Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Lý luận nhận thức duy vật biện chứng làm rõ nguyên lý giáo dục “học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, học hành bản thân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.08 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................i
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHẬN THỨC...........2
1.1. Quan niệm về nhận thức của các trào lưu triết học trước Mác...2
1.2. Quan niệm về bản chất nhận thức của triết học Mác- Lênin.......3
1.3. Các cấp độ.........................................................................................3
1.3.1. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính....................................4
1.3.2. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận.............................7
1.3.3. Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học.........................8
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KẾT HỢP HỌC ĐI ĐÔI VỚI HÀNH –
LÝ LUẬN GẮN VỚI THỰC TIỄN ĐỐI VỚI SINH VIÊN VIỆT NAM
.......................................................................................................................9
2.1. Một số điểm mạnh............................................................................9
2.2. Một số hạn chế tồn tại....................................................................11
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO THỰC HÀNH, GẮN LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN....................13
3.1. Một số khó khăn trong công tác thực hành.................................13
3.2. Một số giải pháp.............................................................................15
3.2.1. Đối với Nhà trường...................................................................15
3.2.2. Đối với giảng viên.....................................................................16
3.2.3. Đối với Sinh viên......................................................................17
3.2.4. Đối với các đơn vị sơ sở............................................................18
i


PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................21

ii




PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng
thời là nhà giáo dục lớn của dân tộc. Người đã để lại cho chúng ta nhiều quan
điểm giáo dục có giá trị, trong đó quan điểm: “Học phải đi đơi với hành, lý
luận phải liên hệ với thực tế”là cơ sở khoa học, phương pháp luận biện chứng,
là quy luật của sự phát triển toàn diện nhân cách con người, phát triển nền
giáo dục Việt Nam hiện đại, có ý nghĩa sâu sắc trong định hướng lý luận cũng
như chỉ đạo thực tiễn giáo dục, đào tạo ở các nhà trường trong hệ thống giáo
dục quốc dân hiện nay.
Kế thừa và phát triển quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo
dục, đào tạo, Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục, đào tạo là quốc sách
hàng đầu trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng; đặc biệt, Nghị quyết số
29-NQ/TW ngày 04-11-2013 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Đảng ta tiếp tục
khẳng định: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của
Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển,
được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội... Hiểu được tầm quan trọng đó, tơi đã lựa chọn đề tài “ Vận dụng lý luận
nhận thức duy vật biện chứng làm rõ nguyên lý giáo dục “Học đi đôi với
hành, lý luận gắn liền với thực tiễn…” ở nước ta hiện nay. Liên hệ với
hoạt động học và hành của bản thân” để có cái nhìn sâu và rộng hơn.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHẬN THỨC

Khi trình bày bản chất của nhận thức, trong lịch sử triết học đã xuất hiện
một số quan niệm khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
1.1. Quan niệm về nhận thức của các trào lưu triết học trước Mác
Xuất phát từ chỗ phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất,
chủ nghĩa duy tâm khách quan coi nhận thức là sự “hồi tưởng lại” của linh
hồn bất tử về “thế giới các ý niệm” hoặc là sự “tự ý thức về mình của ý niệm
tuyệt đối”. Còn chủ nghĩa duy tâm chủ quan lại cho rằng nhận thức chỉ là sự
phức hợp những cảm giác của con người.
Những người theo thuyết hoài nghi coi nhận thức là trạng thái hoài nghi
về sự vật và biến sự nghi ngờ về tính xác thực của tri thức thành một nguyên
tắc của nhận thức. Đến thời kỳ cận đại, khuynh hướng này phủ nhận khả năng
nhận thức của con người. Họ cho rằng con người chỉ nhận thức được các
thuộc tính bề ngồi, cịn bản chất bên trong của sự vật thì khơng thể nhận thức
được.
Đối lập với các quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật thừa nhận khả năng
nhận thức của con người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách
quan vào trong đầu óc của con người. Tuy nhiên do hạn chế bởi tính trực
quan, siêu hình nên chủ nghĩa duy vật trước Mác đã coi nhận thức là sự phản
ánh trực quan, là bản sao chép nguyên xi trạng thái bất động của sự vật. Họ
chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Như vậy có thể nói, tất cả các trào lưu triết học trước triết học MácLênin đều quan niệm sai lầm hoặc phiến diện về nhận thức, những vấn đề về
lý luận nhận thức chưa được giải quyết một cách khoa học, đặc biệt chưa thấy
được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
2


