Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Vấn đề giáo dục thế giới duy vật biện chứng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.7 KB, 96 trang )

1
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đang bớc sang giai đoạn mới đó là
thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc định hớng XHCN.
Trong bối cảnh lịch sử mới, hơn lúc nào hết Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng:
Sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta đòi hỏi phải phát huy hơn nữa
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó phải kể đến một bộ phận
quan trọng là thế hệ trẻ. Đại hội IX của Đảng đã xác định: "Đối với thế hệ trẻ
chăm lo giáo dục, bồi dỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, t tởng,
đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát
triển tài năng, sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc" [19, tr.126].
Khi khẳng định vai trò to lớn của thế hệ trẻ trong sự nghiệp cách mạng
hiện nay, thì chúng ta cũng thấy đợc vai trò quan trọng của sinh viên Việt
Nam. Bởi vì, sau khi ra trờng họ sẽ trở thành những ngời lao động có trình độ
cao đó là nguồn nhân lực chủ yếu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
định hớng XHCN. Lực lợng đông đảo nhất và quan trọng nhất là sinh viên Hà
Nội vì Hà Nội là nơi tập trung nhiều trờng đại học, cao đẳng lớn có bề dày về
giáo dục và đào tạo. Vì vậy, sự phát triển bền vững của đất nớc theo định hớng
XHCN đòi hỏi khách quan phải trang bị cho họ nhận thức chính trị, những
kiến thức về mục tiêu, con đờng đi lên CNXH của dân tộc ta. Chính vì thế,
giáo dục thế giới duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay vừa là một
vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Bởi vì, trong bối cảnh hiện nay
trớc sự biến đổi phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới, trớc
chiến lợc diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù địch đang
chống phá CNXH, đặc biệt là trên lĩnh vực t tởng, một trong các đối tợng đó là
thế hệ trẻ, nhằm làm cho hệ t tởng t sản chiếm vị trí thống trị trong đời sống
tinh thần. Hơn nữa, do ảnh hởng của mặt trái cơ chế thị trờng đang hình thành
lối sống thực dụng trong một bộ phận sinh viên. Trong cơ chế thị trờng xuất
hiện sự may rủi làm nảy sinh t tởng cầu may dễ dẫn đến với thế giới quan tôn


giáo, duy tâm. Đặc biệt là sinh viên Hà Nội hàng ngày, hàng giờ đang chịu sự
tác động trực tiếp của lối sống thực dụng, của nền văn hóa phơng Tây và cả
niềm tin tôn giáo. Thực tế là một bộ phận không nhỏ trong sinh viên Hà Nội


2
đã suy thoái về đạo đức, lối sống mơ hồ về chính trị, phai mờ về lý tởng
XHCN và đây là một bộ phận dễ bị các thế lực phản động lôi kéo. Vì vậy, giáo
dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay là một
trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu đề tài thế giới quan duy vật biện chứng có nhiều tác giả
nghiên cứu, ở Liên Xô trớc đây có các tác giả:
- V.L.Li Xốp Ski và A.V. Mitri EP, "Nhân cách của sinh viên" chơng VI
sự hình thành thế giới quan, Nxb Đại học Tổng hợp Lêningrat, 1974.
- Ch.L.Xmiếc Cốp, "Những vấn đề cấp bách của việc hình thành thế
giới quan Mác - Lênin", Tạp chí Giáo dục lý luận, 1985, số 3.
- V.I.LVa Xi Len Co, "Thế giới quan khoa học và những vấn đề lý luận
của việc xây dựng thế giới quan khoa học trong xã hội xã hội chủ nghĩa", bản
tự lợc thuật, Luận án tiến sĩ triết học, 1975.
ở trong nớc cũng có nhiều tác giả nghiên cứu nh:
- Bùi Ngọc, "Thế giới quan khoa học một tất yếu lịch sử", Tạp chí
Thông tin khoa học xã hội, 1981, số 8.
- Lê Xuân Vũ, "Thế giới quan Mác - Lênin trong đời sống tinh thần
của nhân dân ta", Tạp chí Cộng sản, 1986, số 6.
- Nguyễn Trọng Chuẩn, "Một số khía cạnh về vai trò của sinh học
hiện đại đối với sự hình thành và củng cố thế giới quan khoa học", Tạp chí
Triết học 1988, số 3.
- Bùi ỉnh, "Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng đối với
cán bộ đảng viên là ngời dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nớc ta", Luận án PTS Triết học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 1988.

- Trần Thớc, "Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí
thức Việt Nam", Luận án PTS Triết học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 1993.
- Trần Thanh Hà, "Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ
đảng viên ngời dân tộc Khơme ở Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn
hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 1993.
- Trần Viết Quân, "Bồi dỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên hiện nay", Luận văn thạc sĩ
Triết học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2002.


3
Tất cả những tác giả trên đã đề cập đến:
- Khái niệm thế giới quan nói chung, thế giới quan khoa học nói riêng,
cấu trúc và chức năng của chúng.
- Tầm quan trọng và tính tất yếu của việc xây dựng thế giới quan duy
vật biện chứng trong quá trình xây dựng CNXH.
- Những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để hình thành thế
giới quan duy vật biện chứng. Những nguyên tắc phơng pháp luận chung trong
việc xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng cho nhân dân trong thời kỳ
quá độ lên CNXH.
- Đa một số giải pháp cụ thể và những quan điểm nhằm bồi dỡng và
phát triển thế giới quan duy vật biện chứng cho một số đối tợng cụ thể ở
những nớc vốn lạc hậu về kinh tế - xã hội thực hiện quá độ lên CNXH.
Riêng vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên
Hà Nội hiện nay cha ai bàn đến. Đồng thời, xuất phát từ vai trò quan trọng của
lực lợng này trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Vì vậy, tôi
chọn đề tài: " Vn giỏo dc th gii quan duy vt bin chng cho sinh
viờn cỏc trng i hc cao ng H Ni hin nay " để làm luận văn tốt
nghiệp.

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Từ việc phân tích thực trạng của việc giáo dục thế giới quan duy vật
biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay, luận văn đa ra một số giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao chất lợng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho
sinh viên Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích vai trò của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng
đối với sinh viên. Xác định những nhân tố tác động đến việc giáo dục thế giới
quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay.
- Làm rõ thực trạng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng
trong các trờng đại học, cao đẳng ở Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lợng giáo dục
thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu


4
Do khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ nên đề tài chỉ tập trung nghiên
cứu vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên của các
môn khoa học Mác - Lênin và các cơ quan chức năng.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận văn
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn đợc nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm của triết học Mác Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam.
4.2. Phơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phơng pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử và một số phơng pháp nghiên cứu khoa học cụ thể:
phơng pháp phân tích tổng hợp, khái quát hóa và điều tra xã hội học.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Nêu lên tầm quan trọng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện

chứng cho sinh viên Hà Nội và đa ra một số giải pháp chủ yếu để nâng cao
chất lợng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần vào việc đa ra những cơ sở khoa học nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giáo dục
đào tạo ở các trờng đại học, cao đẳng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn đợc kết cấu làm 2 chơng, 5 tiết.


