Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Tiểu luận cao học, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế…

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.67 KB, 38 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, Tồn cầu hóa mà chủ yếu là Tồn cầu hóa kinh tế đã trở thành 1
xu thế khách quan. Dưới sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và công
nghệ hiện đại, đặc biệt là tin học và công nghệ thông tin trên phạm vi tồn cầu,
đã có tác động đến tất cả các dân tộc, các quốc gia trên thế giới. Có thể nói, Tồn
cầu hóa kinh tế là bước tiến bộ vượt bậc của văn minh nhân loại, nó tạo điều kiện
cho các quốc gia, dân tộc những cơ hội, điều kiện thuận lợi mới vô cùng quan
trọng cho việc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tham gia hội nhập vào
q trình Tồn cầu hóa kinh tế đã trở thành yêu cầu cấp thiết cho sự tồn tại và
phát triển của các nước.
Tuy nhiên, cho đến nay, Toàn cầu hóa cũng gây ra những khó khăn thách
thức lớn cho tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển. Để phát triển
trong -hồn cảnh Tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một đòi hỏi
không thể né tránh đối với tất cả các nước. Đây là con đường đi phù hợp với xu
thế Toàn cầu hóa, cho phép các nước tận dụng những cơ hội và điều kiện thuận
lợi mà quá trình v tạo ra để phát triển. Tuy nhiên, Tồn cầu hóa cũng gây ra
nhiều khó khăn, thách thức lớn cho tất cả các nước, đặc biệt là các nước đang
phát triển. Vì lợi ích trước hết của mình, hầu hết tất cả các nước đều đã và đang
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhận thức rõ xu thế phát triển khách quan đó, Đảng chủ trương tích cực
tiến hành đối với đất nước và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tại Đại hội IX
(4-2001) Đảng ta khẳng định: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
theo tinh thần phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc
lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ dân tộc, an ninh quốc gia, giữ
gìn bản sắc văn hố dân tộc, bảo vệ mơi trường…”.
Q trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước ta trong những năm qua
đã thu được nhiều kết quả tích cực. Góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển
kinh tế – xã hội của nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi mà chúng ta
vận dụng được thông qua việc tham gia vào xu thế Tồn cầu hóa, nền kinh tế
1



nước ta cũng phải đối mặt với những khó khăn do tác động tiêu cực của q trình
Tồn cầu hóa.
Với lý do trên, em chọn đề tài: “Tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế…”. Đây là một chủ đề rộng, khả năng nghiên cứu của em còn nhiều hạn chế.
Em mong thầy cơ góp ý để những bài viết sau của em được tốt hơn.
Em xin chân thanh cảm ơn!

NỘI DUNG
I. TỒN CẦU HĨA VỀ KINH TẾ VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NÓ CÓ TÁC
ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ KINH TẾ ĐẤT NƯỚC CỦA VIỆT NAM.

Trong thời đại ngày nay, khơng một quốc gia nào có thể tồn tại và phát
triển mà lại khơng tham gia vào q trình Tồn cầu hóa. Đây là một vấn đề hết
sức rộng lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều mặt khác và có nhiều ý kiến khác
nhau. Những năm gần đây, ngày càng nhiều hội nghị, hội thảo, cuốn sách, bài
báo đề cập đến vấn đề này. Trên thực tế, thuật ngữ “Tồn cầu hóa” là một thuật
ngữ địi hỏi phải có một cách tiếp cận liên ngành vì nó liên quan đến tất cả các
hiện tượng xã hội hiện thời. Người ta có thể nghiên cứu Tồn cầu hóa dưới nhiều
góc độ như văn hố, xã hội kinh tế. Ngồi ra Tồn cầu hóa cũng liên quan trực
tiếp đến phát triển cơng nghệ, bảo vệ mơi trường… Từ các chính khách, các nhà
ngoại giao, nhà khoa học, nhà hoạt động văn hố nghệ thuật, đến những người
dân bình thường đều quan tâm tìm hiểu về Tồn cầu hóa. Đến nay đã có hàng
trăm khái niệm về Tồn cầu hóa đưa ra từ góc độ tiếp cận. Tuy nhiên, vấn đề này
vẫn cịn nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập. Ngun nhân của
sự khác nhau đó khơng chỉ do khác nhau về lợi ích, về lập trường quan điểm, mà
còn khác nhau về cách tiếp cận vấn đề, về mục đích tìm hiểu Tồn cầu hóa…
Song, qua nhiều nghiên cứu, trao đổi đều có chung một khẳng định: Khái
niệm tồn cầu hóa (Globalisation) được George Modelski lần đầu tiên đưa ra vào
năm 1972 trong tác phẩm “Principle of the World Politics” khi nói tới vấn đề

liên minh Châu Âu lôi kéo các nước khác vào một hệ thống thương mại toàn cầu
và được dùng phổ cập trong những thập niên gần đây.

2


Mặc dù vậy, nếu nhìn lại lịch sử, chúng ta sẽ thấy các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác - Lênin, trong các tác phẩm nổi tiếng của mình đã có những dự báo
khoa học về xu thế tồn cầu hóa. Cụ thể là:
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” (1848), Mác, Ăngghen
đã đưa ra và luận giải những vấn đề lý luận của tồn cầu hóa theo quan điểm duy
vật lịch sử. Cơ sở để luận giải vấn đề tồn cầu hóa của các ơng dựa trên những
căn cứ sau: Trước hết, lấy lực lượng sản xuất làm điểm xuất phát để giải thích
những nguyên nhân gây nên tồn cầu hóa kinh tế, văn hố, chính trị của giai cấp
tư sản, Mác và Ăngghen đã chỉ rõ:
“… hơi nước và máy móc dẫn đến cuộc cách mạng trong sản xuất công
nghiệp. Đại công nghiệp hiện đại thay cho công trường thủ công… Đại công
nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới… thị trường thế giới thúc đẩy cho thương
nghiệp, hàng hải, những phương tiện giao thông phát triển mau chóng lạ thường.
Sự phát triển này tác động trở lại việc mở rộng công nghiệp, mà công nghiệp,
thương nghiệp, hàng hải, đường sắt cùng phát triển thì giai cấp tư sản càng lớn
lên, làm tăng những tư bản của họ lên và đẩy các giai cấp do thời trung cổ để lại,
xuống phía sau…”.
Từ góc độ quan hệ sản xuất, Mác và Ăngghen đã chỉ ra nhân tố tác động
và tính chất giai cấp của tồn cầu hóa. Trong “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, Mác
và Ăngghen chỉ rõ: do bị thúc đẩy bởi nhu cầu về nơi tiêu thụ mới mà giai cấp tư
sản đã xâm lấn khắp toàn cầu, thiết lập các mối quan hệ và khai thác ở khắp nơi.
Điều đó cho thấy việc chiếm đoạt lợi nhuận là động cơ thơi thúc bên trong gây
nên tồn cầu hóa của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản muốn tạo nên một thế giới
theo hình ảnh của nó. Đây chính là thực chất tồn cầu hóa của giai cấp tư sản,