1.2. Quan niệm về bản chất nhận thức của triết học Mác- Lênin
Bằng sự kế thừa những yếu tố hợp lý của các học thuyết đã có, khái
quát các thành tựu khoa học, C. Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên học
thuyết biện chứng duy vật về nhận thức. Học thuyết này ra đời đã tạo ra một

cuộc cách mạng trong lý luận nhận thức vì đã xây dựng được những quan
điểm khoa học đúng đắn về bản chất của nhận thức. Học thuyết này ra đời
dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý
thức của con người.
Hai là, thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người, coi
nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là
hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể. Khơng có cái gì là khơng thể nhận
thức được mà chỉ có cái con người chưa nhận thức được mà thơi.
Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một q trình biện chứng, tích cực,
tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh ấy diễn ra theo trình tự từ chưa biết
đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến bản chất.
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là
động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Dựa trên nguyên tắc đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định:
nhận thức là q trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế
giới khách quan vào trong đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn.
1.3. Các cấp độ
Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất phức tạp, bao gồm
nhiều giai đoạn, hình thức khác nhau. Tuỳ theo tính chất của sự nghiên cứu
mà q trình đó được phân ra thành cấp độ khác nhau: nhận thức cảm tính và
nhận thức lý tính, nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận, nhận thức
thông thường và nhận thức khoa học.
3


1.3.1. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
a. Nhận thức cảm tính (hay cịn gọi là trực quan sinh động) là giai
đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các
giác quan để tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy. Trực quan sinh

động bao gồm các hình thức sau:
- Cảm giác là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính
riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác
quan của con người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả
của sự chuyển hố những năng lượng kích thích từ bên ngồi thành yếu tố ý
thức. Lênin viết: “Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
Nếu dừng lại ở cảm giác thì con người mới hiểu được thuộc tính cụ thể,
riêng lẻ của sự vật. Điều đó chưa đủ; bởi vì, muốn hiểu biết bản chất của sự
vật phải nắm được một cách tương đối trọn vẹn sự vật. Vì vậy nhận thức phải
vươn lên hình thức nhận thức cao hơn.
- Tri giác là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối tồn vẹn
sự vật khi sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri
giác là sự tổng hợp các cảm giác.
So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn, phong
phú hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và khơng
đặc trưng có tính trực quan của sự vật. Trong khi đó, nhận thức địi hỏi phải
phân biệt được đâu là thuộc tính đặc trưng, đâu là thuộc tính khơng đặc trưng
và phải nhận thức sự vật ngay cả khi nó khơng cịn trực tiếp tác động lên cơ
quan cảm giác con người. Do vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận
thức cao hơn.
- Biểu tượng là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hồn
chỉnh sự vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật khơng cịn tác động
trực tiếp vào các giác quan.
4


Trong biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố
gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ có sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau
của các giác quan và đã có sự tham gia của yếu tố phân tích, tổng hợp. Cho
nên biểu tượng phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi trội của các sự

vật.
Như vậy, nhận thức cảm tính có đặc điểm: Là giai đoạn nhận thức trực tiếp sự
vật, phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện cơ quan cảm giác, kết quả thu nhận
được tương đối phong phú, phản ánh được cả cái không bản chất, ngẫu nhiên
và cả cái bản chất và tất nhiên. Hạn chế của nó là, chưa khẳng định được
những mặt, những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc
phục, nhận thức phải vươn lên giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.
b. Nhận thức lý tính (Tư duy trừu tượng) là giai đoạn phản ánh gián
tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái
niệm, phán đốn, suy luận.
- Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những
đặc tính bản chất của sự vật.
Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện
chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật. Vì vậy, các khái
niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác
động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển.
Khái niệm có vai trị rất quan trọng trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở
để hình thành các phán đốn và tư duy khoa học.
- Phán đốn là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với
nhau để khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng.
Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đốn được phân chia làm
ba loại là phán đoán đơn nhất (ví dụ: đồng dẫn điện), phán đốn đặc thù (ví
dụ: đồng là kim loại) và phán đốn phổ biến (ví dụ: mọi kim loại đều dẫn
5


