đề tài cần thực hiện tốt những nhiện
vụ sau:


- Nêu nội dung tư tưởng về thuật cai trị của Hàn Phi Tử
- Đánh giá tình hình quản lý cán bộ ở nước ta hiện nay
- Đưa ra những giá trị thực tiễn và những giải pháp để vận dụng tư

tưởng về "Thuật" vào quản lý cán bộ hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài "Thuật cai trị trong tư tưởng Hàn Phi Tử và việc vận dụng
trong quản lý cán bộ ở nước ta hiện nay" thì phạm vi nghiên cứu chính là
lịch sử xã hội Trung Quốc thời cổ đại với sự xuất hiện tư tưởng chính trị,
đặc biệt là tư tưởng chính trị của Hàn Phi Tử về thuật cai trị và để vận dụng
trong quản lý cán bộ ở nước ta hiện nay thì tác giả cũng đã tham khảo nhiều
tư liệu để biết về tình trạng quản lý cán bộ nước ta. Từ đó tác giả có đưa ra
một số những ý kiến, giải pháp để vận dụng những giá trị thiết thực của tư
tưởng về thuật vào nghệ thuật quản lý cán bộ nước ta hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: đề tài sử dụng phương pháp luận Macxit là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp chung: lôgic - lịch sử, phân tích hệ thống.
- Ngồi ra đề tài cịn sử dụng một số phương pháp đặc thù như khảo
sát, quan sát trực tiếp, nghiên cứu tài liệu đưa ra đánh giá kết luận, phân tích
tổng hợp, đánh giá so sánh.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội
dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Tình hình kinh tế xã hội Trung Quốc cổ đại và sự xuất
hiện tư tưởng về thuật cai trị của Hàn Phi Tử.
Chương II: Nội dung của thuật cai trị trong tư tưởng của Hàn Phi Tử.
Chương III: Vận dụng giá trị của thuật cai trị trong việc quản lý cán
bộ ở nước ta hiện nay.


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương I
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

VÀ SỰ XUẤT HIỆN TƯ TƯỞNG
VỀ THUẬT CAI TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ
1. Tình hình kinh tế - xã hội Trung Quốc cổ đại
1.1. Về kinh tế
Trong suốt chiều dài lịch sử của mình,Trung Quốc ln là quốc gia
lớn ở Đông Nam á.Trên lãnh thổ Trung Quốc có hai con sơng lớn chảy qua
là Trường Giang ở phía nam và Hồng Hà ở phía Bắc.Lưu vực của hai con
sông này sớm trở thành cái nôi của nền văn minh Trung Quốc.
Trung Quốc cổ đại kéo dài từ thế kỷ XXI TCN đến cuối thế kỷ III
TCN, lịch sử Trung Quốc cổ đại được chia làm ba thời kì tương ứng với ba
vương triều: Hạ,Thương,Chu.
- Hạ (thế kỷ XXI - XVI TCN) : Thời kì này Trung Quốc mới chỉ biết
đến đồng đỏ,chưa có chữ viết.Sau bốn thế kỷ,đến dời vua kiệt,bạo chúa nổi
tiếng đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc,triều Hạ bị diệt vong và không để
lại chứng tích cụ thể.
- Thương (thế kỷ XVI - XII TCN) cịn gọi là Ân.Thời kì này Trung
Quốc biết sử dụng đồng thau,chữ viết ra đời và họ đã làm ra lịch nông
nghiệp, biết quan sát sự vận hành của mặt trăng, tính chu kì của nước sơng
dâng lên.
- Chu (thế kỷ XI - III TCN) triều Chu được chia làm hai thời kì:Tây
Chu và Đơng Chu.Từ khi thành lập cho đến năm 771 TCN triều Chu đóng
đơ ở Cảo Kinh; phía tây nên gọi là tây Chu.Thời tây Chu,nhìn chung xã hội


Trung Quốc tương đối ổn định.Từ năm 771 TCN, nhà Chu rời đơ về lạc ấp
ở phía đơng,nên gọi là Đơng Chu.Thời Đơng Chu tương ứng với hai thời
kì :Xn Thu (772 - 481 TCN) và Chiến Quốc (403 - 221 TCN).
Thời Đơng Chu là thời kì chuyển biến từ chế độ CHNL sang chế độ
phong kiến. Đồ sắt được sử dụng rộng rãi, tạo nên cuộc cách mạng về công
cụ sản suất; nông dân đã được tạo điều kiện trồng hai vụ lúa do hệ thống

thuỷ lợi rất phát triển; các nghề khai khoáng, chế tác kim loại, làm muối,
dệt vải, đan lát phát triển,theo đó xuất hiện các trung tâm buôn bán,đô thị,
mở rộng hệ thống giao thông.
1.2 Về chính trị - xã hội
Bắt tay xây dựng nền thống trị của mình,nhà Chu đã " thiết lập trật tự
xã hội theo kiểu Tông".Theo tinh thần của tông pháp, Chu thiên tử là người
đứng đầu thay trời trị dân, các nước chư hầu do thiên tử lập ra gọi là tông
quốc (nghĩa là cùng một tổ tiên chung). Thực chất, "Tông pháp là chế độ
thống trị dựa trên cơ sở huyết thống của một dòng họ" (1)(1) . Đây là nét đặc
thù của chế độ chính trị nhà Chu, biểu hiện của tàn dư chế độ thị tộc còn lưu
truyền dưới chế độ CHNL; nói lên tính chất bảo thủ và lạc hậu của ý thức
xã hội so với tồn tại xã hội của Phương Đông.
Dựa trên chế độ Tông pháp, nhà Chu đã thiết lập và củng cố nền
thống trị của mình qua nhiều thế kỷ và đã đưa chế độ CHNL lên đến đỉnh
cao ở thời Tây Chu. Nhưng từ năm 770 TCN, do những nguyên nhân khách
quan và chủ quan; nhà Chu phải dời đô sang đất Lạc ấp ở phía Đơng. Từ đó,
nhà Chu suy yếu dần và khơng cịn ước thúc được các nước chư hầu nữa.
Nhân cơ hội này, các nước chư hầu mượn danh nghĩa "tơn Vương" (Tơn
phị nhà Chu) để động binh thơn tính các nước khác, giành quyền làm bá
chủ. Chế độ Tông pháp - cơ sở tổ chức xã hội của nhà Chu - bị phá vỡ và
Trung Quốc bước vào thời kỳ khủng hoảng xã hội ngày càng trầm trọng và
(1)(1)