chính là quốc tế hóa tư bản thực hành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở
khắp mọi nơi.
Từ góc độ vận động của những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất và qui luật đấu tranh giai cấp để vạch ra xu thế cuối cùng của
sự phát triển tồn cầu hóa. Sự phân tích của Mác - Ăngghen đã chỉ ra: sự “toàn

3


cầu hóa tư bản” do giai cấp tư sản gây ra phát triển đến một giai đoạn nhất định
sẽ sinh ra vận động mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới chống lại quan hệ sản
xuất cũ giống như thời kỳ cuối cùng của xã hội phong kiến. Sự phát triển của
mâu thuẫn ấy sẽ biểu hiện thành cuộc đấu tranh của người vô sản chống lại
người tư sản, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản. Mác - Ăngghen đã chỉ ra: toàn bộ lịch sử của nhân loại là lịch sử đấu
tranh giai cấp và kết cục của mỗi cuộc đấu tranh là cả xã hội bị cách mạng cải
tạo hoặc là giai cấp đấu tranh bị tiêu diệt. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất đấu tranh giữa giai cấp tư sản và tư sản sẽ dẫn đến sự “sụp đổ
của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”.
Mặc dù lý luận về tồn cầu hóa của Mác - Ăngghen chưa hoàn thiện, nhận thức
chưa đầy đủ đối với khả năng tự điều chỉnh mâu thuẫn xã hội cơ bản của giai cấp
tư sản trong quá trình tồn cầu hóa, nhưng những quan điểm cơ bản trên vẫn có ý
nghĩa quan trọng đối với việc nhận thức và tiếp cận đúng đắn trong q trình
tồn cầu hóa hiện nay.
Lênin – người kế tục và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử
mới cũng có những chỉ dẫn quan trọng liên quan đến việc tìm hiểu, nghiên cứu
về tồn cầu hóa. Đương nhiên, trong các tác phẩm của mình, Lênin khơng có
những ý kiến trực tiếp về tồn cầu hóa - một hiện tượng chỉ nổi lên sau khi Lênin
qua đời hàng thập kỷ nhưng thông qua những trước tác của Người, chúng ta thấy
Lênin đã phân tích, đánh giá, giải quyết khơng ít những vấn đề lý luận và thực

tiễn khi chúng còn rất mới mẻ đối với lý luận và thực tiễn của nước Nga và thế
giới khi đó. Lênin đã chỉ ra khi chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn phát
triển cao nhất là chủ nghĩa đế quốc, là thời kỳ mà sự tác động lẫn nhau đã trở nên
hết sức cấp bách của 2 xu hướng thế giới. Một mặt là xu hướng quốc tế hoá, hội
nhập kinh tế vào toàn bộ đời sống xã hội và mặt khác là xu hướng biệt lập, xây
dựng các Nhà nước độc lập. Hai xu hướng này được Lênin phân tích một cách
khoa học và hết sức sâu sắc. Đồng thời, Lênin cũng là người đầu tiên phân tích

4


một cách sâu sắc những đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc và xem nó là giai đoạn
phát triển tột cùng của chủ nghĩa tư bản.
Người cho rằng: nhiệm vụ của mình là phải trình bày mối liên hệ và quan
hệ qua lại giữa các đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc. Người gọi
chủ nghĩa đế quốc là “hệ thống quan hệ kinh tế của chủ nghĩa tư bản phát triển
cao nhất”. Trong những trận bút chiến, Lênin đã chứng minh rằng, vấn đề không
phải là chấp nhận hay không chấp nhận chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản là
một thành phần kinh tế mới, cao hơn là một hình thái mới, đó là sự cần thiết lịch
sử, là bậc thang không thể tránh khỏi của sự tiến bộ xã hội. Đây là một nguyên
tắc trong phương pháp luận của Lênin, nguyên tắc này rất phù hợp với thực tế
hiện nay trong vấn đề chấp nhận hay khơng chấp nhận tồn cầu hóa. Bởi lẽ trong
bản chất sâu xa, quá trình này dựa vào các cơ sở thực tiễn ban đầu của sự phát
triển xã hội – xu thế hội nhận, thống nhất hợp nhất của loài người thành một
chỉnh thể xã hội. Chủ nghĩa đế quốc khơng phải là bản chất của tồn cầu hóa mà
đúng hơn là phương thức vật chất hóa, phản nhân đạo của tồn cầu hóa.
2. Tồn cầu hóa về kinh tế và những nhân tố làm nảy sinh toàn cầu
hóa kinh tế.
2.1. Khái niệm tồn cầu hóa kinh tế.
Mặc dù có rất nhiều quan niệm khác nhau về tồn cầu hóa, song có thể nói

tồn cầu hóa ngày nay có bản chất chủ yếu là tồn cầu hóa quốc tế, với những tác
động sâu rộng của nó đến các mặt đời sống xã hội như quân sự, chính trị, văn
hố, mơi trường… và việc giải quyết các vấn đề nảy sinh. Trong các lãnh đạo
này không thể không liên quan đến tồn cầu hóa kinh tế. Bàn về tồn cầu hóa
kinh tế, hiện cũng đang có rất nhiều những quan niệm khác nhau: có ý kiến cho
rằng: “Tồn cầu hóa kinh tế là mối quan hệ kinh tế vượt biên giới quốc gia vươn
tới qui mô thế giới, đạt trình độ chất và lượng mới” (Trần Việt Phương: Tồn cầu
hóa – quan điểm và thực tiễn, Nxb Thống kê, H.1999). Một số quan điểm khác
lại cho rằng: Thực chất của tồn cầu hóa kinh tế là tự do hóa và hội nhập quốc tế,