điện). Ở đây phán đốn phổ biến là hình thức thể hiện sự phản ánh bao quát
rộng lớn nhất về đối tượng.
Nếu chỉ dừng lại ở phán đốn thì nhận thức chỉ mới biết được mối liên
hệ giữa cái đơn nhất với cái phổ biến, chưa biết được giữa cái đơn nhất trong

phán đoán này với cái đơn nhất trong phán đoán kia và chưa biết được mối
quan hệ giữa cái đặc thù với cái đơn nhất và cái phổ biến. Chẳng hạn qua các
phán đốn thí dụ nêu trên ta chưa thể biết ngồi đặc tính dẫn điện giống nhau
thì giữa đồng với các kim loại khác cịn có các thuộc tính giống nhau nào
khác nữa. Để khắc phục hạn chế đó, nhận thức lý tính phải vươn lên hình thức
nhận thức suy luận.
- Suy luận là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với
nhau để rút ra một phán đốn có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới. Thí dụ,
nếu liên kết phán đoán “đồng dẫn điện” với phán đoán “đồng là kim loại” ta
rút ra được tri thức mới “mọi kim loại đều dẫn điện”. Tùy theo sự kết hợp
phán đoán theo trật tự nào giữa phán đoán đơn nhất, đặc thù với phổ biến mà
người ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch.
Ngoài suy luận, trực giác lý tính cũng có chức năng phát hiện ra tri thức
mới một cách nhanh chóng và đúng đắn.
Từ ba hình thức trên ta có thể rút ra giai đoạn nhận thức lý tính có đặc
điểm sau: Là giai đoạn nhận thức gián tiếp, trừu tượng, khái quát sự vật. Nhận
thức lý tính phụ thuộc vào năng lực tư duy của con người. Do đó phản ánh
được chính xác mối liên hệ bản chất tồn tại bên trong một sự vật hay một lớp
các sự vật.
c. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính với lý tính
Nhận thức cảm tính và lý tính có cùng chung đối tượng phản ánh, đó là
các sự vật; cùng chung chủ thể phản ánh đó là con người và cùng do thực tiễn
quy định. Đây là hai giai đoạn hợp thành quá trình nhận thức. Do vậy, chúng
6


có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, biểu hiện: Nhận thức cảm tính là cơ sở
cung cấp tài liệu cho nhận thức lý tính; nhận thức lý tính nhờ có tính khái qt
cao hiểu được bản chất nên đóng vai trị định hướng cho nhận thức cảm tính
để có thể phản ánh được sâu sắc hơn.

Nếu nhận thức chỉ dừng lại ở giai đoạn lý tính thì con người chỉ có
được những tri thức về đối tượng. Cịn bản thân tri thức đó có chân thực hay
khơng thì chưa khẳng định được. Muốn khẳng định, nhận thức phải trở về
thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn.
1.3.2. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận
Dựa vào trình độ thâm nhập vào bản chất của đối tượng, ta có thể phân
chia thành nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận.
a. Nhận thức kinh nghiệm
Đây là loại nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Kết quả
nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm. Tri thức này có hai loại, tri
thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.
- Tri thức kinh nghiệm thông thường là loại tri thức được hình thành từ
sự quan sát trực tiếp hàng ngày về cuộc sống và sản xuất. Tri thức này rất
phong phú, nhờ có tri thức này con người có vốn kinh nghiệm sống dùng để
điều chỉnh hoạt động hàng ngày.
- Tri thức kinh nghiệm khoa học là loại tri thức thu được từ sự khảo sát
các thí nghiệm khoa học, loại tri thức này quan trọng ở chỗ đây là cơ sở để
hình thành nhận thức khoa học và lý luận.
Hai loại tri thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, xâm nhập vào nhau
để tạo nên tính phong phú, sinh động của nhận thức kinh nghiệm.
b.Nhận thức lý luận (gọi tắt là lý luận)
7


Đây là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản chất và
quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận có tính gián tiếp vì nó
được hình thành và phát triển trên cơ sở của nhận thức kinh nghiệm. Nhận
thức lý luận có tính trừu tượng và khái qt vì nó chỉ tập trung phản ánh cái
bản chất mang tính quy luật của sự vật và hiện tượng. Do đó, tri thức lý luận

thể hiện chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn và có hệ thống hơn.
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức
khác nhau, có quan hệ biện chứng với nhau.Trong đó nhận thức kinh nghiệm
là cơ sở của nhận thức lý luận. Nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư
liệu phong phú, cụ thể. Vì nó gắn chặt với thực tiễn nên tạo thành cơ sở hiện
thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý luận và cung cấp tư liệu để tổng
kết thành lý luận. Ngược lại, mặc dù được hình thành từ tổng kết kinh
nghiệm, nhận thức lý luận không xuất hiện một cách tự phát từ kinh nghiệm.
Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những sự kiện kinh
nghiệm, hướng dẫn sự hình thành tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn
kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn. Thơng qua đó mà
nâng những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất trở
thành cái khái quát, phổ biến.
Nắm vững bản chất, chức năng của từng loại nhận thức đó cũng như
mối quan hệ biện chứng giữa chúng có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng
trọng việc đấu tranh khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo
điều.
1.3.3. Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học
Khi căn cứ vào tính tự phát hay tự giác của sự xâm nhập vào bản chất
của sự vật thì nhận thức lại có thể được phân ra thành nhận thức thông
thường và nhận thức khoa học.

