Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

ý nghĩa rút ra từ mối liên hệ phổ và nguyên lý về sự phát triển.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.47 KB, 11 trang )

Lời nói đầu
Phép biện chứng ra đời ngay từ khi triết học ra đời. Kế thừa có chọn
lọc những thành tựu của những nhà triết học trước đó, dựa trên khai quát
những thành tựu mới nhất của khoa học thời ấy và thực tiễn lịch sử loài
người cũng như thực tiễn xã hội vào giữa thế kỷ XIX, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng
duy vật về sau được V.I. Lênin phát triển. Thế giới quan duy vật biện chứng
và pháp luận biện chứng duy vật thống nấht hữu cơ với nhau trong phép
biện chứng ấy. Nó đã khái quát đúng đắn những quy luật cơ bản chung nhất
của sự vận động và phát triển của thế giới.
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống
những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản
ánh đúng đắn hiện thực.
Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về
sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Vì thế Ph.Ăngghen đã định
nghĩa: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật
phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài
người và của tư duy”.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển hai
nguyên lý được đúc kết một cách khoa học, có tác dụng giúp con người
nhận thức bản chất “Mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong mối liên hệ trong
quá trình vận động và phát triển” làm cơ sở để xác định phương hướng
đúng đắn trong hoạt động thực tiễn, mở đường đi tới tương lai. Và hai
ngun lý này ln đóng vai trị quan trọng trong công cuộc đổi mới của đất
nước ta.

1


A. Nội dung nghiên cứu.
I. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.


1. Khái niệm và nội dung về mối liên hệ phổ biến.
a. Khái niệm:
Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động
qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các
mặt của sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
b. Nội dung.
- Các sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của
mình thơng qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau.
- Bản chất, tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông
qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác động
của chúng với sự vật, hiện tượng khác.
2. Các tính chất của mối liên hệ.
- Tính khách quan: Mọi mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng là
khách quan vốn có của mọi sự vật, hiện tương.
- Tính phổ biến:
+ Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng
khác. Khơng có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
+ Mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt cụ thể tuỳ theo
điều kiện nhất định, nhưng chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ
biến nhất, chung nhất.
- Tính đa dạng, phong phú: Trong một sự vật, hiện tượng có thể bao
gồm rất nhiều mối liên hệ chứ khong phải một cặp mối quan hệ xác định.
II. Nguyên lý về sự phát triển.
1. Khái niệm và nội dung của nguyên lý về sự phát triển.
a. Khái niệm:

2


Sự phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình tiến lên từ

thấp đến cao từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn của sự vật.
b. Nội dung:
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều không ngừng biến đổi và
chuyển hoá lẫn nhau, cái mới kế tiếp cái cũ, giai đoạn sau kế thừa giai đoạn
trước tạo thành quá trình phát triển tiến lên mãi mãi, phát triển là khuynh
hướng chung thống trị thế giới.
2. Các tính chất của sự phát triển.
- Tính khách quan: Sự phát triển là tiến trình khách quan, khơng phụ
thuộc vào ý muốn, nguyện vọng, ý chí, ý thức của con người.
- Tính phổ biến: Sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực: Tự nhiên, xã hội
và tư duy, ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan.
- Tính đa dạng, phonh phú: Mỗi sự vật, hiện tượng lại có q trình phát
triển khơng giống nhau.
III. ý nghĩa rút ra từ mối liên hệ phổ và nguyên lý về sự phát triển.
- Khi nhận thức về sự vật, hiện tượng, phải đặt nó trong mối quan hệ
qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố giữa các mặt của chính sự vật và
sự tác động qua lại của sự vật đó với các sự vật khác, để từ đó hiểu được
bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu
quả cao nhất trong hoạt động của bản thân.
- Khi xem xét sự vật hiện tượng, hiện tượng phải đặt chúng trong sự
vận động, sự phát triển, đặt ra được xu hướng biến đổi chuyển hoá của
chúng, nắm bắt được sự vật đang tồn tại phải thấy được khuynh hướng phát
triển trong tương lai phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như bước
phát triển thụt lùi, sẽ khắc phục tư tưởng bảo thủ trì trệ, định kiến trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta.