5


mà trước hết là về thương mại, đầu tư và dịch vụ. Một số ý kiến khác lại đưa ra
“công thức” rất ngắn gọn về tồn cầu hóa là “mở cửa và hội nhập”…
Từ những quan niệm trên, ta có thể đưa ra khái niệm về tồn cầu hóa về
kinh tế như sau: “Tồn cầu hóa về kinh tế là quá trình phát triển kinh tế của các
nước trên thế giới và các quan hệ kinh tế quốc tế vượt khỏi biên giới quốc gia,
hướng tới phạm vi toàn cầu trong đó, hàng hố, vốn, tiền tệ, thơng tin, lao
động… vận động thơng thống, mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia và khu
vực được vận hành theo “luật chơi chung” được xác lập giữa các thành viên
trong cộng đồng quốc tế, sự phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, tính
xã hội hóa càng ngày càng tăng, các nền kinh tế ngày càng có quan hệ mật thiết
với nhau và tuỳ thuộc lẫn nhau”.
Ở đây, chúng ta cần phân biệt đơi chút giữa quốc tế hóa và tồn cầu hóa.
Phạm vi, qui mơ của quốc tế hóa hẹp hơn chỉ cần vượt khỏi biên giới quốc gia
các nước trên thế giới không loại trừ một nước nào cả. Do đó, có thể hiểu tồn
cầu hóa kinh tế, là bước phát triển cao của quá trình quốc tế hóa nền kinh tế thế
giới là giai đoạn chuyển biến về chất của q trình quốc tế hóa.
Theo đó, các dịng hàng hố, dịch vụ, kỹ thuật, vốn… vận động một cách

thơng thống, do lưu thơng trên phạm vi toàn cầu và nền kinh tế các nước trên
thế giới ngay càng mở cửa và hòa nhập vào nhau. Sự phát triển của kinh tế các
nước trên thế giới và sự vận động của toàn bộ nền kinh tế thế giới ngày càng ảnh
hưởng và chế ước lẫn nhau. Thực tế cho thấy, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
ở một số nước Đông Nam Á năm 1997 đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với
tất cả các nước trong khu vực và cả nhiều nước khác nhau trên thế giới. Hay suy
thoái kinh tế ở Mỹ và một số nước khác năm 2001 cũng đã kéo theo suy thoái
kinh tế ở rất nhiều nước trên thế giới và có tác động mạnh đến hầu hết các nước.
2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến tồn cầu hóa kinh tế.
Ngày nay, tồn cầu hóa kinh tế đang diễn ra với tốc độ vơ cùng nhanh
chóng, qui mơ ngày càng mở rộng trên hầu hết tất cả các lĩnh vực của đời sống
kinh tế thế giới làm xuất hiện nền kinh tế thế giới tồn cầu hóa. Đại hội đại biểu

6


toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã chỉ rõ: “Tồn cầu hóa kinh tế là một xu thế
khách quan”. Tính khách quan ấy bắt nguồn từ một số nhân tố sau:
Thứ nhất: Tồn cầu hóa kinh tế – bước phát triển mới, cao của quốc tế hóa
kinh tế bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ tính chất xã hội hóa
sản xuất trên phạm vi quốc tế. Như Mác - Ăngghen nhận định “Đại công nghiệp
đào tạo ra thị trường thế giới”. Thay cho tình trạng cơ lập trước kia các địa
phương và dân tộc vẫn tự cung, tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ
biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc.
Thứ hai: Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường. Ngày nay kinh tế
thị trường phát triển mạnh mẽ không chỉ ở sự mở rộng về khơng gian mà cịn
phát triển theo chiều sâu với sự hình thành của các loại thị trường, của các loại
hình công cụ thị trường mới. Nền kinh tế ngày nay thống nhất ở công cụ vận: cơ
chế thị trường - đây chính là cơ sở quan trọng để gia tăng xu thế tồn cầu hóa.
Ba là: Sự phát triển của khoa học – công nghệ. Ở vào thế kỷ XV – XVI,

nhờ có những phát triển lớn về địa lý, cùng với sự tiến bộ của kỹ thuật hàng hải
đã giúp các nước trên châu lục thông thương, mở rộng giao lưu kinh tế, thương
mại. Đường sắt phát triển mạnh mẽ ở châu Âu và Bắc Mỹ từ giữa thế kỷ XIX,
tàu thuỷ, xe hơi phát triển cuối thế kỷ XIX, đồng thời với sự ra đời của điện tín,
điện thoại… đã làm cho nền sản xuất vật chất phát triển vượt biên giới quốc gia
và khu vực.
Đặc biệt, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ từ
giữa những năm 70 của thế kỷ XX đã tạo ra bước ngoặt trong sự phát triển lực
lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả của nền sản xuất xã hội,
làm cho phân công lao động xã hội ngày càng mở rộng trên phạm vi quốc gia và
quốc tế. Với cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại, công nghệ thông tin và
viễn thông xuất hiện, hệ thống Internet bao trùm toàn cầu khiến q trình tồn
cầu hóa kinh tế ngày càng sâu rộng.
Bốn là: Nền sản xuất vật chất phát triển đòi hỏi sự hợp tác, phân công lao
động ngày càng sâu dẫn đến sự hình thành mạng lưới sản xuất quốc tế và vai trò

7


ngày càng tăng của các công ty xuyên quốc gia (Transnational Corpration) – lực
lượng chi phối tồn cầu hóa.
Nhân tố này liên quan trực tiếp đến sự ra đời và ứng dụng các công nghệ
mới. Ta thấy, nếu trước kia, phân công lao động dựa trên cơ sở chuyên môn hóa
theo ngành thì nay chuyển sang chun mơn hóa sản xuất trong nội bộ ngành,
nghĩa là chun mơn hóa theo đối tượng, chi tiết sản phẩm, phân chia giữa nhiều
công ty độc lập, nằm ở nhiều nước khác nhau. Chẳng hạn như để sản xuất các
chi tiết, các linh kiện chiếc máy bay Boing 747, hãng Boing (Mỹ) đã sử dụng đến
600 công ty ở các nước khác nhau trên toàn thế giới.
Sự ra đời và phát triển của các công ty xuyên quốc gia đã làm cho sản xuất
mang tính tồn cầu hóa. Theo số liệu thống kê của Liên hợp quốc, trên thế giới