8


a. Nhận thức thông thường (nhận thức tiền khoa học) là loại nhận
thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày
của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc
điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Vì vậy, nhận
thức thơng thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn với những quan

niệm sống thực tế hàng ngày. Vì thế, nó thường xuyên chi phối hoạt động của
con người trong xã hội. Thế nhưng, nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ
dừng lại ở bề ngồi, ngẫu nhiên tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa
học được.
b. Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự
giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của
các sự vật.
Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái qt lại
vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nó vận dụng một cách
hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông thường
và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng
nghiên cứu. Vì thế nhận thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt
động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và công nghệ.
Như vậy, nhận thức thông thường và nhận thức khoa học có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức thơng thường có trước
nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa
học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học thì nó lại tác động trở
lại nhận thức thông thường, xâm nhập và làm cho nhận thức thông thường
phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình nhận thức thế giới của
con người

9


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KẾT HỢP HỌC ĐI ĐÔI VỚI
HÀNH – LÝ LUẬN GẮN VỚI THỰC TIỄN ĐỐI VỚI SINH VIÊN
VIỆT NAM
2.1. Một số điểm mạnh
Trước hết, chúng ta có thể khẳng định thanh niên sinh viên hiện nay rất
năng động, nhạy bén với cuộc sống và công việc, bên cạnh đó họ tiếp thu

được nhiều phẩm chất tốt đẹp: chăm chỉ, kiên chì và nỗ lực. Chúng ta rút ra
được những kết luận ấy khi chứng kiến lớp thanh niên đã đạt đạt được những
thành tựu cùng với sự đổi mới của đất nước.
Nếu như trước đây chúng ta chỉ thấy những sinh viên học hành cần cù
luôn cắm đầu vào đọc sách, dù mài kinh sử để sau khi tốt nghiệp lấy được
bằng cử nhân được Nhà nước phân công đi công tác mà một số người đã quên
hết cả xung quanh. Nếu chúng ta cũng chỉ thấy một lớp thanh niên ở nông
thôn chưa đầy hai mươi đã lập gia đình suốt ngày phơi lưng ra đồng, quần
quật vất vả thì giờ đây chúng ta thấy một giới sôi động đầy màu sắc của thanh
niên, sinh viên, họ chỉ chăm chú học tập mà còn biết vận dụng những kiến
thức được học vào cuộc sống. Tham gia các hoạt động xã hội, xông sáo và
nhạy bén “họ có nhiều điều kiện để phát chuyển khả năng sáng tạo, do có đầy
đủ thơng tin, cuộc sống chắt lược tốt hơn, và chủ động hơn trong việc lựa
chọn nghề nghiệp tốt cả những cái đó làm họ năng động hơn”. Giáo sư Bạch
Hưng Khang, Viện trưởng viện công nghệ thơng tin đã nói vậy trên báo Hoa
Học Trị : ‘số đơng đều có kiến thức sâu rộng về nhiều mặt, ham hiểu tìm tịi,
chiếm lĩnh những lĩnh vực mới lạ’ phát biểu NSND Chu Thúy Quỳnh trên
báo hoa học trị. Vì thế những huychương vàng, huy chương bạc quốc tế các
mơn văn hố cũng như thể thao đều lọt vào tay đội tuyển Việt Nam. Chúng ta
không thể quên các thế hệ học sinh sinh viên đạt giải quốc tế các mơn : Tốn,
Vật lý, hố học… mà gần đây nhất là gương mặt đội tuyển toán Việt Nam với