5
Chơng 1
Tầm quan trọng của việc giáo dục thế giới quan
duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay
1.1. thế giới quan duy vật biện chứng và vai trò của giáo dục
thế giới quan duy vật biện chứng đối với sinh viên hiện nay

1.1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng và vệc giáo dục thế giới
quan duy vật biện chứng
1.1.1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng
Trong cuộc sống hàng ngày, con ngời luôn có mối quan hệ hữu cơ với
thế giới, con ngời luôn có nhu cầu tìm hiểu thế giới, những vấn đề đầu tiên mà
họ quan tâm là "nguồn gốc và bản chất của thế giới", "vị trí và vai trò của con
ngời trong thế giới ấy". Trả lời cho những vấn đề đó sẽ hình thành ở con ngời
những quan điểm, quan niệm về thế giới, về vị trí và vai trò của con ngời trong
thế giới. Đó là cơ sở để hình thành thế giới quan của con ngời.
Thế giới quan xuất hiện từ thời nguyên thủy nhng phạm trù thế giới
quan đợc xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVIII do nhà triết học Can tơ ngời

Đức nêu ra. Vào thế kỷ XX, phạm trù thế giới quan đợc các nhà triết học
Liên Xô và các nhà triết học các nớc nghiên cứu và định nghĩa dới nhiều
cấp độ khác nhau. Ví dụ nh: "Thế giới quan đợc hiểu là toàn bộ những
nguyên tắc, quan điểm và niềm tin quy định hớng hoạt động và quan hệ của
từng ngời, của một tập đoàn xã hội, của một giai cấp hay xã hội nói chung
đối với thực tại" [55, tr.539]. Hay:
Thế giới quan là hệ thống những quan điểm của một chủ thể
về thế giới, về những hiện tợng tự nhiên, xã hội và các quy luật
phát triển của chúng, về bản thân con ngời, về vị trí, vai trò của
con ngời trớc thế giới. Nói một cách khác, thế giới quan phản ánh
tồn tại vật chất và xã hội của con ngời [24, tr.10].
Akitốp lại cho rằng "Tổng hợp tất cả những quan niệm, chính kiến về thế
giới, về cấu trúc và nguồn gốc của nó, ý nghĩa và giá trị của đời sống con ngời,
lòng tin của con ngời trong hiện thực đợc gọi là thế giới quan" [1, tr.167].
Từ những quan niệm khác nhau về thế giới quan ở trên, ta có thể
hiểu: thế giới quan là hệ thống những quan điểm của một chủ thể (một ngời
hoặc một tập đoàn ngời, một giai cấp hay toàn xã hội) về thế giới và về vị


6
trí, vai trò của con ngời trong thế giới đó. Trên cơ sở đó, thế giới quan định
hớng, chỉ dẫn cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con ngời
và là phơng thức con ngời tự ý thức đợc về bản thân mình.
Nh vậy, thế giới quan ra đời, hình thành, phát triển luôn luôn gắn
với sự phát triển của thực tiễn xã hội và sự hiểu biết thế giới của con ng ời.
Cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội loài ngời, thế giới quan đợc thể
hiện dới nhiều hình thức khác nhau, song có ba hình thức cơ bản đó
là: Thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan
triết học.
Trong ba hình thức cơ bản của thế giới quan nói ở trên thì thế giới

quan triết học là hình thức thế giới quan có trình độ phát triển cao hơn, sâu
sắc hơn so với thế giới quan huyền thoại và tôn giáo. Ngay từ khi mới ra
đời, triết học đã tồn tại nh là một hệ thống những quan điểm lý luận chung
nhất về thế giới và về vai trò của con ngời trong thế giới ấy. Thực tiễn đã
chứng minh rằng, chỉ có triết học mới có thể giải quyết đợc những vấn đề
chung nhất của thế giới mà không một ngành khoa học cụ thể nào có thể
làm đợc. Vì vậy, triết học bao giờ cũng đóng vai trò hạt nhân lý luận của
một thế giới quan. Triết học là sự thể hiện cô đọng tập trung nhất thế giới
quan của mỗi giai cấp, mỗi thời đại lịch sử nhất định. Nó thể hiện chiều sâu
của t tởng, thể hiện trình độ cao của trí tuệ con ngời. Thế giới quan triết học
luôn giữ vai trò chủ đạo định hớng các hành vi chính trị và đạo đức, lối
sống của con ngời. Nó giúp cho con ngời biết nhận thức và hành động theo
mục tiêu lý tởng của mình.
Lịch sử triết học là lịch sử đấu tranh giữa hai đờng lối triết học cơ
bản, đó là triết học duy vật và triết học duy tâm và đó cũng là cuộc đấu
tranh giữa hai loại hình thế giới quan: duy vật và duy tâm. Trong quá trình
đấu tranh đó, thế giới quan duy vật đã từng bớc phát triển tơng ứng với trình
độ phát triển t duy của con ngời ở mỗi giai đoạn lịch sử. Từ thế giới quan
duy vật biện chứng "thô sơ" thời cổ đại, thế giới quan duy vật siêu hình thời
cận đại đến thế giới quan duy vật siêu hình cổ điển Đức đã phát triển đến
một trình độ mới đó là thế giới quan duy vật biện chứng. Nhờ kế thừa
những giá trị tinh hoa của triết học trong lịch sử, đặc biệt là kế thừa có phát
triển sáng tạo hạt nhân hợp lý của triết học cổ điển Đức, Mác và Ăngghen
đã sáng lập ra một hệ thống triết học mới khác về chất so với các triết học


7
trớc đó. Các triết học trớc Mác chỉ nhằm mục đích là giải thích thế giới,
còn triết học Mác là công cụ hữu hiệu để cải tạo thế giới hiện thực. "Các
nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn

đề là cải tạo thế giới" [33, tr.12].
Nhờ sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng khoa
học, chủ nghĩa duy vật triết học của Mác là chủ nghĩa duy vật triệt để, duy
vật không chỉ trong tự nhiên mà cả trong xã hội. Nội dung của thế giới quan
duy vật biện chứng bao gồm việc giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa con
ngời với tự nhiên và xã hội. Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới
quan của giai cấp công nhân, giai cấp tiến bộ và cách mạng trong thời đại
chúng ta. Thế giới quan duy vật biện chứng vừa có tính cách mạng, vừa có
tính khoa học. Bởi lẽ, sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng đ ợc
xây dựng trên những tiền đề kinh tế - xã hội và t tởng văn hóa tiên tiến của
nhân loại, mà trực tiếp nhất là dựa trên sự phản ánh khái quát đúng đắn, đầy
đủ và sâu sắc những t liệu do khoa học và thực tiễn mang lại.
Thế giới quan duy vật biện chứng phản ánh đúng đắn hiện thực
khách quan và những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, đem đến một cách nhìn hoàn toàn mới mẻ về con ng ời, khẳng
định con ngời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Thế giới quan duy vật biện
chứng đặc biệt đã khẳng định khả năng tự ý thức về vai trò và vị trí của con
ngời trong hiện thực, khẳng định khả năng cải tạo tự nhiên và xã hội của
con ngời. Do đó, thế giới quan duy vật biện chứng chính là vũ khí tinh thần
sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc cách mạng
xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội cộng
sản văn minh, tiến bộ hơn chế độ xã hội t bản chủ nghĩa.
Trên cơ sở phân tích sự hình thành và bản chất của thế giới quan duy
vật biện chứng, chúng tôi đồng ý với quan niệm về thế giới quan duy vật
biện chứng nh sau: "Thế giới quan duy vật biện chứng là một hệ thống quan
điểm hoàn chỉnh về thế giới trên cơ sở những tri thức về tự nhiên, xã hội và
t duy, cùng những định hớng giá trị của con ngời trong quan hệ với hiện
thực dựa trên việc giải quyết một cách duy vật biện chứng vấn đề cơ bản
của triết học" [59, tr.16].