hiện nay có hơn 60.000 công ty xuyên quốc gia với 500.000 chi nhánh ở nước
ngồi, có tổng doanh số 10.000 tỷ USD, chiếm gần 40% tổng sản phẩm của thế
giới, kiểm soát 60% thương mại thế giới, 80% FDI (đầu tư trực tiếp nước ngoài),
90% kết quả nghiên cứu triển khai kỹ thuật và chuyển giao công nghệ trên thế
giới. Với kết quả này, chính các cơng ty xun quốc gia này đã làm các quốc gia
liên kết lại với nhau, làm cho nền kinh tế thế giới ngày càng gắn bó chặt chẽ.
Năm là: Vai trị của các định chế tồn cầu và khu vực thể hiện thành các tổ
chức quốc tế và khu vực. Các tổ chức này vừa là kết quả vừa là động lực của q
trình tồn cầu hóa. Các định chế kinh tế quốc tế ra đời tác động đến các thể chế
quốc gia và làm cho chúng thay đổi thích ứng. Hiện nay, trên thế0 giới có trên 40
tổ chức kinh tế, thương mại, khu vực được tổ chức với nhiều hình thức cụ thể,
mức độ hợp tác rất khác nhau. Đặc biệt là các tổ chức tài chính, kinh tế, thương
mại như: IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế), WB (Ngân hàng thế giới), WTO (tổ chức
thương mại thế giới)… ngày càng có vai trị thúc đẩy q trình tồn cầu hóa kinh
tế. Người ta ví IMF, WB, WTO như là “ba cỗ xe ngựa” điều tiết mối quan hệ
kinh tế thế giới từ nửa sau thế kỷ XX đến nay.
Sáu là: Sự tan rã của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa. Trước kia, khi
còn tồn tại cộng đồng xã hội chủ nghĩa thế giới, còn hội đồng tương trợ kinh tế

8


(khố SEV) đã tồn tại hai nền kinh tế, hai loại thị trường vận động theo các qui
luật khác nhau. Ngày nay, đa số các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã rẽ
theo con đường mới và các nước còn lại đều chủ trương hội nhập vào nền kinh tế
thế giới. Tình hình đó làm cho tính tồn cầu hóa nền kinh tế ngày càng gia tăng.
Bản là: Các cường quốc kinh tế khơng cịn phân chia thế giới thành những
vùng ảnh hưởng rõ rệt mà cùng một lúc thâm nhập và cạnh tranh nhau trên mọi
loại thị trường.
Tám là: Từ sự phát triển kinh tế đã nảy sinh những vấn đề tồn cầu như: ơ

nhiễm mơi trường, thiên tai, dịch bệnh, tội phạm ma tuý,… đòi hỏi phải có sự
phối hợp tồn cầu để đối phó với các thách thức, từ đó, đẩy đến gia tăng quan hệ
phối hợp với nhau trên qui mơ tồn cầu.
Ngồi những nhân tố trên, cịn có một số những nhân tố sau cũng góp
phần thúc đẩy q trình tồn cầu hóa như: tơn giáo, văn hố, du lịch, khủng bố,
chạy đua vũ trang, sự ảnh hưởng của các nền kinh tế lớn đối với q trình tồn
cầu hóa…
Như vậy, đây là những nhân tố được nhiều ý kiến đề cập đến và những
nhân tố này là cơ sở chứng minh cho xu thế khơng đảo ngược của tồn cầu hóa
hiện nay.
3. Tác động có tính hai mặt của tồn cầu hóa.
Trong chương trình hành động tại kỳ họp lần thứ X của UNCTAD ở Băng
Cốc từ ngày 12-19/12/2000 đã được” “Mặc dù tồn cầu hóa đặt ra nhiều vấn đề
nghiêm trọng, với nguy cơ về sự không ổn định và gạt ra bên lề một số nước,
nhưng kinh nghiệm hiện tại cho thấy tồn cầu hóa đã và đang mở ra những triển
vọng mới cho hội nhập của các nước đang phát triển vào nền kinh tế thế giới”.
Rõ ràng, xu hướng tồn cầu hóa hiện nay có những mặt tích cực và tiêu
cực cần được xem xét và phân tích. Nhưng trước khi phân tích các mặt tích cực
và tiêu cực của tồn cầu hóa chúng ta nên hiểu nội dung của tồn cầu hóa kinh
tế. Có rất nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những nội dung khác nhau. Nhưng có ba
nội dung được đề cập đến nhiều nhất, đó là:

9


Tự do thương mại: là việc cho phép lưu thông hàng hoá liên biên giới với
các mức thuế suất thấp và tiến tới xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế
quan. Để quản lý quá trình này người ta lập ra tổ chức: UNCTAD, GATT/WTO.
Tự do tài chính: là mở rộng tự do lưu thông vốn tư bản quốc tế. Quá trình
này chịu sự chi phối của các tổ chức quốc tế như: BIS, IMF, WB…

Tự do hóa đầu tư: là q trình mở rộng khơng gian đầu tư với các hình
thức đầu tư như: ODA, FDI giữa các nước với nhau cũng như giữa các nhóm
nước trên thế giới.
Đây là ba q trình chủ chốt của tồn cầu hóa kinh tế mà bất cứ quốc gia
nào tham gia vào q trình tồn cầu hóa đều khơng thể tránh khỏi.
3.1. Những tác động tích cực.
Cụ thể là: Với những nội dung trên thì nhìn chung tồn cầu hóa kinh tế
góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất và tăng trưởng kinh tế tồn cầu.
Thứ nhất: Tồn cầu hóa kinh tế thúc đẩy rất mạnh, rất nhanh sự phát triển
và xã hội hóa lực lượng sản xuất, đưa lại tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Nếu nửa
đầu thế kỷ XX, GDP thế giới tăng 2,7 lần thì đến cuối thế kỷ XX, GDP tăng 5,2
lần. Tồn cầu hóa kinh tế góp phần làm chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đặc
biệt làm tăng mạnh tỷ trọng hàng chế tác (chiếm 21,4%) và các dịch vụ (62,4%)
trong cơ cấu kinh tế thế giới. Hơn nữa, tồn cầu hóa kinh tế làm cho hệ thống thị
trường được mở rộng, sự giao lưu hàng hố thơng thống hơn, hàng rào thuế
quan dần được xố bỏ, nhờ đó, sự trao đổi hàng hố tăng mạnh, có lợi cho sự
phát triển của các nước.
Thứ hai: Tồn cầu hóa làm tăng thêm sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau
giữa các nền kinh tế các nước. Tồn cầu hóa kinh tế làm cho nền kinh tế mỗi
nước có thể trở thành bộ phận của cái tổng thể, hình thành cục diện kinh tế thế
giới với việc giao lưu, trao đổi các hoạt động kinh tế để tìm kiếm lợi ích giữa các
nước, các nền kinh tế ngày càng tăng lên đã tạo cơ sở cho xu thế đối ngoại, hiệp
tác, biết mình, biết ta diễn ra ngày càng mạnh. Tồn cầu hóa cũng làm giảm thiểu
các chướng ngại vật trong việc lưu chuyển vốn, hàng hoá, dịch vụ, nguồn nhân