10


năm huy chương bạc, một huy chương vàng đã làm dạng danh trí tuệ Việt
Nam.
Thanh niên Việt Nam du học ngày càng nhiều ở rất nhiều nước trên thế
giới đã mang về cho đất nước những tiến sĩ trẻ nắm vững kiến thức chuyên
ngành đảm nhiệm phát chuyển những ngành mũi nhọn nhằm đẩy mạnh sự

phát chuyển kinh tế, khoa học, kỹ thuật.
Đối với sinh viên hiện nay, rất nhiều người vừa đi học vừa đi làm là rất
phổ biến, điều đó chứng tỏ thanh niên Việt Nam rất cần cù, chịu khó và đặc
biệt là họ có thể tự lập sinh viên làm việc ở khắp mọi nơi làm đủ mọi nghề
lương thiện giúp họ tự chu cấp tiền học hành và cuộc sống bản thân, nổi bật
nhất là sinh viên từ nông thôn ra thành thị những công việc họ làm có thể là
gia sư, tiếp thị… đã chứng tỏ sinh viên ngày nay đã nhận thức “lao động là
vinh quang”. Ngoài ra trước đây thanh niên, sinh viên ra trường được Nhà
nước xếp việc làm thì ngày nay, sinh viên ra trường phải tự tìm việc, điều này
có nhiều thuận lợi vì họ có cơ hội lựa chọn được công việc phù hợp, rất nhiều
sinh viên ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường đã được nhiều Công ty đến
mời đi làm việc. Hiện nay cứ mỗi dịp mùa hè đến có những phong chào “ánh
sáng văn hố hè” và “thanh niên tình nguyện” tham gia lao động bảo vệ môi
trường, đến các vùng xa xôi, hẻo lánh đem lại ánh sáng văn minh cho những
trẻ em nghèo đói và cho cả lớp thanh niên nơng thơn. Điều đó thể hiện sự kế
tiếp đùm bọc của thanh niên ngày nay.
Hiện tượng bao hàm bản chất, hiện tượng khơng thốt thi khỏi bản chất
và do đó tất cả các hiện tượng nêu trên phản ánh bản chất của thanh niên sinh
viên hiện nay là sự kết hợp những phẩm chất truyền thống và những đức tính
hiện đại.
2.2. Một số hạn chế tồn tại
Theo báo tuổi trẻ, 63% sinh viên thất nghiệp do thiếu kỹ năng
11


Theo kết quả điều tra của Bộ GD-ĐT, năm 2011 cả nước có đến 63%
sinh viên thất nghiệp do thiếu kỹ năng. Trong các nguyên nhân khách quan
làm sinh viên chưa thích ứng với mơi trường cơng việc khi TTTN được khảo
sát, nguyên nhân “nội dung học tập ở nhà trường ít chú trọng thực hành, mà
nặng về lý thuyết” với 49,2% sinh viên lựa chọn.

Doanh nghiệp gặp khó khăn trong tuyển dụng nguồn lao động khi sinh
viên tốt nghiệp chưa thực sự chủ động trong cơng việc. Chính ngun nhân
này tạo rào cản trực tiếp, khiến sinh viên khó thích ứng với mơi trường cơng
việc khi TTTN, cũng như trong hoạt động nghề nghiệp tương lai. Thực tập là
quá trình thử nghiệm, để sinh viên hồn thiện những kỹ năng nghề cơ bản,
nhằm thực sự làm việc hiệu quả khi trở thành người lao động chính thức.
Nhưng thực tế sinh viên vẫn cịn gặp khó khăn về việc thích ứng với môi
trường công việc trong thực tập, và kết quả thống kê cho thấy phần đông sinh
viên (42,8%) chưa sẵn sàng cho TTTN.
Hạn chế lớn nhất ở sinh viên khi thích ứng với nội dung TTTN là vấn
đề lập kế hoạch, thâm nhập thực tế hoạt động của ngành nghề, cơng việc; tìm
hiểu quy trình hoạt động của đơn vị; sử dụng, ứng dụng kiến thức, kỹ năng đã
học vào thực tế môi trường công việc, và yếu kỹ năng mềm, từ viết email,
dùng máy photocopy...
Trong những khó khăn về việc thích ứng các điều kiện, phương tiện tại
mơi trường làm việc khi TTTN, đáng chú ý nhất là cách sử dụng các phương
tiện, cơng cụ, máy móc sản xuất để làm việc. Nội dung “sử dụng các máy in,
máy fax, máy photocopy và các phương tiện văn phòng khác” có đến 58% ở
mức trung bình đến mức rất thấp.
Bên cạnh đó, nội dung “sử dụng máy móc, thiết bị, phương tiện kỹ
thuật liên quan đến lao động sản xuất chun mơn” có 56% sinh viên chưa
thích ứng tốt. Việc sinh viên chưa thích ứng với các phương tiện văn phòng sẽ
12