8
Nhận thức khoa học không thể tự bằng lòng và chỉ dừng lại ở việc
nêu ra định nghĩa khái quát về đối tợng mà còn cần phải làm sáng tỏ những
nhân tố trong cấu trúc của nó. Cấu trúc của thế giới quan duy vật biện
chứng gồm ba yếu tố cơ bản đó là tri thức khoa học, niềm tin khoa học và
lý tởng sống.
Tri thức khoa học: là sự hiểu biết sâu sắc của con ngời về thế giới, là
kết quả của quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn đúng đắn của con
ngời. Tri thức khoa học có nhiều loại khác nhau, nhng trong nội dung tri
thức khoa học của thế giới quan duy vật biện chứng, tri thức triết học Mác Lênin đóng vai trò nền tảng... Bởi lẽ, triết học Mác - Lênin là hệ thống tri
thức khái quát nhất về thế giới hiện thực, là bức tranh khái quát về tự nhiên,
xã hội và t duy xác định một cách khoa học và chân thực vai trò, vị trí của
con ngời đối với thế giới đó. Tuy vậy, không phải là khi có tri thức khoa học
là đã có thế giới quan duy vật biện chứng. Tri thức chỉ gia nhập vào thế giới
quan duy vật biện chứng khi nó chuyển thành niềm tin khoa học của con
ngời. Chỉ khi đó thì tri thức mới trở nên bền vững và sâu sắc, mới có giá trị
định hớng cho hoạt động của con ngời.
Niềm tin là một trạng thái tâm lý, tinh thần đặc biệt đợc phát triển
trên cơ sở của tri thức. Nó là động lực thúc đẩy khát vọng nhận thức và cải
tạo hiện thực của con ngời.
Niềm tin khoa học là một nhân tố cơ bản, không thể thiếu trong cấu
trúc của thế giới quan duy vật biện chứng. Đó là sự hòa quyện một cách
hữu cơ giữa tri thức, tình cảm và ý chí cá nhân trong mỗi con ngời. Niềm
tin khoa học đợc hình thành trên cơ sở tri thức khoa học. Niềm tin khoa học
có vai trò nh một động lực, thúc đẩy con ngời vơn tới khát vọng nhận thức
và cải tạo thế giới hiện thực. Nếu con ngời làm một việc gì đó mà không có
niềm tin vào sự đúng đắn của tri thức, của t tởng, thì họ sẽ mất đi những
rung động của ý chí, nghị lực, lòng nhiệt tình và sự cổ vũ cần thiết đối với
hiệu quả công việc: Không có một niềm tin mãnh liệt vào tri thức thì một tri

thức khoa học cũng sẽ không sản sinh ra cái gì vĩ đại cả. Hồ Chủ tịch vị
lãnh tụ của dân tộc Việt Nam, Ngời là một điển hình cho niềm tin khoa học,
chính nhờ có niềm tin ở chính nghĩa, ở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác
- Lênin, Ngời đã cầm lái con thuyền cách mạng đa dân tộc ta đến bến bờ


9
độc lập, đánh Pháp, đuổi Mỹ làm nên chiến thắng nh những huyền thoại
của dân tộc Việt Nam.
Niềm tin chính là động lực mạnh mẽ, giúp cho mỗi con ngời có nghị
lực phi thờng, có thể vợt qua những phút giây hiểm nguy, giám hy sinh vì
mục tiêu lý tởng mà mình cho là cao cả.
Niềm tin khoa học chi phối mạnh mẽ nhận thức, t tởng, chính trị,
đạo đức, lối sống và hành động cách mạng của mỗi con ngời. Nó đòi hỏi
hành động của mỗi ngời cách mạng phải dựa trên cơ sở tri thức khoa học và
tuân theo những giá trị và chuẩn mực đúng đắn của xã hội. Nếu ng ời ta
sống mà không có niềm tin khoa học, hoặc thiếu niềm tin khoa học thì dễ bị
mất phơng hớng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, có thể bị đẩy vào
tình trạng bế tắc không có đờng ra.
Lý tởng cách mạng, là một trong những nhân tố cơ bản trong cấu
trúc của thế giới quan duy vật biện chứng. Lý tởng là sự phản ánh hiện thực
khách quan một cách đặc biệt trong ý thức của con ngời dới dạng hình tợng, kiểu mẫu hay chuẩn mực, mà con ngời cần phải phấn đấu đạt tới. Lý tởng cách mạng đóng vai trò định hớng đối với hoạt động nhận thức và thực
tiễn của con ngời. Nó là nhân tố kích thích sự phấn đấu vơn lên làm chủ của
con ngời trong tự nhiên, xã hội và cả bản thân. Lý tởng đúng đắn, cao cả sẽ
làm cho mỗi ngời hình thành niềm hy vọng lớn, góp phần làm cho họ có
thái độ, lập trờng sống đúng đắn, lao động, học tập và công tác tích cực,
giúp cho họ vơn tới những giá trị cao đẹp; nh lòng nhân ái, lòng vị tha và
những phẩm chất chân, thiện, mỹ; giúp cho họ đấu tranh với cái ác, cái xấu,
cái tiêu cực và lạc hậu trong xã hội và có thể sẵn sàng hy sinh cả tính mạng
của mình cho lý tởng cao đẹp đó.

Ba nhân tố cơ bản trong cấu trúc của thế giới quan duy vật biện
chứng có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, đan
xen nhau và thâm nhập vào nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Từ khi ra
đời cho đến nay, thế giới quan duy vật biện chứng luôn có vai trò hết sức to
lớn đối với hoạt động cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trên toàn thế giới. Thế giới quan duy vật biện chứng và là vũ khí lý
luận sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nó góp phần rất
quan trọng để giúp cho họ biết nhận thức và hành động đúng đắn trong
cuộc đấu tranh chống CNĐQ, chống áp bức bóc lột và bất công vì hòa bình
độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.


10
Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan khoa học: "Đó là
một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín
nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của t
sản" [29, tr.50].
Vì vậy, mà từ khi thế giới quan duy vật biện chứng ra đời, đã đ ợc
hàng triệu triệu ngời trên thế giới đón nhận, trong đó phải kể đến thế hệ
thanh niên.
1.1.1.2. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng
"Thanh niên là những ngời còn trẻ, đang ở độ tuổi trởng thành" [58,
tr.913] hay còn có định nghĩa khác "Thanh niên là những ngời trong độ tuổi
từ 15 đến 24" [10, tr.111].
Lớp lớp thanh niên Việt Nam cũng đã từng đón nhận hệ thống lý
luận của thế giới quan duy vật biện chứng một cách nhiệt tình và từ đó họ
hình thành lý tởng sống cao đẹp, họ sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của
mình, cả cuộc sống hạnh phúc của chính mình cho lý tởng vì độc lập tự do
của dân tộc ta nh Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong, Lý Tự Trọng,
Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi... trong các thời kỳ cách mạng của dân tộc ta.

Trong thế hệ thanh niên thì sinh viên là lực lợng tiêu biểu nhất, bởi
vì theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin sinh viên có một vị trí quan
trọng trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản. Ăngghen viết: "Giai
cấp vô sản lao động trí thức phải đợc hình thành từ hàng ngũ sinh viên, giai
cấp đó có sứ mệnh phải kề vai, sát cánh và cùng đứng trong một đội ngũ với
ngời anh em của họ, những ngời công nhân lao động chân tay, đóng vai trò
quan trọng trong cuộc cách mạng sắp tới đây" [37, tr.613]. ở đây, Ăngghen
đã đánh giá rất cao vai trò của sinh viên với t cách là đội dự bị của giai cấp
vô sản lao động trí thức.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, thanh niên sinh viên là
cội nguồn sức sống của dân tộc, là ngời chủ tơng lai của nớc nhà. Lênin cho
rằng sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản không thể thiếu sự tham gia
tích cực, tự giác của thanh niên sinh viên. Với những tri thức khoa học và
lòng nhiệt tình của tuổi trẻ cùng với thực tiễn đấu tranh chính trị, họ sẽ trở
thành những ngời cộng sản giác ngộ, là ngời bạn đồng minh đáng tin cậy
của giai cấp công nhân. Đợc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng và