10


lực… giữa các nền kinh tế, các nước, làm tăng vai trò kinh tế đối ngoại, mậu
dịch và đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của mỗi nước, làm cho

việc phân bổ các nguồn lực trên thế giới hợp lý và có hiệu quả hơn.
Ba là: Tồn cầu hóa truyền bá và chuyển giao trên qui mô ngày càng lớn,
tuy chưa được như mong muốn, những thành quả mới mẻ về khoa học và công
nghệ, về tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh, đưa kiến thức và kinh nghiệm
đến với các dân tộc, tại nhiều nước… dọn đường cho cơng nghiệp hố, hiện đại
hố. Hơn nữa, tồn cầu hóa tạo thêm khả năng phát triển rút ngắn và mang lại
những nguồn lực rất quan trọng, rất cần thiết cho các nước đang phát triển, từ
nguồn vốn vật chất đến các nguồn tri thức và kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh
doanh.
Bốn là: Toàn cầu hóa gây sức ép mãnh liệt, gay gắt về cạnh tranh đối với
mỗi nền kinh tế, mỗi doanh nghiệp. Bởi vậy, nó làm thay đổi cách suy nghĩ, cách
làm của mỗi nước, mỗi nhà sản xuất. Để sản xuất, giao lưu kinh tế toàn cầu, phát
huy lợi thế cạnh tranh của mình, chiếm giữ chỗ đứng trên thị trường, mỗi nhà
quản lý cũng như mỗi nhà kinh doanh không thể chỉ sản xuất cái mình có thể, mà
phải sản xuất cái thị trường cần, phải tính đến hiệu quả của việc sử dụng các
nguồn lực sản xuất để không ngừng nâng cao chất lượng hàng hoá, cải tiến mẫu
mã, đa dạng mặt hàng, hạ thấp giá thành sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao và đa dạng của người tiêu dùng, phải nắm vững các tiêu chuẩn quốc tế, hiểu
biết luật pháp và qui ước quốc tế, hiểu biết thị trường thế giới. Tồn cầu hóa kinh
tế mở ra những địa bàn và cách thức hoạt động mới, thị trường mới,những đối
tác mới cho từng nước.
3.2. Những tác động tiêu cực.
Cùng với những mặt tích cực, q trình tồn cầu hóa kinh tế trong mấy
thập kỷ qua đã bộc lộ dần những tác động tiêu cực đối với kinh tế, chính trị và xã
hội của mỗi nước. Sự tác động tiêu cực của tồn cầu hóa kinh tế thể hiện trên
một số vấn đề sau:

11



Trước hết, hiện nay q trình tồn cầu hóa kinh tế diễn ra khi mà trình độ
phát triển của các nước rất không đồng đều, một số nước tư bản phát triển, đứng
đầu là Mỹ do có ưu thế gần như tuyệt đối về kinh tế, về khoa học – cơng nghệ
nên đang nắm giữ vai trị chủ đạo, thao túng, chi phối “luật chơi”, biến tồn cầu
hóa kinh tế thành “sân chơi” bất bình đẳng, bất cơng chứa đựng nhiều nguy cơ
đến sự an nguy và tồn vong của các nước, nhất là các nước đang phát triển và
chậm phát triển. Sự bất bình đẳng và bất cơng hưởng nhờ tồn cầu hóa kinh tế
đem lại thể hiện rõ ở tình trạng phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp người ở
các nước, các khu vực và trên toàn thế giới.
Theo báo cáo của cơ quan liên hợp quốc, kể cả ngân hàng thế giới (WB),
quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) thì trong thập niên gần đây, tình trạng phân hóa giàu
nghèo đang có chiều hướng gia tăng. Nếu tỉ lệ chênh lệch giữa thu nhập của 5%
số người giàu nhất và 5% số người nghèo nhất năm 1960 là 3.011, năm 1990 là
6.011 thì hiện nay tỷ lệ đó là khoảng trên 8.011. Các nước cơng nghiệp phát triển
với 20% dân số thế giới hiện nay chiếm giữ khoảng 80% GDP toàn cầu, trong
khi các nước nghèo nhất cũng chiếm 20% dân số thế giới nhưng chỉ được hưởng
có 1% GDP của thế giới. Như vậy, rõ ràng hồn tồn khơng phải như luận thuyết
mà một số học giả phương Tây cho rằng, trong q trình tồn cầu hóa kinh tế,
“các bên cùng thắng”, “tất cả cùng thắng”, mà tồn cầu hóa kinh tế hiện nay (do
một số nước tư bản phương Tây chi phối), chỉ đem lại cho một số nước giàu, một
số nước tư bản phát triển, những khoản lợi nhuận khổng lồ, cịn số đơng, các
nước còn lại, nhất là các nước đang phát triển, chậm phát triển được hưởng phần
rất nhỏ, không đáng kể thậm chí một số nước nghèo cịn bị loại ra rìa của q
trình tồn cầu hóa kinh tế.
Một thống kê mới đây của Liên hiệp quốc cho thấy, trên thế giới hiện có
trên 1 tỷ người nghèo trong đó có 800 triệu người thiếu ăn và hàng năm có trên
80 triệu người chết đói. Tình trạng phân hóa giàu nghèo cũng diễn ra sâu sắc. Ở
ngay trong các nước tư bản phát triển nhất. Ở những nước này, bên cạnh những
tầng lớp giàu có được đặc quyền, đặc lợi, sống trong dư thừa cũng đang tồn tại


