Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam hiện trạng và tương lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.75 KB, 31 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU..........................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ.....................................................................................................2
1.1. Khái niệm và các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế....................2
1.1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế.............................................2
1.1.2. Các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế........................................2
1.2. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam.................7
1.3. Thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế................................................................................9
CHƯƠNG 2: NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT
RA TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ HIỆN NAY...........10
2.1. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam......................10
2.2. Một số thành tựu và vấn đề đặt ra trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế................................................................................................14
2.2.1. Thành tựu đạt được...................................................................14
2.2.2. Một số vấn đề đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và
nguyên nhân........................................................................................16
CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG TƯƠNG LAI VÀ GIẢI
PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỘI NHẬP QUỐC TẾ........20
3.1. Định hướng hội nhập quốc tế trong tương lai.............................20
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc
tế..............................................................................................................24

i


3.2.1. Hoàn thiện, bổ sung đường lối chung và đường lối, thể chế kinh
tế..........................................................................................................24
3.2.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế vĩ mơ.....25


3.2.3. Cùng với chính sách khuyến khích, cần xây dựng hệ thống tổ
chức, bộ máy và nhân lực trình độ cao................................................26
3.2.4. Chính phủ, các bộ, ngành và các địa phương đẩy mạnh quan hệ
kinh tế đối ngoại..................................................................................26
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................29

ii


PHẦN I: MỞ ĐẦU
Cục diện kinh tế thế giới hiện nay đang làm thay đổi nền tảng của kinh tế
thế giới. Một số quốc gia trước kia vốn đi đầu trong việc ủng hộ tự do hóa
thương mại nay lại trở thành yếu tố ảnh hưởng tới sự ổn định của hệ thống
thương mại đa phương nói riêng và của cả q trình tồn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế trên tồn thế giới nói chung. Đáng lưu ý là xung đột thương
mại giữa Mỹ với một số đối tác, đặc biệt với Trung Quốc vẫn tiếp tục có
những diễn biến khó lường. Những sự kiện, diễn biến trên đang có ảnh hưởng
lớn đến tình hình kinh tế, chính trị thế giới và động thái chính sách của các
nước, trong đó có Việt Nam. Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế
sâu rộng và toàn diện, đặt ra những yêu cầu hoàn toàn mới đối với các cơ
quan, địa phương và doanh nghiệp. Do đó, vấn đề cần thiết là nhận thức đầy
đủ hơn những điểm mới của hội nhập kinh tế quốc tế, xác định các giải pháp
để tham gia, đóng góp đối với tiến trình này, nhằm nâng cao hiệu quả hội
nhập kinh tế quốc tế và hạn chế thách thức, thiết thực phục vụ đổi mới đồng
bộ và toàn diện, phát triển bền vững. Bài viết này phân tích những thành tựu,
hạn chế trong hội nhập kinh tế quốc của Việt Nam trong bối cảnh cục diện
kinh tế thế giới mới; nêu giải pháp nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc
tế.
Do đó, sau một thời gian tìm hiểu, tơi đã lựa chọn đề tài” Hội nhập

kinh tế quốc tế của Việt Nam Hiện trạng và tương lai” làm đề tài của
mình.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm và các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập quốc tế là giai đoạn phát triển cao của hợp tác quốc tế, là quá
trình áp dụng và tham gia xây dựng các quy tắc và luật lệ chung của cộng
đồng quốc tế, phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam. Hơn nữa
hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn kết nền kinh tế của các quốc gia vào
các tổ chức kinh tế khu vực và tồn cầu, trong đó các nước thành viên chịu sự
ràng buộc theo những quy định chung của cả khối.
1.1.2. Các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế
Hợp tác kinh tế song phương
Loại hình đầu tiên cần nhắc tới khi nền kinh tế một quốc gia hội nhập
cùng các nền kinh tế quốc gia khác là hợp tác kinh tế song phương. Hợp tác
kinh tế song phương có thể tồn tại dưới dạng một thoả thuận, một hiệp định
kinh tế, thương mại, đầu tư hay hiệp định tránh đánh thuế hai lần, các thoả
thuận thương mại tự do (FTAs) song phương...
Loại hình hội nhập này thường hình thành rất sớm từ khi mỗi quốc gia
có chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế.
Tại Việt Nam, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) được coi là
cột mốc quan trọng đánh dấu sự thay đổi trong quá trình phát triển kinh tế đất
nước. Đại hội được ví là “Đại hội của sự đổi mới”. Đại hội nhấn mạnh đến
việc mở rộng giao lưu quốc tế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm phát

triển kinh tế đất nước. Sau Đại hội, hàng chục hiệp định thương mại, đầu tư
song phương đã được kí kết giữa Việt Nam và các nước khác trên thế giới. Ví
dụ: Hiệp định về Thúc đẩy và bảo hộ đầu tư lẫn nhau giữa Việt Nam và
Australia ngày 05/3/1991; Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội
2


chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Thái Lan về Khuyến khích và
Bảo hộ đầu tư lẫn nhau ngày 30/10/1991; Hiệp định giữa Chính phủ nước
Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hồ Liên bang
Nga về Khuyến khích và bảo hộ đầu tư ngày 16/6/1994; Hiệp định Thương
mại giữa Chính phủ nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ
nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ngày 07/11/1991; Hiệp định giữa Chính
phủ nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hồ
nhân dân Trung Hoa về Khuyến khích và bảo hộ đầu tư ngày 02/12/1992.
Tính đến ngày 30/12/2018, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 185
nước (so với 11 nước năm 1954); có 16 đối tác chiến lược, 14 đối tác tồn
diện. Việt Nam đã kí kết được trên 90 hiệp định thương mại song phương;
gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư; 75 hiệp định tránh đánh thuế
hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế thu nhập với các nước/vùng lãnh thổ
trên thế giới. Có thể kể đến một số hiệp định kinh tế song phương của Việt
Nam với các đối tác quan trọng như: Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ (2000), Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA - 2008) Đây là FTA song phương đầu tiên của Việt Nam (được kí kết ngày
25/12/2018, có hiệu lực ngày 01/10/2009), Hiệp định Thương mại tự do song
phương Việt Nam - Hàn Quốc (2015)...
Hội nhập kinh tế khu vực
Xu hướng khu vực hóa xuất hiện từ khoảng những năm 50 của thế kỉ
XX và phát triển cho đến ngày nay. Sự phân loại và khái niệm về các loại
hình hội nhập kinh tế khu vực có sự thay đổi theo sự phát triển của nền kinh
tế thế giới. Theo kinh nghiệm hội nhập kinh tế khu vực của Tây Âu, các học

giả phân loại hội nhập kinh tế khu vực thành các cấp độ từ thấp đến cao: Khu
vực Mậu dịch tự do (FTA), Liên minh Hải quan (CU), Thị trường chung
(CM), Liên minh Kinh tế và tiền tệ (EMU).
a) Khu mậu dịch tự do (FTA - theo quan niệm truyền thống)
3


Khu vực mậu dịch tự do là liên kết kinh tế giữa hai hoặc nhiều nước
nhằm mục đích tự do hóa bn bán một số mặt hàng nào đó, từ đó thành lập
thị trường thống nhất giữa các nước, nhưng mỗi nước thành viên vẫn thi hành
chính sách thuế quan độc lập với các nước ngoài khu vực mậu dịch tự do.
Với cách hiểu trên, yếu tố tự do di chuyển trong các FTA theo quan
niệm truyền thống chỉ là hàng hóa, mỗi nước thành viên trong quan hệ đối
ngoại với các nước ngồi FTA vẫn thi hành chính sách thuế quan độc lập. Với
lý do này, các học giả cho rằng đây là cấp độ thấp nhất của hội nhập kinh tế
khu vực.
Ví dụ: Trong Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) 1993 - 2015
(từ 31/12/2015 chuyển thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN), thuế quan giữa
các nước thành viên chỉ là 0 - 5%. Tuy nhiên, mỗi thành viên của Khu vực
Mậu dịch tự dọ ASEAN (AFTA) lại có chính sách thuế quan riêng đối với các
nước ngồi khu vực, như: Mức thuế suất nhập khẩu trung bình của Việt Nam
(mức thuế MFN) với các thành viên WTO là 13,4%, trong khi Singapore có
mức thuế 0% cho hàng hóa nhập khẩu từ Hoa Kỳ.
Cách hiểu theo quan niệm truyền thống trên về FTA hiện khơng cịn
phù hợp. Đặc biệt từ những năm 90 của thế kỉ XX đến nay đã xuất hiện trào
lưu FTA thế hệ mới, theo đó, khái niệm FTA khơng chỉ tạo ra sự tự do dịch
chuyển hàng hóa, mà cịn bao hàm sự tự do dịch chuyển của nhiều yếu tố
khác như: dịch vụ, vốn, lao động... (nội dung về các FTA thế hệ mới sẽ được
nghiên cứu sâu hơn ở phần Ĩ.2.2.2).
Ví dụ: Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) được đánh giá là

một hiệp định thương mại toàn diện và tiên tiến ở thời điểm ra đời. Đây là mơ
hình FTA hiện đại vượt ra khỏi khái niệm FTA truyền thống với sự tự do dịch
chuyển của hàng hóa, dịch vụ, sức lao động và đầu tư.