11
đợc tập hợp thành tổ chức, nhờ đó, họ hoạt động trong phong trào cách
mạng, họ gắn liền lý luận với thực tiễn.
ở nớc ta các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nớc cũng đánh giá rất
cao vai trò của sinh viên. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc Hội sinh viên Việt
Nam lần thứ VI năm 1999, nguyên Tổng Bí th Lê Khả Phiêu đã gọi sinh viên
"là bộ phận trí tuệ và u tú trong các thế hệ thanh niên, là nơi kết tinh nhiều tài
năng sáng tạo, là nguồn lao động có học vấn cao, có chuyên sâu và đại bộ
phận sinh viên sẽ trở thành ngời trí thức của đất nớc" [23, tr.67]. Có thể
khẳng định rằng, sinh viên Việt Nam là lực lợng u tú nhất trong thanh niên,
có tri thức, đợc đào tạo cơ bản ở trình độ cao, có nhiệt tình của tuổi trẻ. Qua
thực tế ta thấy, trong bất cứ một phong trào nào của thanh niên, sinh viên

luôn luôn là lực lợng xung kích đi đầu. Sinh viên Việt Nam đã và sẽ là
nguồn nhân lực vừa "hồng" vừa "chuyên" của nớc ta. Vì vậy, họ sẽ là những
ngời đóng vai trò quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nớc.
Nớc ta là một nớc thuộc địa nửa phong kiến, làm cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ thắng lợi, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa mà phát triển theo
định hớng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là trong giai đoạn cách mạng hiện
nay, với mục tiêu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nớc định hớng xã hội chủ nghĩa thì hơn bao giờ hết cần phải giáo
dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên.
Giáo dục là một quá trình hoạt động mang tính xã hội và mang tính
phức hợp giữa các chủ thể dạy và học, là quá trình truyền đạt và tiếp nhận
tri thức một cách có hệ thống với sự hỗ trợ của các phơng tiện cần thiết. Nói
cách khác giáo dục là quá trình hoạt động thống nhất hữu cơ giữa hai mặt
dạy và học. Trong quá trình giáo dục, bao giờ cũng có một hệ thống cần
phải giải quyết đó là: mục đích, nhiệm vụ, đối tợng, nội dung, chơng trình,
giảng viên, động cơ dạy và học cùng các phơng tiện giáo dục khác, nhằm
đào tạo con ngời đáp ứng yêu cầu phát triển đất nớc trong từng giai đoạn
lịch sử.
Giáo dục tuy không phải là sức mạnh vạn năng, không phải là nhân
tố quyết định, song nó có tác dụng lớn lao đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách, là con đờng đặc trng để loài ngời tồn tại và phát triển. Nếu
không có giáo dục thì hệ thống giá trị chung của loài ngời nh: các giá trị


12
kinh tế, giá trị t tởng chính trị, đạo đức, truyền thống dân tộc... không đợc
bảo tồn và phát triển, do đó cũng không tạo ra giá trị mới.
Bác Hồ cho rằng, không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng
không nói gì đến văn hóa, kinh tế... Nhiều phẩm chất trong đó có lòng yêu

nớc, lòng tự hào dân tộc, truyền thống vẻ vang, anh hùng bất khuất của dân
tộc đợc hình thành qua giáo dục.
Trong xã hội có giai cấp, giáo dục cũng mang tính giai cấp nhằm
đào tạo ra lớp ngời phục vụ và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị xã hội và
của chế độ xã hội mà họ xây dựng. Tính giai cấp đợc bộc lộ rất đa dạng
trong nền giáo dục của mỗi quốc gia khác nhau, mỗi chế độ khác nhau.
Giáo dục theo quan điểm phong kiến nhằm đào tạo ra những con ngời trung hiếu. Giáo dục, theo quan điểm t bản chủ nghĩa nhằm tạo ra con
ngời thạo việc và tích cực, những nhà buôn, những nhà công nghiệp để phục
vụ lợi ích cho giai cấp t sản... Giáo dục theo quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin nhằm tạo ra những con ngời phát triển toàn diện. "Biết thấm nhuần
tổng số những kiến thức của nhân loại mà chủ nghĩa cộng sản là kết quả bởi
vì tơng lai của loài ngời hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công
nhân đang lớn lên" [35, tr.262].
ở nớc ta, giáo dục trớc hết là trách nhiệm của Đảng và Nhà nớc,
trách nhiệm của các ngành và mọi ngời trong xã hội. Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội phải có con ngời xã hội chủ nghĩa: đó là những con ngời đợc
phát triển toàn diện. Họ có phẩm chất chính trị, đạo đức, tri thức khoa học
có năng lực t duy lý luận, có khả năng hoạt động thực tiễn. Lênin kết luận
rằng: "Họ phải hiểu rằng, điều đó chỉ có thể thực hiện đợc trên cơ sở một
nền học vấn hiện đại, và nếu họ không có nền học vấn đó thì chủ nghĩa
cộng sản chì là một nguyện vọng mà thôi" [33, tr.175].
Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng nhằm làm cho sinh viên
nắm đợc những nội dung cơ bản của thế giới quan duy vật biện chứng và h ớng dẫn sinh viên vận dụng lý luận đó vào thực tiễn một cách sáng tạo. Từ
đó, sinh viên sẽ phát triển nhân cách một cách hài hòa: biết lĩnh hội tri thức
đã học, biết biến tri thức đó thành niềm tin và lý tởng cao cả của mình, tức
là vận dụng tri thức đó vào cải tạo thế giới hiện thực.
Bản chất của giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng là quá trình
tác động đồng bộ, tích cực, có định hớng, có kế hoạch vào ý thức của sinh



13
viên, nâng cao khả năng nhận thức, năng lực t duy và hớng dẫn họ hoạt
động thực tiễn theo một chơng trình, mục tiêu cụ thể, xác định nào đó. Giáo
dục thế giới quan duy vật biện chứng là một bộ phận của giáo dục xã hội
nhằm phát triển con ngời toàn diện.
Con đờng trực tiếp, năng động và sáng tạo nhất để hình thành thế
giới quan khoa học và cách mạng cho sinh viên là con đờng giáo dục. Mục
tiêu của giáo dục không chỉ là cung cấp những tri thức về nội dung, đặc
điểm, vai trò, ý nghĩa của thế giới quan duy vật biện chứng mà còn làm cho
chúng thâm nhập vào cấu trúc nội tại của chủ thể - sinh viên và biến kiến
thức trong khoa học mà sinh viên đã tiếp nhận đợc thành giá trị, niềm tin, lý
tởng, lập trờng thế giới quan tơng ứng. Nhờ đó mà sinh viên sẽ hình thành
thế giới quan khoa học và cách mạng của chính mình, hình thành phơng hớng tu dỡng, rèn luyện, thành những phẩm chất chính trị, đạo đức của chính
sinh viên.
Việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng phải đợc đảm bảo cả
ba thành tố cấu trúc cơ bản của nó. Thứ nhất là hệ thống tri thức khoa học
cơ bản, toàn diện, hiện đại và phơng pháp t duy biện chứng; thứ hai là hệ
thống niềm tin vào chân lý những giá trị xã hội nhân đạo; thứ ba là hình
thành lý tởng sống cao đẹp, tiến bộ và tính tích cực, sẵn sàng hành động vì
lý tởng đó.
Nh vậy, trong nội dung, chơng trình giáo dục thế giới quan duy vật
biện chứng phải giáo dục những nguyên tắc cơ bản, những nguyên lý quy
luật và các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật, để sinh viên nắm
chắc thực chất tính cách mạng và tính khoa học của phép biện chứng duy
vật và những biểu hiện sinh động, phong phú của chúng trong đời sống hiện
thực. Nhng các nguyên lý quy luật phạm trù của triết học Mác - Lênin mới
là hạt nhân của thế giới quan duy vật biện chứng. Thế giới quan duy vật
biện chứng là một thế giới quan duy vật hoàn chỉnh, vì vậy cùng với giáo
dục những tri thức triết học Mác - Lênin cần phải giáo dục những tri thức
của môn kinh tế chính trị Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học. Bởi vì,

ở môn học kinh tế chính trị Mác - Lênin giúp cho sinh viên nhận thức hệ
thống lý luận khoa học của Mác và Ăngghen về sự vận động của xã hội t
bản chủ nghĩa, thấy rõ đợc bản chất của giai cấp t sản trong nền kinh tế t