3



B. Công cuộc đổi mới dựa trên nguyên lý về mối quan hệ phổ biến
và nguyên lý về phát triển của phép biện chứng.
Muốn nắm bắt và nhận thức một cách đầy đủ, tồn diện về cơng cuộc
đổi mới của Đảng và Nhà nước, chúng ta cần phải nhìn lại thực trạng đất
nước trước những năm đổi mới.
1. Thực trạng đất nước trước 10 năm đổi mới.
a. Giai đoạn 1976 – 1981.
Với chiến thắng lịch sử năm 1975, Miền nam hồn tồn giải phóng đất
nước với thống nhất, cả nước hồn bình, xây dựng, phát triển đất nước theo
định hướng XHCN. Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng phấn
khởi bắt tay vào hàn gắn viết thương chiến tranh khôi phục và phát triển
kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật với kế hoạch 5 năm (1976 – 1981).
Những năm khi đó do tư duy lạc hậu giữa lý luận và thực tiễn có một
khoảng cách khá xa nên kế hoạch phát triển giai đoạn này vẫn đặt trên
đường ray của kế hoạch phát triển giai đoạn này vẫn đặt trên đường ray của
kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp, gắn liền chủ trương phát triển
mạnh kinh tế quốc doanh, tập thể hố nơng nghiệp tương đối hồn chỉnh,
trong đó cơng nghiệp nặng ưu tiên phát triển.
Với ý chí quyết tâm và nỗ lực lớn lao, nhân dân Việt Nam đã khắc
phục được những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh vừa qua, khôi phục
cơ sở công nghiêp, nông nghiệp giao thông vận tải, phục hồi sản xuất, phát
triển kinh tế nhất là vùng mới giải phóng.
Tuy nhiên nền kinh tế đất nước phát triển không như mong muốn, sản
xuất tăng trưởng chậm, thậm chí nhiều mặt cịn sụt kém, kế hoạch k inhh tế
1976-1981 đã được thực hiện nhưng với kết quả thấp: thu nhập quốc dân
tăng 4%/ năm (kế hoạch 13-14%/ năm) sane lương công nghiệp tăng 0,6%/
năm( kế hoạch 16-18%/ năm), lương thực thiếu nghiêm trọng, bình quân
đầu người giảm từ 274,4 kg(1976) xuống còn 2633,2kg (1980), lạm phát
tăngm, chỉ số giá tiêu dùng từ 1976 liên tục tăng ở mức hai con số, 1980 là
4



25,2% hàng hoá tiêu dùng thiếu nghiêm trọng, đời sống nhân dân khó khăn
lại thêm khó khăn, niềm tin của nhân vào sự lãnh đạo của đảng và nhà nước
bị giảm sút, đất nước thực sự lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng.
b. Giai đoạn 1981-1986.
Đứng trước tình hình thực trạng khó khăn như vậy.Đảng và Nhà nước
đã điều chỉnh những chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, từng bước
đổi mới tư duy kinh tế, tạo điều kiện cho qua trình hình thành đương lối đổi
mới nghị quyết hội nghị lần VI của ban chấp hành Tw Đảng khoá VI năm
1979 về “ tình hình nhiệm vụ cấp bách” đã đánh dấu bước khởi đầu đổi mới
chính sánh và cơ chế quản lý kinh tế.
Trong nông nghiệp chỉ thị 100 của bí thư Tw Đảng ra đời với nội dung
khốn sản phẩm đến người lao động được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng.
Nó có tác dụng chặn đứng sự sa sút trong nông nghiệp và mở đầu cho vịêc
đổi mới cơ chế quản lý trong những năm sau, tạo đà cho sự phát triển nông
nghiệp trong những năm 1981-1986.
Trong nông nghiệp đã bắt đầu tìm kiếm những giải pháp trao quyền tự
chủ cho doanh nghiệp nhà nước. Đại hội đảng tồn quốc lần thứ V bước đầu
đã có cách nhìn mới trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, thừa
nhận miền bắc tồn tại ba thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và cá thể,
miền nam tồn tại năm thành phần: Quốc doanh, tập thể, công tư hợp
doanhTB tư nhân và cá thể.
Những chính sách, giải pháp trên đã kích thích sản xuất. Trong giai
đoạn này, các chỉ tiêu kinh tế đạt khả quan hơn, thu nhập quốc dân tăng
6,5% sản xuất công nghiệp cũng tăng 9,5%, sản xuất nông nghiệp tăng
4,9%. Tuy nhiên nền kinh tế vẫn mất cân đối bội chi ngân sách 1985 lên tới
36,6% so với tổng thu, cuộc điều chỉnh vẫn trong khuôn khổ cơ chế cũ,
đưa tới hậu quả nặng nề, lạm phát phi mã 77,4%( 1986) lưu thông phân
phối rối loạn. Đời sống nhân dân lại khó khăn chồng chất, lịng tin của