Đàm Gia Khiêm: Lịch sử văn hoá Trung Quốc – Nxb KHXH, H.1993, tr.34


thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc chiến tranh giữa các nước chư hầu kéo dài
liên tục suốt 5 thế kỷ, từ cục diện ngũ bá thời Xuân Thu đến thất hùng thời
chiến quốc. Đặc biệt sự ra đời của đồ sắt đã tạo ra bước nhảy vọt của công
cụ sản xuất, làm cho lực lượng sản xuất trở nên mâu thuẫn gay gắt với quan

hệ sản xuất thống trị ban đầu. Sự tan rã của chế độ Tông pháp là hệ quả tất
yếu của những mâu thuẫn đó; đồng thời, những mâu thuẫn về kinh tế là
nguyên nhân của những tình trạng các cứ tiếm ngơi vị, tranh giành bá chủ
và khủng hoảng xã hội triền miên. Những biến động của xã hội Trung Hoa
cổ đại được bắt đầu từ những nguyên nhân bên trong của nó và thực chất
của những biến động ấy là bước chuyển từ hình thái xã hội nô lệ suy tàn và
phong kiến sơ kỳ sang hình thái xã hội phong kiến tập quyền đang trong
quá trình xác lập.
Trong bối cảnh xã hội giao thời những giá trị chuẩn mực cũ bị băng
hoại, những chuẩn mực mới chưa định hình, cho nên trật tự lễ nghĩa bị phá
bỏ, cường xã hội bị đảo lộn, bức tranh toàn cảnh của xã hội Trung Quốc ở
giai đoạn này là sự khủng hoảng hết sức sâu sắc về chính trị - xã hội và đạo
đức, luân lý. Do tác động của những biến đổi kinh tế xã hội, một bộ phận
quý tộc cũ bị sa sút, mất địa vị; khơng cịn được làm quan lại mà đi làm
thầy trong thiên hạ. Một cách không tự giác, họ đóng vai trị tích cực trong
việc chuyển tải văn hố quan phương. Từ phong trào này, xuất hiện tầng
lớp kẻ sỹ cùng với một trào lưu học thuật và tự do tư tưởng rộng rãi đại diện
cho lợi ích của các tầng lớp, giai cấp xã hội khác nhau như Lão Tử, Khổng
Tử, Mặc Tử, Hàn Phi Tử với các học thuyết Lão Gia, Nho Gia, Mặc Gia,
Pháp Gia…
"Hiện thực xã hội nóng bỏng đương thời đã địi hỏi các học thuyết
phải quan tâm lý giải và đề xuất những giải pháp để vãn hồi trật tự" (1)(1).
Xuất phát từ quan niệm nền tảng "đạo" Lão Tử cho rằng: xã hội loạn là do
Đỗ Đức Minh: Về nguyên nhân ra đời của học thuyết Pháp trị ở Trung Quốc, Tạp chí
Lý luận chính trị, 12/2003
(1)(1)


con người vi phạm quy luật tự nhiên, nên ông chủ chương "vô vi", khuyên
mọi người từ bỏ mọi thành quả văn minh và chạy trốn vào tự nhiên, thoát ly

thực tế. Trang Tử lại muốn đi về một nẻo xa hơn, bi quan, yếm thế gần như
thoát tục, chỉ cịn mong được "làm con rùa để lết cái đi trong bùn". Theo
Khổng Tử, xã hội loạn là do lễ chế nhà Chu bị buông lỏng, nên ông chủ
trương khôi phục lễ đề xuất chủ trương đức trị. Gần 200 năm sau, trong khi
chiến tranh loạn lạc vẫn diễn ra gay gắt, Mạnh Tử tiếp tục tư tưởng của
thầy. Nhiệt tình say mê với lý tưởng, ơng cũng khơng tiếc sức mình khuyên
răn các bậc cầm quyền đi theo con đường Vương Đạo. Cịn Mặc Tử, ơng là
người đề xuất chủ trương kiêm ái, kêu gọi xây dựng xã hội trên cơ sở tình
thương khơng phân biệt giai cấp; Mặc Tử cùng với hàng nghìn đệ tử bơn ba
truyền thuyết một thời, song cuối cùng chẳng được ai trọng dụng.
Khổng Tử, Mặc Tử, Mạnh Tử…đều là những nhà tư tưởng lớn, nhiệt
tình lo toan cứu đời; khơng tiếc thời gian và sức lực đã tích cực truyền bá
chủ trương, nhưng đều thất bại vì Khổng Tử đứng trên lập trường của giai
cấp quý tộc cũ đã suy tàn, Mặc Tử đại diện cho tầng lớp quý tộc bình dân…
Tất cả đều là những giai cấp đã khơng cịn giữ được vai trò lịch sử tiên
phong. Cho nên, học thuyết của các ơng đều mang tính khơng tưởng và
khơng đáp ứng được yêu cầu của thời cuộc. Sự bế tắc của lý luận chính là
một nguyên nhân kéo dài và sâu sắc thêm khủng hoảng xã hội đương thời.
Lịch sử Trung Quốc đã từng kiểm nghiệm vai trò các học thuyết
"Đức trị", "Vô Vi trị", "Kiêm ái"…song chúng đều tỏ ra bất lực vì khơng
đáp ứng được u cầu thời cuộc. Vào lúc tưởng chừng bế đó, học thuyết
Pháp trị xuất hiện trên vũ đài chính trị như là đại biểu ra đời sau cùng,
nhưng đã nhanh chóng được đón nhận; trở thành vũ khí lý luận sắc bén của
nhà Tần trong việc giải quyết cục diện hỗn loạn và thống nhất Trung Quốc.
Nó xuất hiện muộn màng; nhưng đã bắt kịp yều cầu lịch sử; nhanh chóng
chiếm lĩnh vũ đài chính trị và cũng sớm ra đi cùng với sự sụp đổ của nhà


Tần. Như tia chớp loé sáng trong cơn giông, tuy tồn tại ngắn ngủi, nhưng tư
tưởng của học thuyết pháp trị đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử.