14
bản chủ nghĩa là bóc lột giá trị thặng d. Nhờ bóc lột giá trị thặng d do giai
cấp công nhân tạo ra, giai cấp t sản đã đẩy mạnh phát triển kinh tế và bớc
vào cuộc cách mạng công nghiệp làm tăng năng suất lao động, nh ng đồng
thời cũng làm cho lực lợng sản xuất mang tính chất xã hội hóa ngày càng
cao, mâu thuẫn với tính chất chập hẹp của chế độ chiếm hữu t nhân, t bản
chủ nghĩa. Chủ nghĩa t bản càng phát triển thì càng làm cho mâu thuẫn giữa
lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất càng gay gắt. Mâu thuẫn đó chỉ giải
quyết triệt để khi cuộc cách mạng giành những t liệu sản xuất chủ yếu vào
tay xã hội quản lý, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lợng sản xuất. Ngời có sứ mệnh lịch sử thực hiện quá trình cách
mạng đó là giai cấp công nhân, con đẻ của nền đại công nghiệp, đại diện
cho lực lợng sản xuất và phơng thức sản xuất tiên tiến của thời đại mới.
Môn chủ nghĩa xã hội khoa học là môn học mà hệ thống tri thức của
nó vừa dựa trên cơ sở triết học và kinh tế chính trị học Mác - Lênin, vừa bổ
sung và hoàn tất các học thuyết ấy, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin mang
tính hoàn chỉnh cân đối, làm cho thế giới quan duy vật biện chứng thực sự
khoa học. Bởi vì, chủ nghĩa xã hội khoa học chứa đựng những nội dung tri
thức khoa học đề cập đến các vấn đề cải tạo thế giới theo những quy luật
khách quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội khoa học
làm rõ mục tiêu cuối cùng và con đờng giải phóng xã hội, giải phóng con
ngời, đồng thời luận giải một cách khoa học về lực lợng chủ đạo trong quá
trình cách mạng, đó là giai cấp công nhân với sứ mệnh lịch sử của mình là
xây dựng CNXH, CNCS.
Nh vậy, là cả ba môn khoa học cơ bản này đã làm sáng tỏ lôgíc lịch

sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội, là hớng tới cách mạng xã hội do giai
cấp công nhân và đội tiền phong của nó lãnh đạo, là tiến tới một xã hội t ơng
lai tốt đẹp, một xã hội không còn có sự áp bức bóc lột và bất công; ngời dân
lao động đợc làm chủ. Chính vì vậy, mà thông qua ba môn học cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin mà đặc biệt là môn chủ nghĩa xã hội khoa học là cơ
sở để tăng cờng giáo dục lý tởng cách mạng cho sinh viên ngày nay. Ngoài
ra, cần phải giáo dục môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và T tởng Hồ
Chí Minh đó là những môn học vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Do đó, đợc trang bị kiến thức về lịch sử


15
Đảng Cộng sản Việt Nam, về t tởng Hồ Chí Minh, sinh viên tự hào về lịch
sử đấu tranh cách mạng, về sự nghiệp giải phóng dân tộc, về CNXH, về con
ngời sẽ giúp cho họ củng cố và nâng cao niềm tin vào thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xớng và lãnh đạo, tin vào con đờng XHCN
mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Đồng thời, cũng cần phải
giáo dục cả những tri thức khoa học tự nhiên, xã hội bởi vì những tri thức
đó đã chứa đựng nội dung của thế giới quan khoa học và đã đ ợc khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội chứng minh tính đúng đắn của nó. Những kiến
thức của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội sẽ góp phần làm cho sự hiểu
biết về thế giới quan duy vật biện chứng thêm sâu sắc. Việc giáo dục thế
giới quan duy vật biện chứng đòi hỏi phải giáo dục cả về đờng lối, chính
sách của Đảng, các t tởng tiến bộ của nhân loại khác hợp thành một thế giới
quan khoa học và cách mạng nhất.
Trong hệ thống giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng, ngoài nội
dung chơng trình còn cần phải có phơng pháp giáo dục, hình thức giáo dục,
tiến trình thực hiện giáo dục và phải có cả những phơng tiện vật chất kỹ
thuật phục vụ cho công tác giáo dục, tạo ra hệ các điều kiện tốt phục vụ cho
công tác giáo dục.

1.1.2. Vai trò của việc giáo dục thế giới duy vật biện chứng đối
với sinh viên hiện nay
Sinh viên là đội ngũ trí thức trong tơng lai, là lực lợng trẻ có học thức,
họ là những ngời nhạy cảm với cái mới, năng động và sáng tạo, là chủ nhân tơng lai của đất nớc. Sinh viên là một tầng lớp xã hội luôn đợc gia đình, nhà trờng và xã hội hết sức quan tâm. Bởi lẽ, ngay từ khi đất nớc còn chiến tranh,
sinh viên Việt Nam đã từng gắn bó và có những đóng góp lớn lao vào sự
nghiệp cách mạng và thắng lợi của dân tộc ta. Ngày nay, trong sự phát triển
của đất nớc, sinh viên Việt Nam có vai trò hết sức to lớn. Tại Đại hội sinh viên
toàn quốc lần thứ V, nguyên Tổng Bí th Đỗ Mời đã khẳng định: "Sự nghiệp
đổi mới của đất nớc, xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công hay không thành
công, đất nớc ta bớc vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế
giới hay không, chủ yếu do thế hệ thanh niên hiện nay quyết định, trong đó
sinh viên là một bộ phận có vai trò hết sức quan trọng".
Nh vậy, hơn bao giờ hết, trong giai đoạn cách mạng ở nớc ta hiện
nay, đòi hỏi sinh viên Việt Nam phải nâng cao khả năng nắm bắt tri thức


16
khoa học cơ bản, khoa học chuyên ngành để đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp
CNH, HĐH, những đòi hỏi khắt khe của thị trờng sức lao động thời kỳ phát
triển kinh tế thị trờng ở nớc ta hiện nay cũng nh đòi hỏi của thị trờng khu
vực và thị trờng quốc tế. Điều đó cũng đòi hỏi sinh viên phải đợc giáo dục
và rèn luyện để trở thành những con ngời có phẩm chất chính trị - đạo đức
lối sống tiến bộ, có lòng yêu nớc, yêu chủ nghĩa xã hội.
Để hội tụ đợc đầy đủ những phẩm chất trên đây, thì điều quan trọng
là sinh viên phải đợc trang bị một cách đầy đủ, toàn diện thế giới quan duy
vật biện chứng.
Việc trang bị đó chủ yếu là thông qua quá trình giáo dục thế giới
quan duy vật biện chứng. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho
sinh viên hiện nay là một trong những công việc quan trọng nhất của công
tác giáo dục lý luận, trong các trờng đại học, cao đẳng. Nói về tầm quan

trọng của thế giới quan, đặc biệt là thế giới quan duy vật biện chứng đối với
ngời cộng sản, Lênin viết:
Ngời nào bắt tay giải quyết những vấn đề riêng, trớc khi giải
quyết những vấn đề chung, thì kẻ đó trên mỗi bớc đi sẽ không sao
tránh khỏi vấp phải những vấn đề chung một cách không tự giác
mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng trờng hợp
riêng, thì có nghĩa đa chính sách của mình đến chỗ có những dao
động tồi tệ nhất và mất tính nguyên tắc [28, tr.437].
Thật vậy, trớc khi con ngời hoạt động thực tiễn thì phải có sự định hớng đúng đắn nếu không có sự định hớng thì hoạt động của họ là mò mẫm
dễ dẫn đến thất bại.
Nh vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên
hiện nay có vai trò to lớn.
1.1.2.1. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng góp phần xây
dựng lý tởng sống cao đẹp cho sinh viên
Lý tởng sống cao đẹp của sinh viên ngày nay là độc lập dân tộc và
CNXH, là học tập, rèn luyện vì ngày mai lập thân, lập nghiệp, vì tơng lai của
bản thân và tiền đồ của đất nớc. Mỗi sinh viên phải biết phấn đấu xây dựng nớc ta trở thành một nớc Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng dân chủ và
văn minh. Sinh viên Việt Nam là những ngời có tuổi đời còn trẻ, họ có nhiều
hoài bão ớc mơ, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng vợt qua mọi khó khăn thử