tạo ra rào cản và áp lực nhất định trong thời gian TTTN. Với các chuyên
ngành khoa học kỹ thuật, việc sử dụng máy móc, thiết bị như một kỹ năng
nghề nghiệp thực sự rất cần thiết và vô cùng quan trọng. Trong quá trình học
ĐH, thời gian sinh viên trải nghiệm các phương tiện này rất hạn chế...
Đáng chú ý, kỹ năng sử dụng ngoại ngữ của sinh viên được đánh giá

thấp nhất, 43,3% ở mức trung bình và thấp. Ngoài ra, trong các nguyên nhân
chủ quan làm sinh viên chưa thích ứng với mơi trường làm việc khi TTTN,
nội dung “sinh viên chưa làm quen với các hoạt động thực hành liên quan đến
mơi trường cơng việc” có tỉ lệ cao nhất, với 44,7% sinh viên lựa chọn.
Việc mở rộng quy mô đào tạo đáp ứng phần nào nhu cầu học tập của xã
hội và nhu cầu về nguồn nhân lực. Nhưng hạn chế lớn nhất của giáo dục nước
ta chính là ở chất lượng đào tạo cịn thấp. Vẫn còn sự lệch pha rất lớn giữa
phát triển đào tạo ĐH với sự phát triển kinh tế, về phương diện cung ứng
nguồn nhân lực.
Trong khi nhu cầu thực sự của thị trường lao động, những yêu cầu đối
với lực lượng lao động đã được thay đổi cùng với sự phát triển của nền kinh
tế thì những định hướng đào tạo ở trường ĐH lại không thay đổi hoặc thay đổi
rất ít.
Trong các nguyên nhân khách quan làm sinh viên chưa thích ứng với
mơi trường cơng việc khi TTTN thì chiếm đa số vẫn là nội dung học tập ở nhà
trường ít chú trọng thực hành mà nặng về lý thuyết (49,2%), nhà trường chưa
có biện pháp giáo dục kỹ năng thích ứng mơi trường cơng việc cho sinh viên
(32,5%), chưa có sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp (31,4%).
Lý giải tình trạng trên, nhóm nghiên cứu cho rằng: “Lý do là Việt Nam
cho đến nay vẫn chưa có nền cơng nghiệp mạnh, khơng có nhu cầu nhận sinh
viên thực tập nhiều, và quy trình để thỉnh giảng một người làm trong doanh
nghiệp cũng khá rắc rối, vì quy định bằng cấp với người đứng lớp. Trong khi
13


nhà trường đào tạo theo chương trình đã được phê duyệt, cũng do nhà trường
trình lên. Người duyệt chương trình đó cũng xuất thân từ trường, khơng gắn
kết nhiều với doanh nghiệp. Cịn doanh nghiệp gần như đứng ngồi cuộc, chỉ
biết kêu ca và đào tạo lại...”.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP NHẰM

NÂNG CAO THỰC HÀNH, GẮN LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN
3.1. Một số khó khăn trong công tác thực hành
- Thiếu bộ phận chuyên trách về hợp tác đào tạo vì vậy dẫn đến: Việc
tạo lập địa bàn thực hành thực tập cịn mang tính chất mối quan hệ giữa cá
nhân giảng viên với đơn vị cơ sở mà chưa đứng trên góc độ hợp tác giữa nhà
trường với cơ sở thực hành thực tập; Chưa có Quy trình, Quy chế về việc đưa
sinh viên đi thực hành, thực tế tại các cơ sở thực tập. Vì vậy, hồ sơ giấy tơ
cịn mang tính tự biên tự diễn mà chưa theo mẫu thống nhất chung. Ví dụ: đối
với thực tập nghề nghiệp, thực tập tốt nghiệp hiện nay chưa thống nhất về các
giấy tờ như giấy giới thiệu, kế hoạch, nhật ký thực tập, quyết định thực tập
cho sinh viên, … vv.
- Giảng viên, sinh viên, nhà trường và đơn vị hợp tác chưa xác định
được hết trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi khi thực hành thực tập tại cơ sở;
Giảng viên và sinh viên còn lúng túng trong hồ sơ giấy tờ khi đưa sinh viên
đến các cơ sở thực hành thực tập.
- Có những học phần nội dung các bài thực hành thực tập mang tính
chất dàn trải, khơng tập trung do vậy gây khó khăn trong việc đi lại, ăn ở và
xếp lịch học lý thuyết ở trường. Có những nội dung thực hành tập tại đơn vị
cơ sở khó chủ động sắp xếp vì phụ thuộc vào kế hoạch của các đơn vị. Đặc
biệt là đối với các lớp học liên thông chỉ học thứ 7, chủ nhật trong khi những
nội dung thực hành thực tập của các đơn vị lại bố trí vào các ngày thường
trong tuần hoặc có những bài thực hành thực tập không phụ thuộc vào kế
hoạch của giảng viên hay của đơn vị cơ sở mà nó chỉ thực hiện được khi xảy
14