5


nhân dân một lần nữa bị giảm sút. Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế
xã hội trầm trọng.
2. Quá trình đổi mới kinh tế:
Đại hội VI của đảng (1986) quyết định tiến hành cơng cuộc đổi mới
tồn diện đất nước, mà trọng tâm là đổi mới kinh tế. Mục tiêu bao trùm của
cơng cuộc là “ ổn định tình hình kinh tế xã hộibảo đảm những nhu cầu thiết
yếu cho nhân dân, xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh
cơng nghiệp hố hiện đại hố XHCN trong chặng đường tiếp theo”, từng
bứơc đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng và đi lên, củng cố vững chắc quốc
phòng và an ninh. Việc lấy kinh tế làm trọng tâm của cuộc đổi mới và cải
cách kinh tế phải đi trước một bước là tư tưởng chỉ đạo rất đúng đắn của
đảng ta.
Trên cơ sở rút ra những bài học từ thực tiễn của các nước XHCN lúc
đó quy luật phổ biến và xu thế vận động phát triển của thời đại, tạo điều
kiện cho đảng ta chọn lựa định hướng phát triển của đất nước một cách
thích hợp.
a. Đổi mới quan hệ sản xuất.
Từ chỗ trước đây chỉ lượng vào phát triển kinh tế quốc doanh, tập thể
chuyển sang thực hiện tập quán lâu dài chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng XHCN. Phát triển kinh tế nhiều thành phần là
quy luật khách quan phổ biến trong nền kinh tế xã hội, đó cũng là sự lựa
chọn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và thực trạng cũng như xu
hướng kinh tế của nước ta.
Đây là một tư duy rất quan trọng của đảng và nhf nước ta, xuất phát
trước hết từ sự nhận thức rõ hơn thực trạng thấp kém, phân tán nhiều cấp độ
của lực lượng sản xuất nước ta. Do đó cần phải có một hệ thống các quan hệ

sản xuất phù hợp nhằm sử dụng tốt tiềm năng mạnh của mọi thành phần
kinh tế, sử dụng hiệu quả nguồn vốn lao động, đất đai và tài nguyên khác,
điều này có ý nghĩa lớn lao khơng chỉ với kinh tế mà còn là cơ sở cho sự ổn
6


định xã hội, phát triển tính dân chủ khởi dậy tính sáng tạo của mỗi con
người lao động cũng như toàn xã hội.
Với định hướng như vậy, Nhà nước đã từng bước xây dựng một hệ
thống chính sách, thể chế nhằm sử dụng và hướng dẫn đúng đắn các thành
phần kinh tế, kinh tế quốc doanh không ngành được củng cố tăng cường để
đóng vai trị chủ đạo trong đó doanh nghiệp Nhà nước được sắp xếp lại đổi
mới tổ chức quản lý và công nghệ để nâng cao hiệu quả. Kinh tế hợp tác
được phát triển theo quan điểm mới, khơng đồng nhất hợp tác hố với tập
thể hố tư liệu sản xuất. Kinh tế cá thể tư bản tư nhân đặc biệt kinh tế tư bản
Nhà nước được khuyến khích phát triển khơng hạn chế quy mơ địa bàn hoạt
động trong các lĩnh vực mà pháp luật cho phép.
b. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Nội dung cơ bản của đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là xoá bỏ cơ chế
quản lý tập trung quan liê bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Cơ chế mới gắn sản xuất với thị trường thơng qua
giá cả hình thành theo quan hệ cung cầu đi đôi với thực hiện chế độ tự chủ
kinh doanh của các chủ thể kinh tế trong mơi trường cạnh tranh bình đẳng.
Nhà nước quản lý kinh tế thơng qua hệ thống thê chế tín dụng công tác kế
hoạch được đổi mới theo hướng dẫn là chính, phân biệt quản lý Nhà nước
với quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, việc đổi mới cơ chế quản lý cũng
chính là con đường chủ yếu để nâng cao hiệu quả của mỗi đơn vị sản xuất
kinh doanh cũng như toàn bộ nền kinh tế.
c. Xây dựng nền kinh tế mở, hình thành thị trường thơng suốt trong cả
nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới.