Học thuyết Pháp trị là học thuyết đạt đến đỉnh cao tư tưởng chính trị pháp lý thời cổ đại với vai trò Tập Đại Thành của Hàn Phi Tử được hình thành
trên cơ sở thống nhất của ba học phái: Pháp của Thương Ưởng, Thế của Thận
Đáo, Thuật của Thân Bất Hại, đã phát triển rực rỡ ở thời kỳ Tiên Tần và tuy
không được bổ sung phát triển liên tục trong lịch sử như các học thuyết khác;
song hiện nay dưới góc độ của "khoa học pháp lý hiện đại" (1)(1) để tìm hiểu về
học thuyết này chúng ta vẫn thấy toát lên những giá trị tư tưởng bổ ích.
2. Thuật cai trị - một trong ba thành tố cơ bản của học thuyết Pháp trị
2.1. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng về thuật cai trị
- Đạo Gia: người sáng lập là Lão Tử (580 - 500 TCN) bao trùm tư
tưởng cai trị xã hội của Lão Tử là chủ trương "Vô vi nhi trị" nghĩa là để cho
xã hội tự nhiên như vốn có, không can thiệp bằng bất cứ cách nào; xã hội sẽ
được ổn định. Ông vừa nêu ra vừa tổng kết có 4 hình thức cai trị là:
+ Dùng Vơ vi: dân sống tự nhiên; yên ổn; cai trị đơn giản
+ Dùng đức: giáo hoá dân; dân nghe theo mà ca ngợi
+ Dùng pháp: dân theo; nhưng vì sợ hãi mà theo
+ Dùng mưu lừa gạt: dân theo vì bị lừa; khi biết sẽ phản đối
Ông chủ trương cai trị bằng phương pháp Vơ vi vì cho rằng đó là hợp
lẽ với tự nhiên. Cai trị Vô vi là không dùng trí tuệ vào việc cai trị. Cụ thể là
khi dùng pháp luật hay dùng mưu mẹo để cai trị thì dân sẽ tìm cách lẩn
tránh pháp luật. Ơng dùng khái niệm "Tri túc"; nghĩa là phải biết như thế
nào là đủ; để điều chỉnh hành vi con người. Biết nhiều quá khó trị, tham lam
quá sinh ra loạn.
- Nho gia:
Đỗ Đức Minh: Học thuyết Pháp trị Trung Quốc cổ đại – một số tư tưởng cơ bản, Tạp
chí nghiên cứu pháp luật số 2, 2/2002
(1)(1)


Khổng Tử: (551 - 478 TCN) là người sáng lập Nho giáo; tên là Khổng
Khâu; tự là Trọng Ni, người nước Lỗ. Về vấn đề cai trị con người, Khổng Tử

đưa ra thuyết "chính danh định phận" với một số nội dung cơ bản sau:
Theo ông, mỗi người phải biết giữ danh phận của mình mới có thể
gây được nền chính trị của thời "Thiên hạ có đạo". Do đó, việc làm chính sự
theo ơng thì trước hết phải chính danh đã, tức phải xác định danh phận của
các đẳng cấp, các tầng lớp xã hội theo lễ chế của nhà Chu. Nhưng làm thế
nào để thực hiện được chính danh?. Ông cho rằng mọi người phải tự giác
giữ lấy danh phận của mình. Từ Thiên tử, Chư hầu, Đại phu đến kẻ sĩ phải
tu dưỡng đạo nhân để có sự tự giác đó. Đối với người cai trị thì "nếu thân
mình mà chưa chính được rồi thì đối với mọi việc chính sự cịn có gì khó.
Khơng thể chính được thân mình thì chính người khác thế nào?".
Quan niệm chính danh của Khổng Tử là ảo tưởng vì đương thời danh
và thực mâu thuẫn nhau sâu sắc. Cái thực là đời sống xã hội; trật tự xã hội
đã có nhiều biến đổi làm cho cái danh phận cũ được theo lễ chế của nhà
Chu khơng cịn phù hợp nữa. Do đó mà khơng thể làm được.
Mạnh Tử: (372 - 289 TCN) là người kế thừa và phát triển sáng tạo tư
tưởng của Khổng Tử, được coi là "chính phái". Về vấn đề cai trị ông đưa ra
quan điểm "thi hành chính trị theo vương đạo và được lịng dân" với một số
nội dung cơ bản sau: Mạnh Tử đề cao vương đạo, phản đối bá đạo. Theo
ông, vương đạo là nhân nghĩa còn bá đạo là "lợi", mà lợi là nguồn gốc của
mọi rối ren, cướp đoạt lẫn nhau. Trong mối quan hệ vua - tôi; ông lấy thái
độ của vua đối với đầy tôi làm điều kiện để xét thái độ của bầy tơi với vua.
Theo ơng chính trị vương đạo phải là nhân chính; lấy dân làm gốc. Ông đã
nêu lên một quan điểm nổi tiếng về quan hệ giữa vua, xã tắc và dân. Trong
mối quan hệ đó thì: "dân vi q; xã tắc thứ chi; quân vi khinh". Mạnh Tử
cũng phát triển triết thuyết tôn trọng người hiền của Khổng Tử với những
luận điểm tích cực hơn. Theo ông, trị nước là một nghề cao quý nhất nên