4


Theo quan điểm của Walter Goode đưa ra trong Từ điển Chính sách
thương mại quốc tế thì FTA được hiểu là “Một nhóm gồm hai hay nhiều nước
cùng xóa bỏ thuế quan và tất cả hoặc phần lớn các biện pháp phi thuế quan
ảnh hưởng đến thương mại giữa các nước này. Các nước tham gia FTA có thể
tiếp tục áp dụng thuế quan của nước mình đối với hàng hóa bên ngồi, hoặc
nhất trí xây dựng một biểu thuế quan đối ngoại chung”. Khái niệm FTA này
giống với khái niệm Liên minh hải quan (CU) ở điểm cho phép thiết lập một
biểu thuế quan đối ngoại chung.
b) Liên minh hải quan (Customs Union - CU)
Liên minh hải quan là liên kết kinh tế trong đó các nước thành viên
thỏa thuận loại bỏ thuế quan trong quan hệ thương mại nội bộ, đồng thời thiết
lập một biểu thuế quan chung của các nước thành viên đối với phần còn lại
của thế giới.
Theo Từ điển Chính sách thương mại quốc tế của Walter Goode: “Liên
minh hải quan là một khu vực gồm có hai hay nhiều nền kinh tế hoặc lãnh thổ
hải quan riêng biệt, có quy định loại bỏ mọi loại thuế và đôi khi cả những rào
càn đối với việc mở rộng thương mại giữa chúng. Các thành viên lập nên khu
vực sau đó sẽ áp dụng một loại thuế đối ngoại chung”.
Như vậy, có thể nhận thấy, cu là hình thức liên kết có tính thống nhất,
tổ chức cao hơn so với FTA. Cả hai loại hình hội nhập kinh tế khu vực này
đều là sự thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều quốc gia, theo đó các quốc gia thỏa
thuận với nhau về loại bỏ thuế quan và các hàng rào phi thuế quan khác đối
với toàn bộ hoặc một phần hoạt động mậu dịch của họ. Nhưng, trong chính

sách thuế quan với các nước ngồi khối thì FTA và CU có sự khác biệt. Nếu
như trong FTA: Các nước thực hiện chính sách thuế quan độc lập trong quan
hệ với các nước ngồi FTA; Thì đối với CU: Các nước thành viên có biểu
thuế quan chung với các nước ngoài cu.
5


Sự ưu đãi nội bộ đã tạo ra sự phân biệt đối xử đối với các nước ngoài
FTA và cu. Tuy nhiên, sự phân biệt đối xử này được chấp nhận như một
ngoại lệ của nguyên tắc không phân biệt đối xử - Điều XXIV GATT. Theo
Điều XXIV GATT, khi các nước thành viên trong khu vực thành lập FTA
hoặc cu, các liên kết kinh tế này sẽ có quy chế đặc biệt, theo đó các thành viên
của liên kết kinh tế khu vực sẽ áp dụng cho nhau chế độ thương mại nội bộ ở
mức ưu đãi hơn so với các nước ngoài liên kết kinh tế. Ngoại lệ này cũng
dành cho cả trường hợp quan hệ thương mại biên giới.
Ví dụ về một số cu trên thế giới: Liên minh hải quan Nam Phi
(Southern African Customs Union - SACU); Cộng đồng Kinh tế châu Âu
(European Economic Community - EEC) thành lập năm 1957 - Từ năm 1968
đến trước những năm 80 của thế kỉ XX, EEC là một liên minh hải quan với
chính sách thuế quan đối ngoại chung.
c) Thị trường chung (Common Market - CM)
Thị trường chung là liên kết kinh tế được đánh giá có mức độ hội nhập
cao hơn so với cu. Theo đó, ở mức độ liên kết này, các nước thành viên ngoài
việc cho phép tự do di chuyển hàng hóa, cịn thoả thuận cho phép tự do di
chuyển tư bản và sức lao động giữa các nước thành viên với nhau.
d) Liên minh kinh tế và tiền tệ (Economic and Monetary Union - EMU)
Các quốc gia tham gia liên kết kinh tế khu vực, muốn đạt đến cấp độ
liên minh kinh tế và tiền tệ, cần có hai giai đoạn phát triển là Liên minh kinh
tế (Economic Union) và Liên minh tiền tệ (Monetary Union).
- Liên minh kinh tế