ra mang tính khách quan do chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và dân
sinh kinh tế xã hội.
- Sinh viên cịn gặp khó khăn khi thực hiện những nội dung thực hành
thực tập liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau; từ trình độ nhận thức, quan

niệm sống, tôn giáo, dân tộc, phong tục tập quán, sinh hoạt … khác nhau. Ví
dụ: Khi thực hành thực tập về nội dung tuyên truyền vai trò của rừng, tuyên
truyền về bảo vệ rừng, về phòng chống dịch bệnh. Việc tham gia hướng dẫn
cho sinh viên ở vườn ươm liên quan đến kế hoạch làm việc và chế độ của
họ…vv.
- Sinh viên chưa mạnh dạn ở môi trường mới, ngại học hỏi khi va
chạm thực tế, vẫn đang xem nhẹ và chưa chú trọng lắm đến việc thực hành
thực tập tại đơn vị cơ sở.
3.2. Một số giải pháp
3.2.1. Đối với Nhà trường
Nhà trường hàng năm cần tổ chức diễn đàn phối hợp đào tạo giữa nhà
trường và các doanh nghiệp, các nông - lâm trường để gắn kết mối quan hệ
nhằm tạo điều kiện cho khoa, cho giảng viên về việc triển khai thực hành thực
tập ở cơ sở.
- Cần thiết phải có mối liên hệ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và
Nhà trường để có các tư liệu về chuyên môn. Giúp các giảng viên được tham
gia cuộc hội nghị chuyên môn, hội thảo cấp tỉnh, tập huấn chun mơn….
Trên cơ sở đó để giảng viên có thêm thông tin, thêm kiến thức bổ sung vào
bài giảng. Đồng thời giúp nhà trường có thêm nhiều địa bàn để tổ chức giảng
dạy thực hành thực tập.
- Xây dựng mạng lưới cơ sở thực tập, thực hành để sinh viên đăng ký
ngay từ khi mới vào trường và thông báo cho sinh viên từ đầu năm học.

15


- Nhà trường cần hỗ trợ kinh phí cho giảng viên khi đi học tập nâng cao
trình độ chun mơn ở các cở sở hoặc các doanh nghiệp có uy tín.
- Nhà trường cho phép giảng viên linh động bố trí xếp lịch khi đi thực
hành thực tế tại các đơn vị cơ sở. Đặc biệt ưu tiên cho những nội dung thực

hành thực tập mang tính thời vụ, phụ thuộc nhiều vào kế hoạch thực hiện của
các đơn vị.
- Tăng cường hơn nữa đối với việc trang bị cho cả giảng viên và sinh
viên về kỹ năng mềm trong giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng thuyết
trình....

- Cần ban hành Quy trình, Quy chế về thực hành thực tập; hàng năm có
thể nghiên cứu, chỉnh sửa cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
3.2.2. Đối với giảng viên
- Giảng viên là thành phần tương tác trực tiếp với sinh viên, quyết định
đến chất lượng đầu ra của quá trình đào tạo. Vì vậy, để nâng cao chất lượng
đào tạo cần tăng cường đi thăm, trải nghiệm thực tế, tập huấn sử dụng các
phương tiện mới nhằm thu hẹp khoảng cách giữa lý thuyết và thực tế, giúp bài
giảng có tính ứng dụng cao, tăng kĩ năng kĩ xảo thực hành thực tập để hướng
dẫn cho sinh viên. Cập nhật được những kiến thức mới, ứng dụng mới để
giảng dạy giúp cho giảng viên và sinh viên không bỡ ngỡ khi tiếp cận thực tế.
Thậm chí để cơng tác thực hành, thực tập được tốt thì bản thân giảng viên
phải chấp nhận cách vừa làm vừa học cùng với sinh viên trong một giai đoạn
nhất định.
- Giảng viên phải chuẩn bị tốt công việc lập kế hoạch, xây dựng nội
dung, xác định thời gian và phân công nhiệm vụ đến từng cá nhân khi đến
thực thành thực tập tại đơn vị cơ sở.
16