người cai trị phải được tuyển chọn và đào tạo công phu chu đáo. Thận
trọng theo Mạnh Tử là khi chọn người, không phải cứ người thân cận đều

cho là hiền, dân trong nước đều cho là hiền mà phải xét thấy thật là hiền
mới dùng. Mạnh Tử đã nhìn thấy được sức mạnh của dân và lấy sự thi hành
nhân chính đối với nhân dân là điều cơ bản của vương đạo. Đó là điều rất
tiến bộ; khơng thể phủ nhận của học thuyết “vương chính”.
Tn Tử (315_230TCN) Có tên là Huống, tự là Khanh,người nước
Triệu. Ông sống vào cuối thời chiến quốc; là thời kì cục diện chiến tranh
“thất hùng” đi vào giai đoạn cuối; xã hội càng loạn lạc; dân lành khổ sở vì
chiến tranh. Cho nên ông coi trọng nền chính trị trọng hiền tài và cai trị
bằng “lễ” và “luật”.
Theo Tuân Tử, nền chính trị theo “ vương đạo”là phải trọng dụng người hiền. Người hiền, theo ơng là những người có tài cai trị người. Ông chủ
trương:”phải làm cho người hiền tài ở địa vị xứng đáng và kẻ bất tài phảI
chịu thấp kém”.Theo ông,chọn người hiền tài là đẻ thực hiện “lễ” và “luật”
của nền chính trị theo vương đạo.Tuân Tử cho rằng, những thuyết sai,ngơn
luận lệch lạc là trở ngại cho “chính danh”,phá hoại “lễ nghĩa”,”pháp độ”
nên không cần tranh luận mà phải dùng cáI “thế” tức là quyền cưỡng bức
mà định đoạt. Quan điểm về nền chính trị hiền tài và cai trị bằng pháp luật
của Tuân Tử đương thời là một tiến bộ. Nhưng ở trong tư tưởng luật pháp
của ông đã có xu hướng chuyên chế,đó là nhịp cầu của sự quá độ từ “nhân
trị” đến “pháp trị” của Hàn Phi Tử thời Tiên Tần.
Pháp gia:
Tư tưởng Pháp trị vốn đã có từ thời xuân thu với những đại biểu nổi
tiếng như Quản Trọng (nước Tề), Tử Sản (nước Trịnh). Quản Trọng được
coi là ông tổ của phái pháp gia. Đến thời chiến quốc, tư tưởng pháp trị mới
phát triển mạnh; đại biểu là Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng, Hàn
Phi Tử. Ở đây, do việc nghiên cứu chỉ nhằm làm sáng tỏ những tư tưởng về


thuật cai trị của người xa nên tác giả chỉ xin được nêu những tư tưởng chính
liên quan đến thuật cai trị đất nước.
Quản Trọng (Quản Di Ngô) là đại biểu tiêu biểu đầu tiên của phái

pháp gia. Ông từng làm tướng quốc nước Tề ; giúp vua Tề Hoàn Cơng trở
thành bá chủ đầu tiên ở Trung Quốc. Ơng quan niệm rằng: vua lập ra pháp
luật;cơ quan canh coi pháp luật; dân chúng thi hành pháp luật, vua_tôi,
trên_dưới, giàu_nghèo đều tuân theo pháp luật. Muốn thực hiện được pháp
luật thì dân chúng phải biết pháp luật; biết đúng mà làm; biết sai mà tránh;
nên được thưởng không phải mang ơn, bị phạt khơng dám trách.Thậm chí
ơng cịn cho rằng dân có thể dùng pháp luật để tranh luận với người coi
canh pháp luật…
Thận Đáo (370_290 TCN) ông là người nước Triệu, chịu ảnh hưởng
của triết học Lão Tử, ông chủ trương cai trị bằng pháp luật, coi pháp luật
khách quan vơ tình nh vật vơ tri. Ơng chủ trương đề cao “thế” của người
đứng đầu chinh thể;nghĩa là đề cao quyền lực ; sử dụng quyền lực để giữ
quyền và điều khiển thiên hạ. Đả kích chủ nghĩa nhân trị của nho giáo,Thận
Đáo đặc biệt đề cao uy quyền.Nếu vua Nghiêu là kẻ thường dân thì khơng trị
nổi ba người .Vua Kiệt làm thiên tử có thể trị được cả thiên hạ. Từ đó thấy
rằng, thế lực và địa vị là đủ; tài là không đáng mộ .Tài hiền mà trí cao cha đủ
để thu phục lịng người .Thế lực và địa vị thì đủ để khuất phục lịng người.
Thương Ưởng (? – 338 TCN) :Tư tưởng pháp trị của Thương Ưởng
được nêu trong sách “Thương Quân” .Theo Thương Ưởng từ khi có xã hội
lồi người đến nay được chia ra làm ba giai đoạn”.
Giai đoạn 1: “Thượng Thế”_thời đại lấy mẫu hệ làm đơn vị
Giai đoạn 2: “Trung Thế”_thời đại lấy “chủ nghĩa nhân trị” của nhà
nước cổ đại
Giai đoạn 3 : “Hạ Thế”_thời đại quan trị; chủ trương thay đổi chế độ
và đặt ra pháp luật.


Ông đề ra phương châm pháp luật ba điểm: 1) Xác nhận tính chất hợp
pháp của việc chiếm hữu ruộng đất bằng mua bán. 2) Xác nhận quyền bình
đẳng của các tầng lớp trong giai cấp địa chủ phong kiến trước pháp luật.

