Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận cao học, Toàn cầu hóa kinh tế và vấn đề chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay. Thành phố Hải Phòng với việc hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.49 KB, 26 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ diễn ra vào nửa sau thế kỷ XX đã
đưa nhân loại tiến những bước dài chưa từng có trong lịch sử, con người đã đạt
được những thành tựu lớn lao trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự tác động
mạnh mẽ của nó đã tạo ra sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất, rút ngắn
thời gian, giảm dần ý nghĩa khoảng cách không gian, thúc đẩy phân công lao
động quốc tế ngày càng sâu rộng, phát triển nhanh chóng mậu dịch quốc tế, đầu
tư và tích tụ tập trung tư bản trên phạm vi tồn cầu, dẫn đến hình thành nền kinh
tế thế giới nhất thể hóa, tồn cầu hóa hiện nay.
Tồn cầu hóa là một xu hướng nổi trội và do đó đã trở thành môi trường
của các cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước trên phạm vi toàn thế giới. Mặc
dù vậy, giữa các nước và các bộ phận xã hội ở mỗi nước vẫn đang tồn tại sự
khác biệt về nhận thức và hành động trước tồn cầu hóa. Có những nhóm xã hội
nhìn nhận tồn cầu hóa ở mặt trái của nó nên ln tìm cách phản đối, trong khi
đó lại có nhiều người coi nó là cơ hội mang lại sự tiến bộ cho mình và ra sức tận
dụng những mặt tích cực. Nhưng dù thế nào đi nữa, xu thế tồn cầu hóa nói
chung và tồn cầu hóa kinh tế nói riêng vẫn là một xu thế tất yếu, nó đã, đang và
sẽ chi phối ở các mức độ khác nhau đối với tất cả các lĩnh vực kinh tế và xã hội
của hầu hết các nước.
Cho đến nay, q trình tồn cầu hóa đang diễn ra ở phạm vi ngày càng rộng
lớn với tính chất phức tạp. Song, không hẳn mọi quốc gia, mọi người đều nhận
thức một cách thấu đáo xu thế này, kể cả những tác động tích cực, cũng như
những mâu thuẫn chứa đựng trong chính bản thân nó. Chính vì vậy, chúng ta
cần đi sâu nghiên cứu, phân tích để hiểu vấn đề tồn cầu hóa nói chung và tồn
cầu hóa kinh tế nói riêng một cách bản chất nhất trên cơ sở sự thống nhất của
các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế ở trong nước, trong khu vực và trên thế
giới. Từ đó, có cách tiếp cận đúng đắn, khoa học để vận dụng vào thực tiễn và
1


đề ra những chủ trương, đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở từng


ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương một cách hiệu quả nhất.
Từ cách tiếp cận đó, em chọn đề tài tiểu luận “ Tồn cầu hóa kinh tế và
vấn đề chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay. Thành phố
Hải Phòng với việc hội nhập kinh tế quốc tế ”
Do điều kiện thời gian và trình độ nhận thức cịn hạn chế nên trong khn
khổ tiểu luận này, em chỉ đề cập đến những vấn đề bản chất nhất của tồn cầu
hóa kinh tế; vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam nói chung và của
thành phố Hải Phịng nói riêng, từ đó tìm ra giải pháp thúc đẩy q trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Ngồi phần mở đầu và kết luận, nội dung tiểu luận được kết cấu làm
3 phần:
I/ Tồn cầu hóa kinh tế và tác động của nó tới q trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
II/ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
III/ Thành phố Hải Phòng với việc hội nhập kinh tế quốc tế.

2


NỘI DUNG
I/ TỒN CẦU HĨA KINH TẾ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NĨ TỚI Q TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1. Khái niệm và bản chất của tồn cầu hóa
Thuật ngữ “Tồn cầu hóa ” (globalisation) được George Modelski lần đầu
tiên đưa ra vào năm 1972 trong tác phẩm “ Principle of the World Politics”, cho
đến nay nó được sử dụng rất rộng rãi. Tồn cầu hóa, mà trước hết và về thực
chất là tồn cầu hóa kinh tế, đang trở thành một đặc trưng chủ yếu của sự phát
triển thế giới. Tuy nhiên, có rất nhiều quan niệm khác nhau về tồn cầu hóa kinh
tế đã được các tổ chức đưa ra.

Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD): “Tồn cầu hóa là sự
vận động tự do của các yếu tố sản xuất nhằm phân bổ tối ưu các nguồn lực trên
phạm vi toàn cầu ... là một quá trình ly tâm và là một lực lượng kinh tế vĩ mơ,
tồn cầu hóa rút ngắn khoảng cách kinh tế không những giữa các nước và khu
vực, mà cịn giữa các tác nhân kinh tế với nhau. Tồn cầu hóa cũng có khuynh
hướng làm mất sự ổn định của các tổ chức độc quyền nhóm đã được thiết lập
bằng cách làm thay đổi các “luật chơi” của cuộc đấu tranh giữa các doanh
nghiệp để chiếm lợi thế cạnh tranh trên các thị trường quốc gia cũng như thế
giới” (Tạp chí Thế giới ngoại giao - Pháp, số 7-1997).
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã định nghĩa toàn cầu hóa như là “sự phụ
thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng tăng lên của tổng thể các nước trên toàn thế
giới, do việc gia tăng khối lượng và sự đa dạng trao đổi xuyên biên giới các sản
phẩm và dịch vụ cũng như do các luồng vốn quốc tế đồng thời với việc phổ biến
công nghệ ngày càng rộng khắp” (Tạp chí Thế giới ngoại giao - Pháp, số 71997).
Mặc dù có những quan niệm khơng giống nhau về tồn cầu hóa kinh tế,
nhưng vẫn có những nét chung nhất, đó là thừa nhận mối quan hệ qua lại của
các hoạt động kinh tế hiện nay đã bao trùm gần như tất cả các nước, mang tính
3