Liên minh kinh tế tiếp tục được đánh giá là cấp độ liên kết cao hơn thị
trường chung, thể hiện ở việc: Ngoài yếu tố tự do di chuyển là hàng hóa, tư
bản, sức lao động còn mở rộng thêm yếu tố tự do dịch chuyển cho dịch vụ
giữa các nước thành viên. Bên cạnh đó, các nước thành viên cùng nhau thiết
6


lập một bộ máy tổ chức điều hành sự phối hợp kinh tế giữa các nước (thay thế
một phần chức năng quản lý kinh tế của chính phủ từng nước) nhằm tạo ra
một không gian kinh tế thống nhất, cơ cấu kinh tế tối ưu, xóa bỏ dần sự chênh
lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các nước thành viên.
- Liên minh tiền tệ
Liên minh tiền tệ là liên kết kinh tế trong đó các nước thành viên phải
phối hợp chính sách tiền tệ với nhau, cùng thực hiện một chính sách tiền tệ
thống nhất và cuối cùng là sử dụng chung một đồng tiền.
Liên minh tiền tệ là hình thức rất khó thực hiện trong các liên kết kinh
tế, nó có những đặc trưng riêng có sau: Hình thành đồng tiền chung thống
nhất thay thế cho các đồng tiền riêng của các nước thành viên; Thống nhất
chính sách lưu thông tiền tệ; xây dựng hệ thống ngân hàng chung thay cho
các ngân hàng Trung ương của các nước thành viên; Xây dựng chính sách tài
chính, tiền tệ, tín dụng chung đối với các nước đồng minh và các tổ chức tiền
tệ quốc tế.
1.2. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam
Trong thời đại ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là
một trong những vấn đề thời sự đối với hầu hết các nước. Nước nào đóng cửa
với thế giới là đi ngược xu thế chung của thời đại, khó tránh khỏi rơi vào lạc
hậu. Trái lại, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế tuy có phải trả giá nhất định
song đó là yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển của mỗi nước. Bởi với những
tiến độ trên lĩnh vực khoa học công nghệ, đặc biệt là cơng nghệ truyền thơng
và tin học, thì giữa các quốc gia ngày càng có mối liên kết chặt chẽ, nhất là

trên lĩnh vực kinh tế. Xu hướng tồn cầu hóa được thể hiện rõ ở sự phát triển
vượt bậc của nền kinh tế thế giới.
Là một nước nghèo trên thế giới, sau nhiều năm bị chiến tranh tàn phá,
Việt Nam bắt đầu thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang
7


cơ chế thị trường, từ một nền kinh tế tự túc nghèo nàn bắt đầu mở cửa tiếp
xúc với nền kinh tế thị trường rộng lớn đầy rẫy những sức ép, khó khăn.
Nhưng khơng vì thế mà chúng ta bỏ cuộc, đứng trước xu thế phát triển tất
yếu, nhận thức được những cơ hôin và thách thức mà hội nhập đem lại, Việt
Nam, một bộ phận của cộng đồng quốc tế khơng thể khước từ hội nhập. Chỉ
có hội nhập Việt Nam mới khai thác hết những nội lực sẵn có của mình để tạo
ra những thuận lợi phát triển kinh tế.
Chính vì vậy mà đại hội Đảng VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam năm
1991 đã đề ra đường lối chiến lược: “ Thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại ”. Đến đại hội đảng VIII,
nghị quyết TW4 đã đề ra nhiệm vụ: “ Giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với
tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế mới, hội
nhập với khu vực và thế giới ”.
Hội nhập kinh tế đã giúp Việt Nam phát triển, giải quyết những vấn đề
nghiêm trọng và hơn cả là đạt được những thành tựu lớn:


Hội nhập kinh tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của Việt

Nam.


Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngồi,


viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế.


Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp thu

khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh.


Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì hịa bình ổn định, tạo dựng

môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí Việt Nam trên
trường quốc tế. Đây là thành tựu lớn nhất sau hơn một thập niên triển khai các
hoạt động hội nhập.


Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực

nước ta với các nước khác.
8


1.3. Thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế
Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ mang lại những lợi ích mà
cịn đặt nước ta trước nhiều thử thách. Nếu chúng ta khơng có biện pháp ứng
phó tốt thì sự thua thiệt về kinh tế và xã hội có thể rất lớn. Ngược lại, nếu
chúng ta có chiến lược thơng minh, chính sách khơn khéo thì sẽ hạn chế được
thua thiệt, giành được nhiều lợi ích hơn cho đất nước.
Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển, mặc dù có những

bước tiến quan trọng về tăng trưởng kinh tế nhưng chất lượng tăng trưởng;
hiệu quả sản xuất; sức cạnh tranh của các sản phẩm, các doanh nghiệp và của
nền kinh tế cịn thấp.
Tình trạng phổ biến hiện nay là sản xuất cịn mang tính tự phát, chưa
bám sát như cầu thị trường. Nhiều sản phẩm làm ra chất lượng thấp, giá thành
cao nên giá trị gia tăng thấp, khả năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn, thậm chí
có nhiều sản phẩm cung vượt q cầu dẫn đến số lượng hàng tồn kho lớn.
Năng lực cạnh tranh hàng hóa, dịch vụ nước ta nói chung cịn thấp do trang
thiết bị và công nghệ của nhiều doanh nghiệp còn yếu kém, lạc hậu so với mặt
bằng chung của thế giới từ 10 đến 30 năm. Bên cạnh đó cịn có vấn đề về
khâu quản lý cịn yếu kém, môi trường đầu tư kinh doanh và thủ tục hành
chính chưa thơng thống, chính phủ đầu tư q cao so với các nước trong khu
vực, hạn chế về cung cấp thông tin xúc tiến thương mại.
Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước chưa cao, tỉ lệ số
doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ lớn; tình trạng thiếu vốn, nợ nần kéo dài,
tổng số nợ phải thu của các doanh nghiệp chiếm 24% doanh thu, nợ phải trả
chiếm 133% tổng số vốn nhà nước đầu tư cho các doanh nghiệp. Nhiều doanh
nghiệp không xác định tự lực phấn đấu vươn lên mà còn dựa vào sự hỗ trợ,
bảo hộ của nhà nước, chưa tích cực chuẩn bị theo yêu cầu tiến trình hội nhập
khu vực và thế giới.
9