12


những tầng lớp người nghèo khổ, sống “dưới đáy” xã hội, mà người ta thường dè
bỉu, mỉa mai gọi đó là “thế giới thứ tư”.
Q trình tồn cầu hóa cịn gây nên cuộc khủng hoảng nợ đối với các nước
đang phát triển. Các nước này phụ thuộc quá nhiều vào tiền viện trợ. Tuy nhiên
dịng viện trợ lại khơng tăng và có xu hướng giảm đi về giá trị thực tế vì hầu hết
các nhà tài trợ chính đều cắt giảm viện trợ. Trên thế giới, khơng có nơi nào vấn
đề khủng hoảng nợ lại căng thẳng như Châu Phi cận Xahara. Uganđa là một
nước đứng trong tình trạng nợ trầm trọng nhất. Năm 1994, nước này trả nợ 162
triệu USD bằng 4/5 thu nhập từ xuất khẩu. Nợ của Uganđa rõ ràng là khơng thể
trả được. Ngồi ra, các nước ở các khu vực khác cũng là nạn nhân của cuộc
khủng hoảng nợ toàn cầu hiện nay. Số nợ của Nicaragoa với nước ngoài lên tới
11 tỷ USD và trở thành nước mắc nợ cao nhất tính bình qn trên đầu người.
Khó có thể tưởng tượng nước này có thể trả nổi nợ bởi vì số nợ cộng với số lãi
suất thì dư nợ phải trả bằng 1/2 GDP nước này. Theo báo cáo về tình hình tài
chính tồn cầu cho biết, nợ nước ngoài của các nước đang phát triển năm 1992 là
1.625 tỷ USD và năm 1997 tăng 2.317 tỷ USD và hiện nay khoản nợ khoảng
2.200 tỷ USD được coi là gánh nặng đối với các nước đang phát triển.
Ba là: Nền kinh tế toàn cầu là một nền kinh tế dễ bị chấn thương, sự trục
trặc ở một khâu có thể lan ra phạm vi tồn cầu. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ ở Đơng Nam Á vào cuối thế kỷ XX đã minh chứng điều đó.
Bốn là: Tồn cầu hóa kinh tế làm xói mịn quyền lực của Nhà nước, trong
khi lại khơng ngừng làm tăng quyền lực của các công ty xuyên quốc gia. Khi các
hoạt động giao lưu kinh tế, thương mại quốc tế ngày càng mạnh mẽ thì trên thế
giới. Vai trò của các quốc gia dân tộc ngày càng mất đi những ý nghĩa nhiều mặt
của nó. Các truyền thống văn hoá, truyền thống dân tộc, sắc thái dân tộc, nếu
khơng có sự bảo vệ giữ gìn thì cũng bị băng hoại. Như vậy, thế giới sẽ mất đi
tính phong phú, đa dạng của nó, cịn các quốc gia dân tộc nói chung, đặc biệt là

các quốc gia nhỏ yếu sẽ rất dễ bị xâm lược, chủ quyền kinh tế gắn với lợi ích đất
nước bị xâm phạm.

13


Năm là: Về mặt văn hố, xã hội, tồn cầu hóa cũng tạo ra nguy cơ đánh
mất bản sắc dân tộc, đánh mất độc lập tự chủ quốc gia. Toàn cầu hóa cũng làm
cho một số vấn đề tiêu cực trở nên quốc tế hóa như bn bán và sử dụng ma tuý,
mại dâm, du nhập lối sống đồi truỵ, lan tràn chủ nghĩa khủng bố, lây truyền căn
bệnh thế kỷ HIV/AIDS.
Ngồi ra, tồn cầu hóa kinh tế cịn thúc đẩy sự gia tăng chảy máu chất xám
ở các nước đang phát triển, khủng hoảng môi trường… Ngay trong những mặt
tích cực trên cũng ẩn chứa khơng ít những mặt tiêu cực. Việc trao đổi hàng hoá,
việc tự do thương mại thường đem lại lợi ích lớn hơn cho các nước cơng nghiệp
phát triển vì sản phẩm của họ có chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã đẹp, do
đó, có sức cạnh tranh cao, dễ chiếm lĩnh thị trường. Tuy nói là tự do háo thương
mại song các nước cơng nghiệp phát triển vẫn áp dụng những hình thức bảo hộ
công khai (như áp dụng hạn ngạch) hoặc trá hình (như tiêu chuẩn lao động, mơi
trường…). Tuy có chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển nhưng
không phải là công nghệ hiện đại nhất là công nghệ cao. Công nghệ mà họ
chuyển giao thường là công nghệ lắp ráp, công nghệ lạc hậu, công nghệ sản xuất
côcacôla để tuyên truyền lối sống của họ, công nghệ bẩn gây ô nhiễm, công nghệ
cho phép họ chiếm lĩnh thị trường cơng nghệ điện thoại di động, cơng nghệ hình
thành nền kinh tế ảo để thủ tiêu chủ quyền quốc gia của các nước đang phát triển
và công nghệ để kìm hãm sự phát triển như đã từng xảy ra đối với nước Nga.
3.3. Đấu tranh chống mặt tiêu cực tồn cầu hóa.
Cùng với sự phát triển của q trình tồn cầu hóa kinh tế, những cuộc đấu
tranh chống mặt tiêu cực tồn cầu hóa cũng xuất hiện với qui mô và mức độ khác
nhau.

Khởi điểm của cuộc đấu tranh phản đối tồn cầu hóa là hội nghị cấp cao
G8 nhóm họp tại Cơlơnhơ (Đức) tháng 8/1999. Trong thời gian diễn ra hội nghị,
hàng nghìn người đã biểu tình khơng chỉ ở Cơlơnhơ mà cịn ở Ln Đơn, Mọt số
thành phố khác ở Châu âu và Bắc Mỹ. Xung đột giữa người biểu tình và cảnh sát
ở Ln Đơn đã làm hơn 40 người bị thương.