3)Thiết lập chủ nghĩa chuyên chế trung ương tập quyền cai trị bằng pháp
luật.
Thương Ưởng sang nước Tần giúp vua Tần Hiếu Công tiến hành cải
cách theo tư tưởng chính trị của ơng. Ơng xây dựng nhà nước phong kiến
trung ương tập quyền cai trị bằng luật pháp hà khắc; xố bỏ tình trạng cát
cứ phong kiến, đặt ra quận,huyện và chức quan cai trị theo sự điều hành
của chính quyền trung ương. Nhà nước cải cách của ông đã đặt cơ sở cho nước Tần thống nhất Trung Quốc.
Hàn Phi Tử (280_233 TCN)
Hàn Phi Tử là công tử nước Hàn, ơng theo học Tn Tử;cùng học có
Lý Tư sau này là thừa tướng nước Tần. Ông học rộng, biết sâu, yêu nước,
muốn nước Hàn vững mạnh bằng chủ trương pháp trị của mình nhưng
khơng thành.Ơng viết sách bàn về việc trị nước. Sách này được dâng lên
Tần Thủy Hồng. Vua Tần sau khi đọc vơ cùng khâm phục nói :”Ta được
làm bạn với con người này có chết cũng không uổng”. Hàn Phi được giao
làm sứ giả sang Tần làm thuyết khách để cứu nước Hàn khỏi bị nước Tần
tiêu diệt, nhưng ông bị Lý Tư (vốn là bạn học cũ) đầu độc chết trong ngục
của nước Tần. Ông để lại tác phẩm Hàn Phi Tử trong đó viết những điều
tâm huyết về pháp trị (gồm pháp ,thuật và thế) với sự hiểu biết sâu sắc về
triết học, văn học, lịch sử...ở đây, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác
giả chỉ đề cập đến tư tưởng về thuật trị nước mà điều căn cốt nhất chính là
thuật dùng người và thuật phịng gian,trừ gian
Trong số những nho gia thời Tiên Tần,Tuân tử co lẽ là người bàn
nhiều nhất về vấn đề dùng người, Tuân tử đã có những tư tưởng về phân
cơng cơng tác và bố trí nhân sự vào những nhiệm vụ khác nhau trong bộ


máy nhà nước nhưng phái pháp gia có lẽ cống hiến nhiều nhất những tư
tưởng về vấn đề nghệ thuật tuyển dụng và dụng người trong cai trị đất nước.
Không học phái nào đời Tiên Tần bàn nhiều về vấn đề này như pháp gia.
Pháp gia chủ yếu bàn về vấn đề dùng người là vì họ khơng coi trọng đạo

đức của nhà lãnh đạo mà đề cao nghệ thuật tuyển chọn và sử dụng bề tôi
của các bậc quân vương.
Việc dùng người ở đây là muốn nói đến quan hệ giữa vua và quan;
việc sử dụng các quan lại trong điều hành đất nước pháp gia đưa ra rất
nhiều nghệ thuật để tuyển dụng và sử dụng quan lại.Vấn đề này được giải
quyết trong một khái niệm của pháp gia là “thuật”. “Thuật là phương pháp;
thủ thuật; cách thức; mưu lược điều khiển công việc và dùng người; sai
khiến người triệt để; tân tâm thực hiện hiến lệnh của nhà vua mà không hiểu
vua dùng họ như thế nào”(1)(1). Có người phân biệt Thuật thành hai loại: một
là những kĩ thuật, tức là những phương án để tuyển; dùng xét khả năng của
quan lại; hai là tâm thuật, tức là những mưu mô để chế ngự quần thần (2)(2).
Nếu Thuật được dùng tốt thì ơng vua là người “sáng suốt”, điều này có
nghĩa là ơng ta “nắm vững các tin tức”(3)(3). Ơng vua muốn quản lý tốt đất
nước khơng thể thiếu phương thức hữu hiệu là Thuật. Về thực chất “Thuật”
chính là những nghệ thuật tuyển chọn và sử dụng quan lại trong việc cai trị
đất nước . Vua quản lý đất nước khơng thể đích thân làm hết mọi việc; mà
phải có bộ máy quan lại trong từng lĩnh vực;từng địa phương để giúp mình
cai trị. Nhưng để cho quyền lực của nhà vua được bảo đảm sự tập trung và
không bị cắn xé hay bị lợi dụng bởi các quan lại; vua phải có những nghệ
thuật chọn lựa và sử dụng đội ngũ quan lại.
Quan điểm của Hàn Phi về thuật có một cơ sở triết lí của nó là thuyết
danh thực vốn thốt thai từ thuyết chính danh cũ của các nhà triết học trước
đó. Thuyết này được diễn đạt trong văn thức; “ Theo danh mà trách thực “.
Thực theo pháp gia là giữ những chức vụ trong chính quyền; cịn danh, tức
Dỗn Chính (Chủ biên): Đại cương lịch sử triết học phương Đông Cổ đại. Nxb Đại học
và giáo dục chuyên nghiệp, H.1992, tr.294
(2)(2)
Nguyễn Hiến Lê: Hàn Phi Tử, Nxb Văn hố Thơng tin, H.1998, tr.292
(3)(3)
Max Kaltenmark: Triết học Trung Quốc, Nxb Thế giới, H.1999, tr.64

(1)(1)