Điều đáng lo ngại hiện nay là mặc dù thời điểm hội nhập với khu vực
và thế giới đang đến gần, song tư tưởng địi bảo hộ, chưa tích cực chuẩn bị
còn phổ biến ở nhiều doanh nghiệp. Theo điều tra của phịng Thương Mại và
Cơng Nghiệp Việt Nam mới có 84% doanh nghiệp điều tra trả lời là có nhận
được tin về hội nhập, 16% doanh nghiệp còn lại chưa có hiểu biết về q trình
hội nhập. Trong các doanh nghiệp sản xuất hàng cơng nghiệp chỉ có 23,8%
doanh nghiệp có hàng hóa xuất khẩu, 13,7% doanh nghiệp có triển vọng xuất

khẩu và 62,5% doanh nghiệp hồn tồn khơng có khả năng xuất khẩu.
Nguồn nhân lực Việt Nam dồi dào nhưng tay nghề kém, lợi thế về lao
động rẻ đang có xu hướng mất dần.
CHƯƠNG 2: NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC VÀ VẤN ĐỀ
ĐẶT RA TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ HIỆN NAY
2.1. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Sau 35 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, đất nước ta đã từng bước hội
nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, mở rộng và làm sâu sắc hơn quan
hệ với các nước, tham gia tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn, tổ chức
quốc tế. Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước được
hiện thực hóa một cách sinh động:
Trước hết, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế với hàng loạt quốc gia
và khu vực, trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế, thương mại chủ
chốt, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng hiệu quả
hơn. Nối lại các quan hệ với các nước lớn: Trung Quốc, Hoa Kỳ, kết quả
Chính phủ Mỹ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt
Nam năm 1994, Tổng thống Mỹ tun bố chính thức bình thường hóa
quan hệ với Việt Nam năm 1995, tháng 7/2000, ký Hiệp định Thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ. Khai thông và phát triển quan hệ với Nhật Bản và năm

10


1992 Chính phủ Nhật nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam. Năm 1991, Chính
phủ
Australia bãi bỏ lệnh cấm vận buôn bán với Việt Nam. Năm 1992, Việt
Nam - Hàn Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ...
Về quan hệ hợp tác song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại
giao với hầu hết các nước trong tổ chức Liên hiệp quốc và có quan hệ kinh tế
- thương mại, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định

chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hóa song phương
với các nước và các tổ chức quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ
thương mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, được xem là một trong
những nước có nền kinh tế hướng xuất khẩu mạnh mẽ nhất trong khối các
nước ASEAN7.
Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ tích
cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển châu Á
(ADB), Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh và đưa lên một tầm cao hơn bằng việc
tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, ký kết các hiệp
định hợp tác kinh tế đa phương.
Năm 1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN và
tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), từ tháng 1 năm 1996 bắt
đầu thực hiện nghĩa vụ và các cam kết trong chương trình ưu đãi thuế quan có
hiệu lực chung (CEPT) của AFTA, theo đó đến 1/1/2006, Việt Nam phải thực
hiện đầy đủ các cam kết với mức thuế nhập khẩu cịn 0 - 5% (trừ một số mặt
hàng nơng sản nhạy cảm sẽ thực hiện vào năm 2010), ngoài ra Việt Nam còn
tham gia đàm phán các hiệp định, chương trình như: Hiệp định về thương
mại, dịch vụ, chương trình hợp tác trong các lĩnh vực giao thơng, nơng
nghiệp... Tháng 3 năm 1996, Việt Nam là thành viên sáng lập Diễn đàn hợp
11


tác Á - Âu (ASEM), nội dung hợp tác chủ yếu là tập trung vào q trình tự do
hóa thương mại, đầu tư và hợp tác giữa các nhà doanh nghiệp Á - Âu. Tháng
6 năm 1996, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á
- Thái Bình Dương (APEC), đến cuối năm 1998 được cơng nhận chính thức là
thành viên của tổ chức này. Đây là Diễn đàn hợp tác kinh tế được thành lập từ
năm 1998, đến nay có 21 nền kinh tế thành viên ở châu Á, châu Mỹ và châu
Đại Dương. Tổng số dân của các thành viên APEC là 2,67 tỷ người, chiếm