17
thách, cống hiến sức lực và trí tuệ của mình cho mục tiêu cao cả của dân tộc.
Nhng ở họ lại có những hạn chế, tuổi đời còn ít, kinh nghiệm cuộc sống cha
nhiều, lại thiếu từng trải, vì vậy trong cuộc sống nhiều lúc họ tỏ ra bồng bột,
cha thực sự chín chắn trong suy nghĩ và hành động. Do đó, cần phải giáo dục
hớng dẫn sinh viên hình thành lý tởng cao đẹp, biết biến lý tởng thành hiện
thực, biết cụ thể hóa lý tởng của mình trong cuộc sống lao động, học tập và
sinh hoạt. Lý tởng cao đẹp là những giá trị chỉ đạo, điều khiển hoạt động,
hành vi hàng ngày của mỗi sinh viên. Lý tởng cao đẹp không hình thành tự

phát trong mỗi sinh viên mà phải thông qua giáo dục mới có đợc. Lý tởng cao
đẹp chỉ đợc xây dựng trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng, ở đó có sự
thống nhất giữa khoa học và niềm tin, giữa lý trí và tình cảm.
1.1.2.2. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng góp phần xây
dựng phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh
Giáo dục đạo đức cho sinh viên ngày nay có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong công tác giáo dục đào tạo ở các trờng đại học, cao đẳng, bởi vì
nó là cơ sở nền tảng hình thành con ngời mới vừa "hồng" vừa "chuyên",
những con ngời nh vậy mới gánh vác đợc trọng trách mà Đảng và nhân dân
giao phó là "lực lợng quan trọng trong sự nghiệp thực hiện thắng lợi công
nghiệp hóa, hiện đại hóa định hớng xã hội chủ nghĩa". Trong khi ấy thì một
thực tế đang diễn ra trong một bộ phận sinh viên, nh nhận định của TS.
Hoàng Trang - Trờng Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đó là
"Những tiêu cực do cơ chế thị trờng nẩy sinh đang lan vào các trờng đại
học, cao đẳng đã ảnh hởng không tốt đến các hoạt động của nhà trờng, làm
giảm sút chất lợng học tập và đạo đức, lối sống trong một bộ phận sinh
viên... nguy hại hơn nữa là sự xói mòn, xuống cấp đạo đức, phẩm chất của
một bộ phận sinh viên" [15, tr.154]. Trớc thực trạng suy thoái về đạo đức lối
sống của sinh viên hiện nay, thì việc xây dựng phẩm chất đạo đức và lối
sống lành mạnh cho sinh viên hiện nay làm cho họ vừa có tài vừa có đức
trong đó đức là gốc, để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xây dựng đất nớc là
một trong những vấn đề cấp bách đảm bảo cho sự nghiệp xây dựng CNXH
khỏi chệch hớng. Nhng vấn đề là làm thế nào để xây dựng phẩm chất đạo
đức và lối sống lành mạnh cho sinh viên trong điều kiện hết sức khó khăn,
có sự tác động khách quan của cơ chế thị trờng ở nớc ta và thế lực thù địch
thực hiện âm mu "diễn biến hòa bình", chống CNXH ở nớc ta. Trong nhiều


18
năm qua, chúng đã tìm mọi cách gieo rắc trong sinh viên lối sống thực

dụng, ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, sùng bái đồng tiền. Việc xây dựng phẩm
chất đạo đức và lối sống lành mạnh sẽ không phải chỉ là tuyên truyền, hô
hào, kêu gọi sinh viên làm việc thiện, không làm điều ác, là sống có tình có
nghĩa, là phải hy sinh lợi ích riêng của cá nhân để phục vụ cho lợi ích
chung... mà vấn đề cốt lõi là phải trang bị cho sinh viên thế giới quan duy
vật biện chứng một cách toàn diện và vững chắc. Bởi vì, khi đ ợc giáo dục
thế giới quan duy vật biện chứng sẽ hình thành ở sinh viên nhân sinh quan
cộng sản chủ nghĩa. Nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa là quan niệm của
ngời ta về cuộc đời, ý nghĩa, mục đích của con ngời là phải đấu tranh để
thực hiện một xã hội không còn áp bức bóc lột giữa con ng ời với nhau, một
xã hội công bằng, ở đó con ngời có một cuộc sống đầy đủ về vật chất và có
đời sống văn hóa tinh thần phong phú. Từ đó sinh viên thấy đợc giá trị, ý
nghĩa và mục đích cuộc sống của con ngời, "không có gì quý hơn độc lập tự
do", do vậy, tình cảm, ý chí và đạo đức cách mạng trong bản thân sinh viên
đợc nâng lên. Đó là "bức tờng thép" để ngăn chặn lối sống vô đạo đức, thực
dụng trọng đồng tiền trong sinh viên ngày nay.
Họ sẽ biết nêu cao tinh thần đấu tranh bảo vệ chân lý, bảo vệ cái
đúng, cái tốt, lên án cái ác, cái xấu và cái tiêu cực, có thái độ kiên quyết,
dứt khoát đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi mọi cái tiêu cực, sa đọa, suy thoái
về đạo đức và lối sống trong nhà trờng cũng nh ngoài xã hội.
Mặt khác, khi đợc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng sinh
viên sẽ biết sống đoàn kết, đoàn kết giữa cá nhân và tập thể, biết hòa chung
vào sự phát triển của tập thể từ lớp, khoa, trờng đến toàn xã hội. Nó giúp
cho sinh viên biết giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cá nhân, tập thể và
xã hội, biết đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân, biết hy sinh cái riêng
để phục vụ cho cái chung. Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho sinh
viên biết yêu lao động, thờng xuyên lao động, học tập một cách nghiêm túc,
đem lại chất lợng và hiệu quả cao, từ đó họ có khả năng vơn lên làm chủ
khoa học công nghệ tiên tiến để xứng đáng với vị trí và vai trò của mình
trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Nh Bác Hồ đã dạy "Học để

phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu nớc mạnh, tức là
làm tròn nhiệm vụ của ngời làm chủ nớc nhà" [40, tr.83].


19
1.1.2.3. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng góp phần rèn
luyện phơng pháp t duy khoa học nhằm khắc phục những t tởng duy tâm
Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò to lớn trong
việc hình thành và phát triển t duy lý luận cho sinh viên. Từ hoàn cảnh thực
tiễn của nớc ta, xuất phát từ một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu thực
hiện quá độ bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội,
do đó đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam còn mang nặng t duy
kinh nghiệm. Bên cạnh đó chúng ta lại thu đợc thắng lợi to lớn trong các
cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, nên chúng ta dễ rơi vào t tởng chủ
quan duy ý chí. Hai căn bệnh cố hữu này đang trở thành lực cản to lớn đối
với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa định h ớng xã hội chủ nghĩa.
Những căn bệnh này đã và đang tác động trực tiếp đến thế hệ trẻ nói chung
và sinh viên nói riêng. Nó cũng là lực cản rất lớn cho công tác giáo dục thế
hệ trẻ hiện nay. Hiện nay sinh viên Việt Nam nói riêng và thế hệ trẻ nói
chung đang đứng trớc một thực tế là có sự dao động về thế giới quan. Thế
giới quan duy tâm với phơng pháp t duy siêu hình đang hiện hữu trong cuộc
sống hàng ngày của họ. Thế giới quan duy vật biện chứng đang đ ợc giáo
dục cho sinh viên thông qua hệ thống nội dung chơng trình nhng thực tiễn
của đất nớc có sự thay đổi lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế - xã hội,
hơn nữa thế giới lại có sự biến động to lớn, đó là chủ nghĩa xã hội lâm vào
thoái trào, chủ nghĩa t bản đang vẫn còn thể hiện sức sống của mình về tiềm
lực kinh tế và quân sự. Các nhà nớc t bản lại có những điều chỉnh mới về
chính sách... Tất cả thực tiễn đó đang đặt ra cho sinh viên sự lựa chọn định
hớng. Do đó, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng nhằm nâng cao
năng lực t duy lý luận của sinh viên để cho họ có khả năng giải thích những

vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống một cách khách quan và khoa học.
Hiểu đợc tính khoa học và cách mạng của lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
hiểu đợc đờng lối, chính sách của Đảng ta là đúng đắn, họ sẽ có khả năng
khắc phục đợc những sai lầm trong nhận thức, chống lại những t tởng phản
khoa học và cách mạng, chống lại thế giới quan duy tâm siêu hình.
Nh vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên
ngày nay để bản thân họ có một thế giới quan khoa học, hình thành ở họ
một phơng pháp luận khoa học để giúp họ tránh khỏi những vấp váp, sai
lầm trong cả suy nghĩ và hành động. Lênin đã chỉ rõ: "Không có một cơ sở