- Giảng viên phải giữ mối liên hệ tốt với đơn vị cơ sở để duy trì địa bàn
thực hành thực tập cho sinh viên được bền lâu, phải phối hợp tốt với các đơn
vị nơi thực hành thực tập để sắp xếp được phù hợp và chủ động nội dung các
bài thực hành thực tập.
- Giảng viên phải có trách nhiệm cao trong quá trình đào tạo, tăng

cường ý thức trách nhiệm tham gia hướng dẫn thực hành, thực tập. Sau mỗi
đợt thực hành, thực tập cần triển khai việc viết báo cáo thực hành, thực tập
đúng quy định, đúng thời gian; chấm báo cáo thực hành, thực tập khách quan,
công bằng.
- Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của thực hành thực tập đối với
sinh viên. Giúp sinh viên nhận thấy rằng việc thực tập có vai trị quan trọng
khơng chỉ là điểm số mà cịn giúp họ được tiếp cận với nghề nghiệp đã lựa
chọn khi bước chân vào trường, hiểu được mình sẽ làm cơng việc như thế nào
sau khi ra trường và mình có thực sự phù hợp với cơng việc đó hay khơng.
Thơng qua quá trình áp dụng các kiến thức lý thuyết đã được học vào thực tế
công việc giúp sinh viên nhận biết được điểm mạnh, điểm yếu, tự thấy cần
trang bị thêm những kiến thức, kỹ năng gì để đáp ứng nhu cầu cơng việc trong
tương lai. Trong q trình thực tập, sinh viên có thể thiết lập được các mối
quan hệ liên quan đến nghề nghiệp của mình, điều này rất hữu ích cho sinh
viên khi ra trường. Do vậy, sinh viên cần phải cố gắng để tích luỹ kiến thức,
cập nhật kịp thời yêu cầu công việc với mục tiêu thu thập kỹ năng, kinh
nghiệm để phục vụ cơng việc trong tương lai.
- Khuyến khích lịng hăng say, nhiệt huyết tuổi trẻ và tình yêu nghề của
sinh viên đối với ngành nghề mà mình theo học, để từ đó biết vượt qua được
những cản trở, khó khăn và vất vả trước mắt để tiến tới hành trình sự nghiệp
lâu dài.

17


- Giảng viên cần chủ động sắp xếp xen giữa lịch học lý thuyết với lịch
học thực hành báo với giáo vụ khoa để sắp xếp được hợp lý, đặc biệt thường
xuyên phải liên hệ với các đơn vị cơ sở để bố trí đưa sinh viên đi để được trải
nghiệm thực tế.
- Nâng cao trách nhiệm quản lý sinh viên và phối hợp chặt chẽ với đơn

vị cơ sở về việc theo dõi, nắm bắt tình hình học tập của sinh viên. Thường
xuyên hướng dẫn, động viên, nhắc nhở người học trong suốt quá trình thực
hành thực tập.
3.2.3. Đối với Sinh viên
- Sinh viên phải vững vàng về lý thuyết. Biết biết vận dụng một cách
linh hoạt trong thực tế.
- Phải coi trọng ý nghĩa của thực hành thực tập tại cơ sở, bởi đây là tiền
đề để mỗi bản thân các em bước vào môi trường công việc thực tế sau khi ra
trường. Nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong quá trình thực
hành thực tập. Phải có ý thức xây dựng, phát triển chương trình thực hành,
thực tập và phát triển kỹ năng bổ trợ của đơn vị, kịp thời phản ánh đúng tình
hình thực hiện chương trình với giảng viên, cán bộ hướng dẫn khi cần thiết.
- Cần chủ động trang bị cho bản thân những kỹ năng mềm để tránh bối
rối khi xử lý các tình huống mang tính chất giao tiếp hoặc trên diễn đàn hội
thảo và các sự kiện khác.
- Phải chịu khó học hỏi, đam mê khát vọng làm giàu và thành công, sẵn
sàng làm việc khi được phân công dù vất vả. Biết phối hợp, chia sẻ và biết
lắng nghe mọi sự góp ý.
- Nâng cao tính kỷ luật trong quá trình thực hành thực tập. Sinh viên
phải thực hiện nghiêm túc các quy định, kế hoạch, nội dung trong thời gian
thực hành thực tập; tuân theo sự hướng dẫn của giảng viên và cán bộ cơ sở
nơi thực hành thực tập. Phải đảm bảo thời gian và tiến độ thực hiện công việc.
18



×