41% dân số thế giới; tổng GDP khoảng 31,6 ngàn tỷ USD, bằng 57% GDP
thế giới; tổng giá trị thương mại khoảng 5,5 ngàn tỷ USD, bằng khoảng 50%
thương mại thế giới. Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia các hoạt động
của Diễn đàn này một cách có hiệu quả.
Tháng 11-2006, sau một tuần Việt Nam gia nhập WTO, nước ta đã
đăng cai tổ chức Tuần lễ cấp cao APEC lần thứ 14 rất thành công, tạo được
tiếng vang lớn với nhiều ấn tượng tốt đẹp về một Việt Nam đang phát triển ổn
định, giàu lòng mến khách và là một điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư
nước ngoài, tạo nên sự tăng trưởng ngoạn mục trong thu hút FDI trong các
năm 2007 và 2008.
Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một
bước đi quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO
vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm phán gia nhập Tổ chức này.
Đây là sự kiện đánh dấu sự hội nhập toàn diện của Việt Nam vào kinh tế thế
giới. Với việc gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính
sách kinh tế, thương mại, đầu tư đồng bộ, theo hướng minh bạch và tự do hóa
hơn, góp phần quan trọng cho việc xây dựng một nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trong những năm gần đây, thế giới đang được chứng kiến sự gia tăng
nhanh chóng của các Hiệp định thương mại tự do để thiết lập các Khu vực
thương mại tự do. Phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của thế giới
12


và khu vực, tiến trình đàm phán và ký kết các FTA của Việt Nam đã được
khởi động và triển khai cùng với tiến trình gia nhập các tổ chức quốc tế và
khu vực. Đến nay, Việt Nam đã tham gia thiết lập FTA với 15 nước trong
khung khổ của 6 FTA khu vực, bao gồm:
ASEAN – Trung Quốc vào năm 2004, ASEAN – Hàn Quốc vào năm
2006, ASEAN – Nhật Bản năm 2008, ASEAN – Ôt-xtrây-lia và ASEAN –

Niu-Di-lân vào năm 2009, ASEAN – Ấn Độ năm 2009.
Ngoài việc ký kết và tham gia các Hiệp định Thương mại tự do với tư
cách là thành viên khối ASEAN thì Hiệp định Thương mại tự do đầu tiên mà
Việt Nam ký kết với tư cách là một bên độc lập là Hiệp định đối tác kinh tế
Việt Nam – Nhật Bản (2008), tiếp đó là Hiệp định Thương mại tự do Việt
Nam – Chi Lê (11/11/2011). Ngoài ra, Việt Nam cũng tích cực chủ động tham
gia sâu vào diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC), đã đăng cai năm APEC 2006 và tiến tới sẽ đăng cai APEC
năm 2017 với hàng trăm cuộc họp từ cấp chuyên viên đến cấp cao.
Điểm nổi bật hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là tháng 10/2015
Việt Nam đã hoàn tất đàm phán để ký kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) vào tháng 02/2016. Đây là một Hiệp định được kỳ vọng sẽ trở
thành một khn khổ thương mại tồn diện, có chất lượng cao và là khuôn
mẫu cho các Hiệp định thế kỷ 21. Việc tham gia vào Hiệp định TPP sẽ giúp
Việt Nam nắm bắt và tận dụng tốt hơn các cơ hội do quá trình hội nhập kinh
tế khu vực đem lại, đồng thời Việt Nam có thêm điều kiện, tranh thủ hợp tác
quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, triển khai chiến lược
hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương nói riêng.

13


2.2. Một số thành tựu và vấn đề đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế
2.2.1. Thành tựu đạt được
Trong gần 35 năm đổi mới, nhờ ra sức xây dựng nền kinh tế Độc lập tự
chủ và chủ động tích cực HNKTQT, nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam đã được Liên hiệp quốc đưa ra khỏi nhóm
nước kém phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình. Việt Nam là một