là chức vị về những chức vụ ấy. Những chức vị ấy cho ta biết những gì
người có chức vụ phải làm theo lí tưởng” (4)(4). Như vậy,theo danh mà trách
thực nghĩa là buộc các quan chức phải chịu trách nhiệm thực thi những bổn
phận bao gồm trong chức vụ đó. Bổn phận vua là trao một danh riêng cho
một người riêng, tức là giao một nhiệm vụ nhất định cho một người nhất
định. Pháp luật quy định các nhiệm vụ thuộc về chức vụ ấy, danh đặt ra cho
mỗi nhiệm vụ ấy, chỉ rõ những nhiệm vụ.
Trong tư tưởng của Hàn Phi có rất nhiều nghệ thuật là những quyền
mưu tâm thuật được sử dụng trong việc sử dụng các quan lại. Các quyền
mưu này rất đa dạng, không theo một nguyên tắc nào,tùy thuộc vào từng
hoàn cảnh mà áp dụng.
Nhìn chung,pháp gia có cống hiến rất nhiều về vấn đề nghệ thuật
tuyển chọn và sử dụng nhân sự trong quản lý nhà nước. “Sự quan tâm của
pháp gia về vấn đề này cho thấy rằng nhà triết học pháp gia đối lập với chủ
nghĩa nhân văn và dựng nên một nghệ thuật chính trị; dựa trên những tiêu
chí thuần túy thực tiễn và vật chất”(1)(1). Các quan điểm của pháp gia về
thuật có cơ sở của các triết thuyết trước đó, những đường hướng về chủ
trương chung của pháp gia mang tính chất thực tiễn và mất đi giá trị nhân
văn của các triết thuyết đó. Điều này thể hiện ở thuyết danh thực của Hàn
Phi vốn có nguồn gốc từ thuyết chính danh của Khổng Tử; hay tham
nghiệm tiếp thu từ Mặc Tử.
Tư tưởng của pháp gia có nhiều nhân tố tích cực, nhưng trong tay bọn
đế vương phong kiến thì khơng thể có tác dụng tích cực được; mà chỉ làm
cho quyền lực tập trung trong tay nhà vua, quy lại thành “chủ nghĩa chuyên
chế”(2)(2). Sự áp dụng nó trong thực tiễn quản lý nhà nước thì mới gây ra
những tác dụng tiêu cực, cịn bản thân nó là tiến bộ, có ý nghĩa. Tư tưởng
Phùng Hữu Lan: Đại cương triết học sử Trung Quốc, Nxb Thanh niên, H.1999,

tr.168
(1)(1)
Max Kaltenmark: Triết học Trung Quốc, Nxb Thế giới, H.1999, tr.64
(2)(2)
Lã Trấn Vũ: Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc, Nxb Sự thật, H.1964, tr.291
(4)(4)


về nghệ thuật tuyển chọn và sử dụng quan lại của pháp gia là một trong
những nguồn hình thành nên ngành khoa học quyền mưu ở Trung Quốc
hiện đại. Ứng dụng quyền mưu học trong cai trị thành những nghệ thuật
quản lí nhà nước là đặc biệt có ý nghĩa đối với việc quản lí nhà nước hiện
đại.
2.2 Sự cần thiết của thuật cai trị đối với hoạt động quản lí đất nước.
a) Vua muốn cai trị phải nắm quyền dùng người.
Sau khi xác định phương châm trị quốc, nhân lực chính là nhân tố
mang tính quyết định. Muốn bảo đảm cho pháp trị tiến hành thuận lợi, vua
phải nắm đại quyền dùng người.Người được tuyển chọn phải hội đủ tố chất
nhiều mặt, quán triệt ý đồ của nhà vua,nỗ lực giúp vua thực thi thế trị,pháp
trị, thuật trị. Nguyên tắc dùng người của vua là nắm pháp thuật, dụng hình
danh, bỏ tâm trị - đó là cách tổ chức và dùng người của Hàn Phi Tử.
Việc dùng người như thế nào liên quan tới sự tồn vong, trị loạn của
quốc gia đó,Hàn Phi Tử viết :”dùng cơng việc để sử dụng người,đó là cái
then chốt của sự cịn hay mất, trị hay loạn. Nếu khơng có cái thuật để bổ
nhiệm người thì dùng người nào cũng hỏng” (1)(1). Cái lo của tình trạng
khơng có thuật chính là nếu vua dùng người khơn thì người khơn sẽ lừa nhà
vua, cịn nếu như dùng người trau giồi thân mình thì cơng việc của nhà vua
sẽ vì thế mà rối loạn. Hơn nữa , vua lập nên đại nghiệp không thể thiếu sự
trợ giúp của bậc trung thần, có sự ủng hộ của người trong thiên hạ,địa vị
của ông vua mới vững bền,cục diện yên ổn lâu dài, sự nghiệp và uy danh

cũng được vẻ vang. Vị vua chúa sáng hiểu rõ cái thuật làm cho nước mạnh
dân giàu thì có thể đạt được điều mình muốn, Hàn Phi Tử đã minh chứng
bằng việc đưa ra những tấm gương điển hình để thấy được cái lợi của thuật
dùng người, ví như Triệu Kính Hầu lập thân xử thế, ăn uống vui chơi khơng
biết dừng, dựng hình quyết đốn, giết hại thần dân , bất chấp pháp độ,
(1)(1)

Phan Ngọc (Dịch): Hàn Phi Tử, Nxb Văn hoá, HN-2005, tr.515


nhưng Triệu Kính Hầu vẫn trị vì đến mấy mươi năm, quân đội vẫn chưa bị
địch đánh bại, lãnh thổ không hề bị các nước lân cận xâm chiếm, trong
nước khơng hề có bề tơi làm loạn, bên ngồi khơng có họa ngoại xâm, ấy là
do biết được cách sử dụng người như thế nào. Vì thế người lãnh đạo phải có
thuật dùng người. Ơng ca ngợi : “vị vua chúa sáng phải hiểu rõ cái thuật
làm cho nước mạnh dân giàu thì có thể đạt được điều mình muốn” (2)(2). Vì
vậy cho nên cẩn trọng trong việc nghe nói cách trị nước là cái phép làm cho
nước được giàu mạnh.
Trong cách cai trị nước của bất cứ quốc gia nào,nếu vua muốn nắm
quyền và để quyền lực mãi mãi tồn tại khi mình trị vì thì nhất thiết phải
dùng “thuật”để cai trị đất nước, bậc vua chúa phải có thuật mới khiến bề tôi
không dám phản bội; nhưng sử dụng thuật đó như thế nào cịn tùy vào sự
sáng suốt và tài năng của mỗi người: “trong nước của bậc vua sáng có bầy
tơi sang nhưng khơng có bề tơi nắm quyền lớn. Bầy tơi sang đó là bầy tôi
được hưởng tước cao và làm quan to. Bầy tôi nắm quyền lớn,đó là bầy tơi
nói thì được nghe ,có nhiêu thế lực. Trong nước của vị vua sáng thì quan
tước là do cơng lao mà có, cho nên có bầy tơi sang. Lời nói nếu khơng đúng
quy tắc, việc làm dối trá thì thế nào cũng bị phạt, cho nên khơng có bầy tơi
nắm lấy quyền”(1)(1).
b) Trị nước dùng người không dùng thuật sẽ đem đến tai họa.