20
triết học vững vàng thì tuyệt nhiên không có khoa học tự nhiên nào hay chủ
nghĩa duy vật nào có thể tiến hành đấu tranh chống đợc sự lấn bớc của
những t tởng t sản và sự phục hồi thế giới quan t sản. Muốn tiến hành đợc
cuộc đấu tranh ấy và đa nó đến thành công hoàn toàn, nhà khoa học tự
nhiên phải là một nhà duy vật hiện đại... phải là một nhà duy vật biện chứng
[30, tr.30].
1.1.2.4. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho sinh
viên nhận thức sâu sắc những vấn đề của thời đại
Thế giới quan duy vật biện chứng mà hạt nhân lý luận của nó là triết
học duy vật biện chứng cùng với các khoa học khác đã luận chứng về sự
diệt vong tất yếu của chủ nghĩa t bản và sự ra đời của một chế độ mới, chế
độ cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội. Lý
luận khoa học đó đã đợc thực tiễn chứng minh bằng sự thắng lợi của cách
mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã nổ ra và
thắng lợi ở khắp năm châu; chính hệ thống này đã góp phần to lớn cho việc
giữ gìn hòa bình, thúc đẩy tiến bộ xã hội, đã làm náo nức hàng triệu triệu
con ngời trên thế giới. Hiện nay chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ ở Liên Xô và
Đông Âu, hệ thống các nớc xã hội chủ nghĩa trên thế giới bị tan rã, chủ

nghĩa xã hội lâm vào thoái trào. Trong khi đó chủ nghĩa t bản hiện đại vẫn
còn thể hiện sức sống của nó. Các nhà nớc t sản có những điều chỉnh trong
quan hệ sản xuất, điều chỉnh về chính sách xã hội, do đó xét những biểu
hiện bên ngoài, thì chúng ta dễ lầm tởng rằng chủ nghĩa t bản là tiến bộ, là
tốt đẹp, chủ nghĩa xã hội đã chấm dứt sự tồn tại của mình và nh vậy là họ
có thể dao động, có thể mất niềm tin vào chủ nghĩa xã hội. Nhng nếu đợc
trang bị một cách toàn diện và khoa học về thế giới quan duy vật biện
chứng thì chúng ta sẽ có những nhận thức đúng đắn về tình hình chính trị xã hội trên thế giới đang diễn ra hết sức phức tạp. Thế giới quan duy vật
biện chứng sẽ giúp cho sinh viên hiểu đợc chủ nghĩa t bản hiện đại ngày
nay vẫn không phải là chế độ tiến bộ nhất trong lịch sử loài ng ời, chủ nghĩa
xã hội đã lâm vào khủng hoảng, nhng đó là sự khủng hoảng của một mô
hình không phù hợp mà thôi. Sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội là sự khủng
hoảng trong sự trởng thành, theo quy luật vận động của xã hội, chủ nghĩa
xã hội nhất định sẽ chiến thắng. Những thành công trong công cuộc đổi mới


21
của Trung Quốc và Việt Nam là thực tiễn sinh động chứng minh cho xu h ớng tất yếu của lịch sử.
Đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta, thế giới quan duy vật
biện chứng giúp cho sinh viên hiểu đợc độc lập dân tộc, gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là sự lựa chọn tất yếu của dân tộc ta, hiểu đ ợc chủ nghĩa Mác Lênin và t tởng Hồ Chí Minh là nền tảng t tởng và kim chỉ nam cho hành
động của Đảng và nhân dân ta.
1.1.2.5. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho sinh
viên tìm ra phơng pháp đúng đắn để cải tạo hiện thực
Thế giới quan duy vật biện chứng là sự thống nhất giữa chủ nghĩa
duy vật và phép biện chứng. Vì vậy, ngoài việc tiếp thu bản thể luận, sinh
viên còn đợc trang bị về phơng pháp luận tức là những quan điểm, các
nguyên tắc để nhận thức và cải tạo thế giới. Vì vậy, thông qua giáo dục thế
giới quan, phơng pháp nhìn nhận, cải tạo thế giới sẽ đợc hình thành và phát
triển. Mặt khác, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng là phơng pháp

rèn luyện t duy lý luận cho ngời học, chủ yếu là gắn lý luận với thực tiễn.
Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng không những cung cấp tri thức
khoa học ở trong nhà trờng mà còn hớng dẫn chỉ đạo cho sinh viên biết đem
lý luận đã học vào rèn luyện trong đời sống thực tiễn. Không phải ngẫu
nhiên mà phong trào sinh viên tình nguyện - màu áo xanh thanh niên, sinh
viên tình nguyện đã trở nên thân thơng và rất quen thuộc với ngời dân Hà
Nội cũng nh nhân dân cả nớc nói chung. Đa số sinh viên Việt Nam sau khi
ra trờng, sẵn sàng đi bất cứ nơi nào để cống hiến sức trẻ và trí tuệ của mình
cho sự giầu có và phát triển của đất nớc. Những công việc mà họ đã làm là
bởi lẽ họ đã đợc giáo dục rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống
trong nhà trờng, họ đã biết đem những lý luận đã đợc học vào vận dụng
trong thực tiễn cuộc sống. Giữa họ sẽ có sự thống nhất giữa học và hành, lời
nói và việc làm. Nh vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp
cho sinh viên tham gia vào hoạt động thực tiễn đạt kết quả tốt. Giáo dục thế
giới quan duy vật biện chứng là quá trình giúp cho sinh viên rèn luyện năng
lực giải quyết công việc của mình, cũng nh tự rèn luyện mình để hòa nhập
vào hoạt động chung của xã hội.
Tóm lại, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên
hiện nay có một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động nhận thức và


22
thực tiễn. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng để họ có đ ợc một lập
trờng cách mạng vững chắc, để nhận ra đợc cuộc đấu tranh gay go phức tạp
giữa hai con đờng t bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa ngày nay để thấy rõ
đợc sự xuyên tạc của bọn cơ hội, bọn phản động muốn bác bỏ chủ nghĩa
Mác - Lênin trong điều kiện thế giới có những diễn biến phức tạp..
Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp cho sinh viên
Việt Nam có đợc phơng pháp luận khoa học, từ đó họ có niềm tin vào
CNXH, vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta. Khi đã có niềm tin và lập tr ờng vững vàng thì sinh viên tham gia vào thực tiễn cuộc sống với t cách ngời lao động có trình độ cao, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa.
Nh vậy, giáo dục thế giới quan duy vật cho sinh viên hiện nay có
một vai trò hết sức quan trọng, tuy nhiên việc giáo dục thế giới quan duy
vật biện chứng muốn đem lại hiệu quả cao thì đòi hỏi phải thực hiện dựa
trên hệ các điều kiện nh đã chỉ ra.
Nhng các điều kiện trên không phải do t tởng, do ý muốn của con
ngời quyết định mà suy cho cùng nó lại phụ thuộc vào điều kiện của hoàn
cảnh xã hội cụ thể. Bởi vì, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì
tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại
xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử. Mác viết
"không phải ý thức của con ngời quyết định tồn tại của họ: trái lại, tồn tại
xã hội của họ quyết định ý thức của họ" [36, tr.15].
Vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, các nhân tố chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội và khoa học của mỗi thời kỳ lịch sử đều tác động, ảnh hởng đến quá trình hình thành phát triển ý thức, t tởng, thế giới quan của mỗi ngời. Do đó, quá trình giáo dục và tự giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng của
sinh viên Hà Nội hiện nay đều chịu tác động của những điều kiện trong nớc và
thế giới cũng nh những điều kiện đặc thù của Hà Nội hiện nay. Thực tiễn đã
chứng nhận rằng sự tác động đó đều diễn ra cả hai chiều tích cực và tiêu cực.
Luận văn tập trung làm sáng tỏ những nhân tố cơ bản tác động đến quá trình giáo
dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay để nhằm
phát huy tác động tích cực và hạn chế ảnh hởng tiêu cực.
1.2. Những nhân tố tác động đến việc giáo dục thế giới
quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay


23
Sinh viên Hà Nội là con em của mọi tầng lớp nhân dân sống ở các
vùng miền khác nhau về học tập ở các trờng đại học, cao đẳng trên địa bàn
thành phố Hà Nội, do đó điều kiện kinh tế xã hội của đất n ớc cũng nh của
thế giới cùng những điều kiện đặc thù của Hà Nội đều tác động đến việc
giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên.