14


Cao điểm của cuộc đấu tranh chống tồn cầu hóa chính là vào 11/1999 khi
diễn ra hội nghị thượng đỉnh của WTO họp tại Xintơn (Mỹ). Tại đây, hơn
500.000 người từ nhiều tổ chức và phong trào khác nhau trên thế giới tụ họp biểu
tình rầm rộ phản đối chính sách tự do hóa thương mại.
Sau Xintơn những hoạt động chống tồn cầu hóa tiếp tục diễn ra ở nhiều
nơi khác trên thế giới như: Oasinhtown, Pavốt, Băng Cốc, Luân Đôn, Kê bếch…
Tháng 10/2001, tại Beclin đã diễn ra Hội nghị tồn quốc của phong trào phản đối
tồn cầu hóa của Đức với sự tham gia của 2.500 đại biểu thành viên của ATTAC
và một số nước khác. Hội nghị đã tập trung bàn về chiến lược của ATTAC
chống chủ nghĩa “tự do mới” trong q trình tồn cầu hóa vì một trật tự kinh tế
thế giới cơng bằng hơn, khơng để cho tập đồn tài chính quốc tế dùng lợi nhuận
chi phối thế giới.
Trong thời gian diễn ra hội nghị cấp cao Bộ trưởng của WTO tại Đô ha
(Cata) tháng 11/2001, nhiều cuộc biểu tình chống tồn cầu hóa diễn ra khơng chỉ
ở thành phố này mà cịn ở các nước khác. Trong số 500 đại biểu dự hội nghị, có
khoảng 150 đại biểu phản đối tổ chức WTO.
Tháng 11/2002 tạo Dhlorenxơ (Italia) đã diễn ra diễn đàn Châu Âu phản
đối tồn cầu hóa do diễn đàn xã hội thế giới tổ chức với hơn 2 vạn người thuộc
các tổ chức nghiệp đồn, các tổ chức phi chính phủ ở nhiều nước Châu Âu. Diễn
đàn thông qua 18 cuộc hội nghị chung, 140 hội nghị chuyên đề, 250 hội thảo về
các chủ đề, mơi trường, nghèo đói, chống chiến tranh do Mỹ phát động.

Từ các diễn đàn và sự kiện nói trên ta thấy phong trào tồn cầu hóa đã thu
được một số những thắng lợi bước đầu, đã có một số ảnh hưởng quan trọng đối
với sự phát triển kinh tế, chính trị thế giới. Song đấu tranh chống mặt trái tồn
cầu hóa phải khơng gây trở ngại cho quá trình vận động và phát triển của xu thế
tồn cầu hóa, một xu thế khách quan và tất yếu trong sự phát triển của xã hội loài
người.
4. Những tác động của tồn cầu hóa với quan hệ quốc tế và quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.

15


Xu thế tồn cầu hóa tác động sâu sắc đến mối quan hệ quốc tế và quá trình
hội nhập về kinh tế của các nước trong đó có Việt Nam. Trước nhu cầu phát
triển, nắm bắt khả năng tận dụng những mặt tích cực của q trình tồn cầu hóa,
các nước trên thế giới đều có thiên hướng từ bỏ chính sách đóng cửa, chuyển
sang chính sách mở cửa với bên ngồi để đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ vốn
cơng nghệ, kinh nghiệm quản lý để phát triển.
Bên cạnh quan hệ song phương, quan hệ đa phương đóng vai trị ngày
càng quan trọng trong quan hệ quốc tế, xuất hiện nhiều cơ cấu hợp tác với nhiều
tầng nấc: tiểu nông, khu vực, đại khu vực và tồn cầu. Các hình thức liên kết
diễn ra ở nhiều cấp độ như: ưu đĩa thương mại, liên minh thuế quan, thị trường
chung…
Những nhân tố trên đã tạo ra một mạng quan hệ quốc tế đan xen nhau làm
gia tăng thêm tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Tuy nhiên, các chủ
thể tham gia q trình tồn cầu hóa đều có lợi ích riêng, độc lập với nhau, thậm
chí trong quan hệ kinh tế quốc tế luôn luôn tồn tại hai chiều hướng: hợp tác và
đấu tranh.
Thời đại chúng ta đang sống là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các
lực lượng tham gia q trình tồn cầu hóa và hội nhập gần hàng trăm dân tộc và

quốc gia khác nhau như các nước tư bản phát triển, các nước đang phát triển và
các nước đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, phải phát huy mặt tích cực
để phục vụ cho lợi ích của mỗi bên tham gia vào q trình tồn cầu hóa và hạn
chế nhiều mặt tiêu cực để nền kinh tế thế giới phát triển một cách bền vững.
II. QUÁ TRÌNH MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ CHỦ ĐỘNG HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG XU THẾ TOÀN CẦU HĨA.

1. Q trình hình thành chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1. Trước đổi mới.
Ngay từ giữa những năm 70 của thế kỷ trước, nước ta đã gia nhập hội
đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực tham gia phong trào khơng liên kết, nhóm
77, Liên hợp quốc, một trong những nội dung căn bản là đấu tranh cho một trật
tự kinh tế thế giới công bằng. Bên cạnh mối quan hệ với các nước trong cộng
16


đồng xã hội chủ nghĩa, nước ta đã ra sức thúc đẩy quan hệ hợp tác bình đẳng
cùng có lợi với các nước tư bản chủ nghĩa mặc dù lúc đó các thế lực thù địch
thực hiện chính sách lao động về kinh tế, cơ lập về chính trị đối với nước ta.
1.2. Trong thời kỳ đổi mới.
Để phục vụ cho đường lối đổi mới (được khởi xướng từ đại hội 6), Bộ
Chính trị và Ban chấp hành Trung ương đã lần lượt ra các Nghị quyết 13
(5/1998) và Nghị quyết Trung ương 8A (3/1990), trong đó phân tích sâu sắc bao
vây kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, năm 1987 nước ta đã thông qua
luật đầu tư nước ngồi với các qui định khá thơng thống.
Đại hội lần thứ 7 (6/1991) đã thông qua Cương lĩnh của đảng và chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội 10 năm, đồng thời đưa ra đường lối đối
ngoại mở rộng với khẩu hiệu nổi tiếng: “Với chính sách đối ngoại rộng mở,
chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình và phát triển”.