Thuật trị theo Hàn Phi Tử chính là phương pháp và thủ đoạn của vua
quản lý bề tôi,là căn cứ năng lực của mỗi người mà trao cho chức quan
tương ứng,theo cái danh mà truy cứu cái thực, nắm quyền sinh sát xét khả
năng của quần thần. Đó là cái bậc mà vua chúa phải nắm trong tay nhưng
trong việc trị nước nếu chỉ dung người mà không dùng thuật sẽ đem đến tai
họa bởi vì bổ nhiệm người làm việc là điểm then chốt của sự tồn vong, trị
loạn. Vì thế nếu vua khơng có thuật để bổ nhiệm người, thì vô luận bổ
(2)(2)
(1)(1)

Sđd - tr.520, quyển XVIII, thiên Bát thuyết
Sđd, tr.523, quyển XVIII, thiên Bát thuyết


nhiệm người nào đều thất bại. Khi vua chúa bổ nhiệm ai tức là cho họ
quyền hành để họ thực thi mệnh lệnh của mình.Theo Hàn Phi,những kẻ có
tài trí chưa hẳn là đã đáng tin, bởi vua thấy ở họ cái tài, cái trí mà nhầm
tưởng họ là thành thực, đáng tin, cho nên nếu họ dùng mưu trí đó dựa vào
quyền hành mà làm việc riêng tư thì vua tất bị họ gạt. Đó chính là tai họa
của việc khơng biết dùng thuật.
Vì kẻ có tài trí thường khơng đáng tin nên vua ưu ái những người có
đức.Tuy nhiên người có đức khơng hẳn có tài trí mà vua nhầm tưởng cái tài
trí của họ từ sự liêm khiết nên cho họ tham gia vào chính sự, để họ đi làm
những việc họ cho là đúng thì tất xã hội sẽ rối loạn. Đó cũng lại là cái họa
của khơng có thuật. Cho nên, bậc vua chúa phải có thuật mới khiến bề tơi
khơng dám phản bội; cái “thuật” đó là gì?. Hàn Phi viết:”vị chủ sáng khơng
cậy vào chỗ người ta khơng làm phản lại mình, mà cậy vào chỗ người ta
khơng thể phản lại mình; khơng cậy vào chỗ người ta không lừa người
ta,mà cậy vào chỗ người ta không thể lừa ta”(1)(1).


Chương II

(1)(1)

Sđd - tr.351, quyển XX, thiên XXXIII


NỘI DUNG CỦA THUẬT CAI TRỊ
TRONG TƯ TƯỞNG HÀN PHI TỬ
1. Nguyên tắc cơ bản trong thuật dùng người.
1.1. Sử dụng người tận trung tận lực.
Thời xưa,những người cả đời phị vua bằng cả sức lực của mình
thường được gọi là trung thần. Vậy như thế nào thì được gọi là bậc trung
thần, Hàn Phi Tử viết: “nếu có bậc trung thần thì bên ngồi khơng phải lo
về nước địch, bên trong không phải lo bề tôi làm loạn, được yên ổn lâu dài
trong thiên hạ và danh tiếng để lại cho đời sau. Như thế mới gọi là bậc trung
thần”(1)(1).Trong công việc , những bậc trung thần là những người tận trung,
tận lực phò vua. Ở chương Hữu Độ, Hàn Phi viết: “người hiền khi đã làm
bầy tôi người ta thì quay mặt về hướng bắc mà thi hành chức vụ, khơng có
hai lịng. ở triều đình khơng dám từ chối việc hèn kém, khi ở quân đội
không dám từ chối việc khó,thuận theo việc làm của cấp trên, nghe theo
phép của vua, hư tâm để đợi mệnh lệnh, chứ khơng bàn chuyện phải trái. Vì
vậy, tuy có miệng nhưng khơng nói việc riêng, tuy có mắt nhưng khơng
nhìn việc riêng, tất cả đều do bề trên sai khiến” (2)(2). Phận bề tơi ở đay được
ví như cánh tay, trên thì dùng nó để chải chuốt đầu, dưới thì dùng nó để
chăm sóc bản thân, thân thể nóng hay lạnh nó phải ứng cứu. Ơng vua có
được bậc trung thần tận tụy như vậy thì phải biết thu nạp va vận dụng để cai
trị đất nước. Về những bậc nghịch thần, khơng nghe lệnh vua, ơng đưa ra
những ví dụ tiêu biểu: “Điền Hằng nước Tề,Tử Hân nước Tống, Quý Tôn
Như ý nước Lỗ, Kiều Như nước Tấn,Tử Nam Kinh nước Vệ, Thái tể Hân

nước Trịnh, Bạch Công nước Sở, Đan Đồ nước Chu, Tử Chi nước Yên chín
người này là những bọn bầy tôi lập bè lập đảng để thờ nhà vua, che giấu cái
chính đạo mà làm việc quanh co riêng tư, ở trên lấn át nhà vua, ở dưới làm
loạn việc cai trị. Họ dựa vào bên ngoài để quấy rối bên trong,thân với kẻ
(1)(1)
(2)(2)