1.2.1. Sự tác động của điều kiện trong nớc và thế giới
1.2.1.1. Sự tác động của những điều kiện trong nớc
Trớc hết phải tính đến sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội.
Đại hội VI của Đảng đã đề ra đờng lối đổi mới, qua gần hai mơi năm đổi
mới, Đảng và nhân dân ta đã thu đợc những thành tựu hết sức quan trọng về
kinh tế và xã hội. "Kinh tế tăng trởng khá, văn hóa - xã hội có những tiến
bộ, đời sống nhân dân tiếp tục đợc cải thiện" [19, tr.16]. Những thành tựu
này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở n ớc ta, và nó là tiền đề trực tiếp cho Đảng, Nhà nớc và nhân dân ta tiếp tục
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa định h ớng xã
hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cần nhận thấy rằng, nền kinh tế nớc ta hiện nay
vẫn ở trạng thái chậm phát triển so với nhiều nớc trong khu vực và thế giới.
Đời sống của một bộ phận nhân dân hiện nay vẫn ở mức thấp. Nguyên nhân
căn bản là chúng ta xuất phát từ một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp, nghèo
nàn lạc hậu, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa.
Nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, tồn tại lâu dài ở n ớc ta đã tác động
không nhỏ đến đời sống tinh thần của nhân dân ta và tác động đến cả quá
trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên hiện nay.
Phần lớn sinh viên Hà Nội là con em của nhân dân ở khắp các vùng miền
khác nhau. Vì vậy, họ luôn luôn đợc kế thừa cả những yếu tố tích cực và
hạn chế của ngời nông dân Việt Nam. Những yếu tố tích cực ví dụ nh lòng
yêu nớc, tính cần cù chịu khó, dũng cảm, luôn đợc thế hệ trẻ kế thừa và
phát huy. Bên cạnh đó, những hạn chế của ngời nông dân nh: đầu óc t hữu,
nếp nghĩ và t duy thiển cận, t duy kinh nghiệm là chủ yếu, cung cách làm
ăn tủn mủn, tùy tiện, thiếu tổ chức kỷ luật đã ảnh hởng rất lớn đến việc giáo
dục thế giới quan duy vật biện chứng cho thế hệ ngày nay nói chung và sinh
viên Hà Nội nói riêng.
Thực tiễn xã hội loài ngời đã chứng minh con ngời vừa là chủ thể của
hoàn cảnh, nhng đồng thời vừa là sản phẩm của hoàn cảnh. Mác đã viết "Con



24
ngời trong chừng mực mà họ là hiện thân của những phạm trù kinh tế, là kẻ
đại biểu cho những quan hệ lợi ích giai cấp nhất định" [38, tr.21]. Do đó,
trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nớc ta chuyển sang cơ chế thị trờng
định hớng xã hội chủ nghĩa, thì tất cả những u và nhợc điểm của nền kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng đã và đang tác động đến
quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội
hiện nay. Có thể khẳng định rằng sự tác động tích cực là chủ yếu, song sự
tác động tiêu cực cũng không nhỏ.
Sự tác động tích cực đợc thể hiện nh: góp phần phá vỡ tình trạng
chia cắt, cục bộ, manh mún, vốn là sản phẩm của nền kinh tế tự cung tự cấp
gây ra. Đồng thời, khắc phục đợc tình trạng thụ động, ỷ lại của cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, mở đờng cho lực lợng sản xuất phát triển và từng
bớc hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Điều kiện này đã tác động quan trọng
tới sự phát triển năng lực t duy biện chứng của mỗi ngời đặc biệt là sinh
viên Hà Nội nói riêng. Bởi t duy kinh nghiệm, siêu hình đã trở thành lực
cản rất lớn cho quá trình học tập, nghiên cứu khoa học và rèn luyện phẩm
chất chính trị, đạo đức mới của sinh viên. Cơ chế thị trờng có những đòi hỏi
khắt khe về thị trờng lao động, về nguồn lực đó là những con ngời phải có
trình độ học vấn cao, có năng lực chuyên môn vững chắc, năng động sáng
tạo trong các lĩnh vực lao động và cuộc sống. Những đòi hỏi khắt khe của
cơ chế thị trờng đã và đang tác động đến sinh viên, đòi hỏi sinh viên khắc
phục đợc tính thụ động, ỷ lại, dựa dẫm, lời học tập, lời nghiên cứu khoa
học. Chính vì vậy, sinh viên ngày nay đặc biệt là sinh viên Hà Nội năng
động hơn, thông minh hơn, dám tự khẳng định mình, dám đơng đầu với
những khó khăn bớc đầu trên con đờng lập nghiệp, thôi thúc sinh viên
không chỉ coi trọng việc học tập, nghiên cứu những tri thức chuyên môn
ngành nghề, mà còn ham muốn đợc học tập nghiên cứu lý luận, tìm hiểu về
đờng lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nớc.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ

chế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế của đất nớc đã có
những bớc chuyển lớn. Đời sống vật chất của nhân dân đợc cải thiện, đời
sống tinh thần của nhân dân đợc nâng cao, đời sống văn hóa có những bớc
tiến bộ rõ rệt. Những thành tựu đó đã bớc đầu tạo ra niềm tin của nhân dân
nói chung và sinh viên nói riêng về sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của


25
Nhà nớc. Vì vậy, sinh viên đã có niềm tin chủ nghĩa xã hội, họ gắn bó với
lý tởng cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đa số sinh viên ngày nay nêu cao tinh
thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Vì vậy, nó đã tạo ra điều
kiện để khắc phục những nhận thức lệch lạc, dao động, suy giảm niềm tin
khi họ bị tác động của mặt trái cơ chế thị trờng và sự xuyên tạc của các thế
lực thù địch.
Trong cơ chế mới hiện nay, việc mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác
phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật với nhiều n ớc trên thế giới đã
tạo điều kiện cho nhân dân trong đó có sinh viên học hỏi, tiếp thu và kế
thừa những t tởng tiến bộ, văn minh, những thành tựu về khoa học, kỹ thuật
và văn hóa của nhân loại và của thời đại. Điều này có ảnh hởng tích cực tới
việc tiếp thu, lĩnh hội, nâng cao trí tuệ, hình thành và phát triển thế giới
quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội nói riêng và sinh viên cả n ớc
nói chung.
Về tác động tiêu cực: Bên cạnh những tác động tích cực là chủ yếu thì
cơ chế thị trờng cũng bộc lộ những mặt trái của nó. Sự tác động tiêu cực của
cơ chế thị trờng trong quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng đối
với sinh viên Hà Nội nói riêng và sinh viên cả nớc nói chung là:
Thứ nhất: Trong cơ chế thị trờng, do đề cao lợi ích cá nhân đã làm
cho nhiều ngời và cả sinh viên hiện nay nẩy sinh t tởng và lối sống thực
dụng, sống vì tiền. Vì tiền và đề cao nhu cầu vật chất quá mức nên có ng ời
đã bất chấp mọi giá trị đạo đức, văn hóa, kỷ cơng, nhằm đạt đợc lợi ích cá

nhân.
Thứ hai: Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, bên cạnh những mặt tích
cực và tiến bộ đã xuất hiện một số biểu hiện không lành mạnh nh mê tín dị
đoan phát triển, thị hiếu bắt chớc không lành mạnh, các tệ nạn xã hội phát
triển; cũng nh một số hoạt động về đời sống tâm linh, tôn giáo đợc đề cao
quá mức ở một bộ phận nhân dân.
Những hiện tợng tiêu cực đó đã ảnh hởng không nhỏ đến đời sống
tinh thần của nhân dân ta và nó sẽ gây trở ngại đối với việc giáo dục thế
giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên và sinh viên Hà Nội nói riêng.


×