Đây là xu thế khách quan của nền kinh tế thế giới, nó tạo điều kiện cho
nền kinh tế nước ta có thể kết hợp sức mạnh dân tộc dân tộc với sức mạnh
thời đại. Với quan niệm xây dựng một nền kinh tế mở, khắc phục tính khép
kín của nền kinh tế mở. Đại hội VI của Đảng đã chủ trương bố trí lại cơ cấu
sản xuất, điều chỉnh đầu tư, nhằm từng bước hình thành cơ cấu kinh tế hợp
7


lý, cả về ngành và cùng. Từ chỗ chú trọng đầu tư vào công nghiệp nặng,
Đại hội VI quyết định chuyển sang tập trung vào ba mục tiêu lớn: Phát triển
sản xuất lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Trong điều
kiện nền sản xuất nhỏ phổ biến phải ra sức phát triển nông nghiệp đi đôi với
phát triển công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp nhằm sử dụng tối đa lao
động dư thừa, khai thác tài nguyên tại chỗ, sản xuất gần thị trường, đa dạng
hoá các hoạt động kinh tế dịch vụ và sản xuất đời sống. Trong cơ cấu phát
triển phải đảm bảo tính đồng bộ chú trọng đầu tư chiều sâu hoàn thành
nhanh để sớm mang lại kinh tế xã hội.
Tuy nhiên trên thực tế, từ năm 1986 – 1988 lạm phát vẫn ở mức ba con
số năm 1988 nạn đói xảy ra nhiều nơi, sản xuất đình đốn thua lỗ, nhiều xí
nghiệp nhà máy phải đóng cửa, số người thất nghiệp ngày càng nhiều, đời
sống nhân dân vẫn khó khăn, vất vả. Xảy ra tình trạng như vậy là do cơ chế
quản lý cũ vẫn chưa được xoá bỏ một cách triệt dể thống nhất, cơ chế thị
trường vẫn còn nhiều mới mẻ, xa lạ, chưa được chấp nhận, đồng thời diễn
biến quốc tế phức tạp, đi liền với sự giảm lớn viện trợ bên ngoài và thu hẹp
thị trường truyền thống … đã tác động xấu đến tình hình đất nước.
* Vận dụng 2 nguyên lý này vào quá trình xây dựng nền kinh tế
thị trường.
Tình hình thế giới cịn có nhiều diễn biến phức tạp nhưng hồ bình và
hợp tác để phát triển là xu thế chủ đạo, là đòi hỏi bức xúc của dân tộc và các
quốc gia. Các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đạt được những bước

tiến vượt bậc đặc biệt là trong các lĩnh vực tin học viễn thông, vật liệu mới
và năng lượng mới đang đẩy mạnh q trình quốc tế hố cao độ các lực
lượng sản xuất dẫn đến sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc.
Như vậy có nghĩa là ngày nay không một nền kinh tế nào có thể đứng ra
khởi cộng đồng quốc tế. Tình hình đó địi hỏi một sự hợp tác ngày càng
rộng, tạo nên thế tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước dù lớn hay nhỏ, dù phát
triển hay đang phát triển. Trong lịch sử phát triển của xã hội có lẽ chưa bao
8


giờ có một sự hợp tác để phát triển rộng rãi, đan xen lồng ghép và nhiều
tầng cấp như hiện nay với sự hình thành nhiều tổ chức ASEAN, WTO …
đối với khu vực, Việt Nam nằm trong khu vực Đơng Nam á, Châu á thái
bình dương, một khu vực được coi là có nền kinh tế năng động và có tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới trong những năm gần đây. Hầu như
các nước trong khu vực như: Thái Lan, Singapo, Inđônêxia đều đã được
tiến hành nền kinh tế thị trường được mấy thập kỷ, và một số nước đã trở
thành nước công nghiệp mới.
Như vậy thế giới và khu vực đã phát triển khá xa vượt khá xa về mọi
mặt đặc biệt là về kinh tế, vì đã đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức trong
quá trình phấn đấu xây dựng và cải tiến kinh tế thị trường.
Trước xu thế chủ đạo của thế giới là hợp tác để phát triển, Việt Nam đã
bước đầu hội nhập được với nền kinh tế bằng việc gia nhập các tổ chức kinh
tế ở khu vực cũng như trên thế giới, đầu tiên là gia nhập liên hiệp các nước
Đông Nam á (ASEAN) vào năm 1995. Đây là một dấu mốc quan trọng
trong quá trình hội nhập kinh tế Việt Nam. Tham gia vào ASEAN ta sẽ có
nhiều thuận lợi trong việc mở rộng các quan hệ kinh tế, xử lý các vấn đề
phức tạp trong quan hệ đa phương và song phương giữa các nước láng
giềng trong khu vực và trên thế giới.
Chúng ta đã gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á thái bình dương