trong số ít nước chuyển đổi thành cơng từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao
cấp, sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước mà vẫn giữ được sự
ổn định chính trị – xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô.
Chúng ta đã tranh thủ được môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung
phát triển kinh tế – xã hội. Thị trường không ngừng được mở rộng, nguồn vốn
tài trợ và đầu tư vào nước ta không ngừng gia tăng. Nếu đầu thập niên 90 của
thế kỷ XX, chúng ta mới có quan hệ kinh tế – thương mại với gần 30 nước và
vùng lãnh thổ, thì đến nay đã có quan hệ kinh tế – thương mại với trên 220
nước và vùng lãnh thổ. Tổng kim ngạch ngoại thương đã lớn hơn rất nhiều so
với tổng sản phẩm trong nước. Đã thu hút được hơn 280 tỷ USD vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) với trên 13 nghìn dự án được cấp phép và đã giải
ngân trên 80 tỷ USD.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục giữ đà phát triển với số vốn
thực hiện cao nhất trong nhiều năm trở lại đây, cụ thể: năm 2016 đạt 15,8 tỷ
USD; năm 2017 đạt 17,5 tỷ USD; năm 2018 đạt 19,1 tỷ USD; năm 2019 đạt
20,4 tỷ USD. Trong số 81 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư trực tiếp
được cấp phép mới tại Việt Nam trong năm 2019, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn
nhất với 3. 668,8 triệu USD, chiếm 21,9% tổng vốn đăng ký cấp mới; đặc khu
hành chính Hồng Kông (Trung Quốc) đạt 2. 811,9 triệu USD, chiếm 16,8%;
Trung Quốc: 2. 373,4 triệu USD, chiếm 14,2%; Xinh-ga-po: 2. 100,9 triệu
USD, chiếm 12,5%; Nhật Bản: 1. 820,7 triệu USD, chiếm 10,9%; Đài Loan:
14


860,6 triệu USD, chiếm 5,1%; Thái Lan: 562,3 triệu USD, chiếm 3,4%; Xamoa: 543,1 triệu USD, chiếm 3,2%6.
Tính đến năm 2018, Việt Nam đã tiếp nhận 80 tỷ USD nguồn vốn
ODA, vốn vay ưu đãi, trở thành một trong những nước tiếp nhận nguồn vốn
này nhiều nhất trên thế giới. Trong đó, 7 tỷ USD là viện trợ khơng hồn lại,
trên 70 tỷ USD là vốn vay với lãi suất dưới 2% và 1,62 tỷ USD vốn vay kém
ưu đãi nhưng lãi suất vẫn thấp hơn vốn vay thương mại7.

Hiện Việt Nam có 51 nhà tài trợ lớn, trong đó có 28 nhà tài trợ song
phương và 23 nhà tài trợ đa phương. Kết quả này chứng tỏ đường lối đổi mới
và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đạt được thành công đáng ghi nhận.
Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) và đang
trong quá trình đàm phán 6 FTA với những đối tác quan trọng hàng đầu của
thương mại thế giới gồm: TPP, Hàn Quốc và các nước trong liên minh thuế
quan Nga – Be-la-rút – Ca-dắc-xtan và Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện
khu vực… Trên phương diện đa phương, các cam kết trong WTO gần như đã
được thực hiện đầy đủ và đã có thể có đánh giá tương đối toàn diện, chi tiết
tác động của các cam kết gia nhập. Trên bình diện khu vực, Việt Nam cũng
hội nhập ngày càng sâu với ASEAN, hướng tới hình thành Cộng đồng kinh tế
ASEAN 2015. Trong đó, Hiệp định Thương mại tự do giữa Liên minh châu
Âu và Việt Nam (EVFTA) đã được ký kết năm 2020 và được Quốc hội Việt
Nam phê chuẩn ngày 11/6/2020, là một hướng đi sáng cho các doanh nghiệp
Việt Nam.
Cơ hội việc làm và thu nhập cho người lao động tăng lên rõ rệt sau khi
Việt Nam gia nhập WTO. Dự kiến trong giai đoạn 2011 – 2020, việc làm mới
tạo ra tiếp tục tăng bình quân 2,4 – 2,8%/năm (tương đương 1,1 – 1,3 triệu
việc làm). Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm còn 4,78% vào năm 2015 và 4,23% vào
năm 20208.
15


Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới suy thoái, tốc độ tăng trưởng GDP
của nhiều quốc gia suy giảm, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tỷ
lệ tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2019 tăng 7,02%9.
Sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam
trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta phát triển mạnh mẽ
hơn trong giai đoạn mới. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước đã tạo tiền đề

vật chất – tinh thần quyết định cho việc giữ vững, bảo đảm độc lập, tự chủ của
đất nước trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại.
2.2.2. Một số vấn đề đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và
nguyên nhân
Hạn chế và bất cập
Bên cạnh những thành quả và ưu điểm nêu trên, hội nhập kinh tế quốc
tế thời gian qua cũng bộc lộ nhiều hạn chế và bất câp. Những hạn chế và bất
cập này đã được nêu lên trong nhiều văn kiện của Đảng, đặc biệt gần đây là
Nghị quyết số 06-NQ/TW về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia
các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, cũng như trong nhiều cơng
trình nghiên cứu và trên các diễn đàn kinh tế. Những hạn chế, bất cập chủ yếu
là:
(1) Hội nhập kinh tế quốc tế nhìn chung thể hiện chủ yếu trong chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà chưa
biến thành yếu tố nội sinh trong hành động của các cấp, các ngành và doanh
nghiệp.
Các chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế chậm được lồng
ghép, nhìn nhận đầy đủ trong chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã
16