Đến đại hội 8 (6/1996) tiếp tục khẳng định chủ trương xây dựng một nền
kinh tế mở, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nghị Trung ương 4
khố 8 nêu nhiệm vụ: Tích cực chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc
tế, tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán hiệp định thương mại với
Mỹ. Gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể chủ trương thực hiện cam kết
trong khuôn khổ AFTA.
Tại Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta nhấn mạnh chủ trương: “Chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng
cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc,
bảo vệ mơi trường…”. Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã đưa ra Nghị quyết 07NQ/TƯ về hội nhập kinh tế quốc tế và chính phủ đã cụ thể hóa Nghị quyết này
bằng chương trình hành động cụ thể. Nghị quyết 7 nêu rõ: “Chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế nhằm ở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức

17


để đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố theo định hướng xã hội chủ
nghĩa…”.
Như vậy, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã từng bước được hình thành
trong q trình thực hiện cơng cuộc đổi mới nói chung, trong quá trình triển khai
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa nói riêng của
các Đại hội Đảng toàn quốc lần IV đến lần IX. Vậy thế nào là hội nhập kinh tế
quốc tế?
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế nhưng nhìn
chung có thể hiểu: hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình đi liền với tồn cầu hóa
kinh tế mà trọng tâm là “mở cửa” nền kinh tế, là tiến hành tự do cạnh tranh, đưa
các doanh nghiệp trong nước tham gia tích cực vào cạnh tranh quốc tế.
Sự tham gia vào phân công lao động quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi để
phát triển kinh tế, mở rộng không gian và môi trường để chiếm lĩnh những vị trí

phù hợp nhất có thể được trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Một cuộc đấu tranh phức tạp để góp phần phát triển kinh tế và củng cố an
ninh chính trị, độc lập kinh tế và bản sắc văn hố của mỗi nước thơng qua việc
thiết lập quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau, đan xen nhau với nhiều tầng nấc ở các quốc
gia khác nhau.
Xu thế mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế đi liền với xu thế tồn cầu hóa
kinh tế, diễn ra với nhịp độ ngày càng tăng. Để tránh nguy cơ tụt hậu và khỏi bị
gạt ra ngoài quĩ đạo phát triển chung đó, các nước đều phải nỗ lực hội nhập vào
xu thế chung, ra sức cạnh tranh kinh tế vì sự tồn tại và phát triển của mình. Cùng
với xu thế chung đó, Việt Nam cũng đã có những bước đi quan trọng trong quá
trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
2. Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế
khu vực và thế giới.
- Năm 1993, nước ta đã khai thơng quan hệ với tổ chức tài chính, tiền tệ
quốc tế như IMF, WB, ADB.

18


- Ngày 25/7/1995, nước ta chính thức gia nhập ASEAN, đồng thời gia
nhập khu vực mậu dịch tự do của khối này (AFTA).
- Tháng 3/1996 nước ta đã tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Á - Âu
(ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập.
- Ngày 15/6/1996, Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập diễn đàn hợp tác
kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và tháng 11/1998 đã được cơng nhận
là thành viên chính thức của tổ chức này.
- Tháng 12/1994, ta đã gửi đơn xin gia nhập WTO. Đến tháng 12/2004
nước ta đã tiến hành 9 phiên đàm phán đa phương và đàm phán song phương với
27 nước với mục tiêu gia nhập vào tổ chức này vào tháng 12/2005.
- Năm 2001, nước ta đã ký hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và

hiệp định này bắt đầu có hiệu lực từ ngày 10/12/2001.
3. Những kết quả bước đầu đã đạt được trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
Nắm bắt được thời cơ và từng bước vượt qua khó khăn, thách thức tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta thu được những kết quả ban đầu.
- Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế bằng việc thiết lập mối quan hệ với
mức độ khác nhau với hầu hết các nước. Do đó, Việt Nam đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với hơn 170 nước và hầu hết với các tổ chức quốc tế và khu vực quan
trọng, đẩy lùi được chính sách bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, tạo
dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và
bảo vệ tổ quốc nâng cao vị thế của nước ta trên chính trường và thương trường
quốc tế. Đại hội Đảng lần thứ VIII của Đảng ta đã đánh giá việc “phát triển mạnh
mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời
sống cộng đồng quốc tế”, đã khai thông được quan hệ với các tổ chức tài chính,
tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB. Điều đó giúp Việt Nam mở rộng thêm thị
trường có nhiều đối tác, tăng tính hấp dẫn của nước ta đối với các nước khác, kể
cả các nước lớn và các trung tâm kinh tế quan trọng trên thế giới.

19


- Nước ta đã khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do Liên
Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa bị tan vỡ và cuộc khủng hoảng khu vực gây
nên, đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu đạt
15,1 tỷ USD thì năm 2004, kim ngạch xuất khẩu là 26 tỷ USD.
- Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tranh thủ được nguồn viện trợ
chính thức (ODA) ngày càng lớn, giảm đáng kể nợ nước ngoài. Kể từ khi ban
hành luật đầu tư nước ngoài (12/1987) và sau 7 lần sửa đổi đã tăng sức hấp dẫn,
thu hút một lượng lớn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI). Tính đến cuối năm
2004, với nguồn vốn đầu tư từ hơn 75 quốc gia và vùng lãnh thổ, cả nước ta có

hơn 4.500 dự án FDI được cấp phép với tổng số vốn trên 50 tỷ USD. Ngoài
những dự án đã hết thời hạn hoạt động và một số dự án giải thể do các nguyên
nhân khách quan và chủ quan, hiện tại nước ta có trên 3670 dự án FDI có hiệu
lực với tổng số vốn trên 39 tỷ USD. Theo thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư,
trên địa bàn cả nước hiện có 2000 dự án FDI đang ở giai đoạn xây dựng cơ bản
và 70 dự án chưa triển khai. Trong đó, dự án FDI vào lĩnh vực cơng nghiệp và
xây dựng chiếm vị trí cao nhất (66%), thu hút 70% lao động và tạo ra một lượng
hàng hoá xuất khẩu chiếm trên 90% tổng giá trị xuất khẩu của khu vực này. Số
dự án vào lĩnh vực du lịch (21%0, lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp chỉ mới đạt
13% với 60% vốn thực hiện.
Ngồn vốn FDI đã góp phần thúc đẩy q trình cơng nghiệp hố, hiện đại
hố của nước ta cụ thể: góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và tạo ra 1/3
giá trị sản lượng công nghiệp của cả nước, đóng góp trên 13% GDP của cả nước,
chiếm 18% tổng số vốn đầu tư xã hội và chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu hàng
hố, ngồi ra nguồn FDI cịn tạo việc làm cho hơn 62 vạn lao động trực tiếp và
hàng chục vạn lao động gián tiếp.
Nguồn vốn viện trợ chính thức cũng ngày một gia tăng khi nước ta tham
gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tính bình qn trong những năm
2000 – 2003 hàng năm có khoảng hơn 2 tỷ USD cam kết và giải ngân được 1,5
tỷ USD. Riêng năm 2004, vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA được nhà tài trợ

20



×