APEC và tiếp theo chúng ta sẽ gia nhập khu vực mậu dịch tự do
ASEANFTA, tổ chức thương mại thế giới WTO … chính nhờ sự hợp tác
hội nhập, hàng hố Việt Nam đã có thêm cơ hội xuất khẩu.
Hiện nay hàng hố Việt Nam đã có mặt trên 120 nước trên thế giới với
số lượng và chất lượng cao.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường trên thế giới với sự cạnh tranh
khốc liệt, gây ra sự phân cực giàu nghèo mạnh mẽ với nhiều cuộc khủng
hoảng kinh tế nghiêm trọng, Đảng ta hướng cho nền kinh tế phát triển đúng
hướng, đưa thị trường hàng hoá vào sự cạnh tranh lành mạnh cùng giàu có.
9


Chính vì thế nền kinh tế thị trường của ta chẳng những khơng xảy ra khủng
hoảng mà cịn tránh những tiêu cực từ khủng hoảng kinh tế ở các nước
trong khu vực trên thế giới mà cụ thể là cuộc khủng hoảng tiền tệ vào năm
1997.
Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta so với khu vực và thế giới vẫn là một
nền kinh tế chậm phát triển. Ngoài ra bên cạnh những thành tựu đạt được
xuất hiện những cách sống và lối sống xa lạ khác với các chuẩn mực của xã
hội bất chấp những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Một bộ phận trong các
tầng lớp thành phần xã hội khi mưu cầu lợi ích cá nhân đã chà đạp lên
những khn mẫu, những giá trị đích thực chính những hậu quả của những
hành động này sẽ là yếu tố tác động trực tiếp đến nền kinh tế thị trường và
đời sống của con người. Trải qua các giai đoạn kinh tế thị trường ngày càng
được hoàn thiện và được áp dụng trên nhiều quốc gia.
Nền kinh tế thị trưởng ở Việt Nam mặc dù đã ra đời cách đây hơn một
thập kỷ, nhưng đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, không ngừng vận
động và luôn biến đổi dưới sự tác động của nhiều yếu tố cả bên ngoài lẫn
bên trong của nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy mà việc vận dụng ngun
lý về mối quan hệ phổ biến và nguyên lý về phát triển của phép biện chứng

duy vật và quá trình xây dựng nền kinh tế thị trương là một việc cần thiết
trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Trong giai
đoạn hiện nay, chúng ta đang từng bước xây dựng cơ sở vật chất để đẩy
mạnh quá trình phát triển nền kinh tế thị trường nhanh chóng đưa đất nước
thành nước công nghiệp phát triển.
* Giải pháp xây dựng nền kinh tế đó là:
- Đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
- Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nước.
- Tiếp tục cân đối lại cơ cấu giữa các thành phần kinh tế và các ngành.

1
0


+ Về thành phần kinh tế: Đẩy mạnh phát triển các thành phần kinh tế
tư bản tư nhân, tư bản phát triển nhưng vẫn bảo đảm vai trò chủ đạo của các
thành phần kinh tế.
+ Về cơ cấu ngành: Đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu hướng
tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp.
- Chú trọng việc phát triển giữa các vùng hợp lý hơn.
- Tăng cường hội nhập hợp tác các nền kinh tế trong khu vực và thế giới.
- Giữ vững vai trò quản lý và điều tiết của Nhà nước trong việc phát
triển của nền tk thị trường, lấy công bằng xã hội làm mục đích tăng trưởng
kinh tế.
- Bảo đảm nguồn nhân lực thông qua hệ thống giáo dục và đào tạo, bảo
đảm y tế nâng cao trình độ văn hoá cho người lao động.
- Giữ vững an ninh, trật tự xã hội, củng cố sự nghiệp quốc phòng nhằm
ngăn chặn mọi thế lực phản động trong nước và nước ngoài.

1

1



×