hội, chưa gắn kết chặt chẽ với công tác quản lý điều hành phát triển kinh tế xã hội, và thiếu nguồn lực để thực hiện.Tính gắn kết giữa các ngành, lĩnh vực
chưa cao, nhiều vấn đề mang tính liên ngành chậm được xử lý hoặc xử lý cục
bộ, ngắn hạn. Ở cấp độ vi mơ, chủ trương, chính sách hội nhập chưa được cụ
thể hóa dẫn đến tình trạng thụ động,các doanh nghiệp chưa nhận thức hết tính
cấp thiết và lợi ích của hội nhập đối với hoạt động kinh doanh của mình.
Cơ chế giám sát, theo dõi việc thực hiện các kế hoạch, đề án, chương
trình về hội nhập kinh tế quốc tế chưa thực sự được chú trọng, gây khó khăn

trong việc tổng hợp đầy đủ, kịp thời cũng như đánh giá kết quả của việc triển
khai một cách xác đáng và tồn diện.
(2) Q trình đổi mới ở trong nước, nhất là đổi mới, hoàn thiện thể chế,
trước hết là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa được thực hiện một
cách đồng bộ, chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu hội nhập và quá trình nâng
cao năng lực cạnh tranh. Mặt khác tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế bộc lộ
nhiều bất cập so với yêu cầu bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự, an tồn xã hội, mơi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc.
Việc cải cách thể chế kinh tế trong nước vẫn chưa đáp ứng và theo kịp
các yêu cầu của việc thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Việc đẩy mạnh
quá trình đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế chưa tạo sức ép
đổi mới trong nước, nhất là về thể chế kinh tế, cải cách hành chính. Tuy đã có
nhiều chính sách, pháp luật để hội nhập và thực hiện các cam kết trong khuôn
khổ WTO và tham gia các FTA, song vẫn thiếu các chính sách cụ thể và hiệu
quả để thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ lớn về phát huy nội lực, phát triển
doanh nghiệp trong nước, nông nghiệp nông thôn, công nghiệp hỗ trợ, phát
triển nguồn nhân lực, khoa học công nghệ... nhằm phát huy hiệu quả của hội
nhập,thúc đẩy quá trình tái cơ cấu và đổi mới mơ hình tăng trưởng và thực
hiện Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
17


Việc điều chỉnh chính sách thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc
tế trong nhiều trường hợp còn thiếu chủ động, chưa đồng bộ. Việc hoàn thiện
khung pháp lý chưa chủ động đi trước một bước để người dân và doanh
nghiệp tận dụng các cơ hội mới cũng như có các giải pháp hỗ trợ cụ thể tồn
diện, tận dụng các điều khoản WTO và cam kết hội nhập kinh tế quốc tế khác
để tăng khả năng cạnh tranh, giảm thiểu rủi ro và tác động tiêu cực.
(3) Việc phối hợp hội nhập kinh tế quốc tế với hội nhập trong các lĩnh

vực khác chưa chặt chẽ để phát huy tổng lực và hạn chế rủi ro. Chưa tạo
được sự đan xen chặt chẽ lợi ích chiến lược, lâu dài với các đối tác, nhất là
các đối tác quan trọng. Việc ứng phó với những biến động và xử lý những tác
động từ môi trường khu vực và quốc tế còn bị động, lúng túng và chưa đồng
bộ.
Khả năng nhận định, đánh giá và dự báo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế
chưa cao. Các vấn đề về xây dựng cơ chế nhận biết, cảnh báo sớm tác động
trong các lĩnh vực hội nhập kinh tế trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập sâu
với nền kinh tế thế giới nhìn chung cịn yếu. Cơng tác tham mưu, tư vấn chính
sách vẫn cịn hạn chế trong việc phân tích, định hướng và dự báo những vấn
đề hội nhập kinh tế quốc tế phát sinh.
(4) Nền kinh tế vẫn mang tính gia cơng,chưa tạo ra các thương hiệu
Việt Nam có uy tín trên thị trường thế giới. Xuất khẩu tăng nhanh nhưng chưa
thực sự vững chắc, chất lượng tăng trưởng và hiệu quả xuất khẩu còn thấp, cơ
cấu hàng hóa xuất khẩu vẫn cịn phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi
Xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua phát triển chưa bền
vững. Giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu cịn thấp do chủ yếu dựa vào
khai thác các yếu tố về điều kiện tự nhiên và nguồn lao động rẻ; hàng hóa thơ
và sơ chế, bao gồm cả dầu thơ, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất
18



×