Sđd: quyển IV, tr.136
Sđd: quyển II, tr.56


dưới để mưu hại người trên, điều đó họ làm khơng khó. Những bọn bầy tơi
như thế, chỉ có bậc vua thánh , vị chúa khơn ngoan mới có thể cấm được,
những ông vua hôn loạn làm sao thấy được cái gian của họ”(1)(1).
1.2. Dùng thuật “vơ vi” quản lí bề tôi.
Hàn Phi Tử là ngươi duy nhất của Trung Quốc thực hiện được sự
tổng hợp của ba học thuyết Nho, Lão, Pháp. ở đó Nho là tài liệu xây dựng,
Pháp là cái bản thiết kế, nhưng Lão mới là kĩ thuật thi cơng của cái ngơi nhà
độc đáo đó. Khái niệm chủ đạo của ông là”vô vi”nghĩa là vua chỉ cần quan
sát, quản quan lại, điều khiển sắp xếp bộ máy làm việc không sa vào việc
vụn vặt. Nếu dùng thuật vơ vi để quản lí thì vua chúa không nên để lộ
khuynh hướng yêu ghét trước mặt bề tôi, bởi lẽ nếu bậc vua chúa để lộ cái
yêu và cái ghét của mình thì những người dưới sẽ nhân đó làm cho vua chúa
bị lừa, ví như người bắn chim phải giỏi giấu mình vậy. Nguyên lý chủ yếu
của một ông vua hiền là: “nhà vua không giỏi mà làm thầy những người
giỏi,không khôn ngoan mà làm chuẩn mực cho sự khôn ngoan. Bầy tôi phải
vất vả mà nhà vua hưởng sự thành cơng”(2)(2).
Vua khơng đích thân giải quyết sự vụ mà lấy sự thanh tĩnh, khiêm
nhường làm q, khơng đích thân mưu hoạch mà vẫn biết được mưu kế của
bề tôi sẽ gặp phúc hay họa. Do vậy, vua tuy rằng khơng nói ra nhưng bề tơi

vẫn đưa ra ý kiến hay để báo đáp vua, vua tuy không đưa ra quyết định
cứng rắn đối với việc làm của bề tôi, nhưng bề tôi vẫn vận dụng kĩ năng tốt
để nâng cao hiệu quả việc làm. Đó chính là bậc vua sáng.
1.3 Thưởng phạt nghiêm minh là biện pháp quản lí hữu hiệu.
Xưa vua Thuấn sửa sai cho dân, một năm sửa được một tật, ba năm
sửa được ba tật, tuổi thọ của ơng thì có hạn,mà tật của dân thì nhiều vơ
cùng, vì vậy việc thưởng phạt sẽ làm cho khuyết điểm của dân được sửa
nhanh chóng:...”người nào làm đúng phép thì thưởng, khơng đúng thì phạt.
Lệnh đến buổi sáng thì buổi chiều sẽ thay đổi. Trong mười ngày là trong
(1)(1)
(2)(2)

Sđd: quyển XVII, tr.485
Sđd: quyển I, tr.51


bốn bể đều xong hết, cần gì phải chờ đợi đến trọn năm”(1)(1).Thực hiện thưởng
phạt nghiêm minh sẽ khiến dân chúng nỗ lực phấn đấu, bởi họ ý thức được
nếu mình có cơng tất sẽ được hậu thưởng, Hàn Phi viết:”nay kẻ có cơng thì
nhất định thưởng, người được thưởng không phải mang ơn với nhà vua mà do
cái sức của anh ta làm nên”(2)(2), cịn người có tội thế nào cũng bị phạt, vì đó là
tội do anh ta gây nên, khơng thể ốn người trên. Để thuật cai trị được thi hành
triệt để và có hiệu quả thì vua không được để bề tôi nắm đại quyền thưởng
phạt, bậc vua chúa nhờ vào quyền đại hình và đức để chế ngự bề tôi, nếu bỏ đi
hai đại quyền đó và để cho bề tơi sử dụng thì ngược lại vua sẽ bị bề tôi chế
ngự cũng như hổ sở dĩ chế phục được chó là nhờ bộ nanh vuốt của nó, nếu hổ
bỏ đi bộ nanh vuốt và để cho chó dùng thì ngược lại hổ sẽ bị chó chế phục.
Thưởng phạt nghiêm minh trong thuật cai trị nước còn là thuận theo
tự nhiên, Hàn Phi viết:”những người xưa khéo dùng người thế nào cũng
thuận theo trời, thuận theo người mà làm sáng tỏ việc thưởng và phạt.

Thuận theo trời thì dùng sức ít mà cơng được lập, thuận theo người thì hình
phạt giản dị mà mệnh lệnh được thi hành. Soi sáng việc thưởng và phạt thì
Bá Di, Đạo Chích khơng lẫn lộn. Như vậy, thì trắng đen phân biệt”(3)(3).
1.4 Căn cứ vào tài năng và công lao để trao chức việc và bổng lộc
Vua Tề Hoàn Cơng từng bảo Quản Trọng rằng chức quan ít mà người
cầu quan lại nhiều, ta rất lo lắng về việc này. Quản Trọng đáp lại: đại vương
không nên nghe theo lời thỉnh cầu của những kẻ thân tín ở bên cạnh mình
nên căn cứ vào tài năng để trao bổng lộc, chiếu theo công lao để trao chức
quan. Như vậy có thể thấy việc bố trí quan lại vào những chức vụ nhất định
phải căn cứ vào tài năng, công lao của họ: “vị vua sáng khơng tự mình cử
bầy tôi, các bầy tôi tiến cử lẫn nhau; không tự chọn lấy người hiền mà căn
cứ vào công lao để xét đoán. Lấy nhiệm vụ họ làm để đánh giá, lấy sự việc
họ làm để thử, lấy công lao để giáo dục”(4)(4).
(1)(1)
(2)(2)
(3)(3)
(4)(4)

Sđd:
Sđd:
Sđd:
Sđd:

Quyển
Quyển
Quyển
Quyển

XV, tr.417
XVI, tr.449

VIII, tr.251
XVI, tr.450



×