tồn cầu. Các dịng hàng hóa, dịch vụ, vốn và nhân lực đang dịch chuyển từ
nước này đến nước khác ngày càng mạnh, càng tự do hơn; tính chất của sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ở tầm quốc tế và trong hợp tác quốc tế cũng
đạt cấp độ mới.
Từ tập hợp các quan niệm về toàn cầu hóa kinh tế, Hội thảo “Hội nhập
kinh tế quốc tế - những vấn đề lý luận và thực tiễn” đã ra khái niệm: “ Tồn cầu
hóa về kinh tế là một quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới
và các quan hệ kinh tế quốc tế vượt biên giới quốc gia, hướng tới phạm vi
toàn cầu, trong đó hàng hóa, vốn, tiền tệ, thơng tin, lao động ... vận động
thơng thống; mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia và khu vực được vận

hành theo “luật chơi” chung được xác lập giữa các thành viên trong cộng
đồng quốc tế; sự phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng; tính xã hội
hóa của sản xuất ngày càng tăng; các nền kinh tế ngày càng có quan hệ mật
thiết với nhau và tùy thuộc lẫn nhau”
Biểu hiện của q trình tồn cầu hóa kinh tế thể hiện:
Một là, sự gia tăng của luồng giao lưu quốc tế về thương mại, đầu tư, vốn,
tài chính, cơng nghệ, dịch vụ, nhân công...
Hai là, sự gia tăng liên kết toàn cầu, làm rút ngắn khoảng cách giữa các
quốc gia, tạo nên sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng chặt chẽ, trước hết về sản
xuất và thị trường nhờ tính năng động của thương mại, của sự lưu thơng vốn và
công nghệ.
Ba là, nền kinh tế của các nước trên thế giới ngày càng mở cửa và hội nhập
với nhau. Sự phát triển của kinh tế các nước trên thế giới và sự vận động của
toàn bộ nền kinh tế thế giới ngày càng ảnh hưởng và chế ước lẫn nhau.
Tồn cầu hóa kinh tế là bước phát triển cao của q trình quốc tế hóa kinh
tế - đã hình thành và phát triển qua một chặng đường lịch sử khá dài, nó bắt
nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ tính chất xã hội hóa sản xuất
trên phạm vi quốc tế.
4


Phải nói rằng giai đoạn trước khi Chủ nghĩa tư bản ra đời đã có những yếu
tố mầm mống của xu thế tồn cầu hóa, đó là giao lưu bn bán giữa các xã hội
Phong kiến với nhau. Tuy nhiên chưa đủ yếu tố để cho rằng xu thế toàn cầu hóa
đã được xác lập ở giai đoạn này, bởi vì những mối giao lưu quốc tế chủ yếu là
thương mại ở quy mô nhỏ, đơn giản trên một phạm vi địa lý giới hạn mang tính
khu vực. Chỉ sau khi có những phát kiến vĩ đại về địa lý và những tiến bộ kỹ
thuật hàng hải ở thế kỷ XV, XVI đã giúp các nước trên mọi châu lục thông
thương với nhau bằng đường biển xuyên đại dương. Đồng thời với nó là sự
chiến thắng của Chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu với nền sản xuất đại công nghiệp

thì khi đó xu thế tồn cầu hóa mới thực sự biểu hiện rõ ràng. Chủ nghĩa tư bản
càng lớn mạnh thì xu thế tồn cầu hóa càng gia tăng. Sự phát triển của xu thế
này qua các giai đoạn lịch sử theo chiều hướng ngày càng sâu rộng hơn đạt đến
những thang bậc cao hơn.
Chính vì vậy, ta có thể nói rằng tồn cầu hóa khơng phải là một vấn đề
hồn tồn mới. Trong “Tun ngơn Đảng cộng sản”, Mác và Ăngghen đã nhận
định: “Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới ... thị trường thế giới thúc
đẩy cho thương nghiệp, hàng hải, những phương tiện giao thơng phát triển mau
chóng lạ thường. Sự phát triển này tác động trở lại việc mở rộng công nghiệp;
mà công nghiệp, thương nghiệp, hàng hải, đường sắt càng phát triển thì giai cấp
tư sản càng lớn lên, làm tăng những tư bản của họ lên và đẩy các giai cấp do
thời Trung cổ để lại, xuống phía sau”
“Vì bị ln luôn thúc đẩy bởi nhu cầu về các nơi tiêu thụ sản phẩm, giai
cấp tư sản xâm lấn khắp toàn cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở
khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi
Qua khai thác thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và
tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế giới...”
Sự phát triển của tồn cầu hóa được diễn ra thành nhiều giai đoạn, trong đó
có những giai đoạn cơ bản:
5


- Từ nửa cuối thế kỷ XIX đến trước Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, xu
thế toàn cầu hóa gắn liền với sự bành trướng thị trường của các nước tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt thông qua xâm chiếm, giành giật thuộc địa.
- Từ Chiến tranh thế giới thứ nhất đến cuối những năm 40 thế kỷ XX, việc
tranh giành thị trường và thuộc địa đã dẫn đến hai cuộc chiến tranh thế giới
trước hết là những biểu hiện của tồn cầu hóa. Nói về Chủ nghĩa tư bản thời kỳ
đó chúng ta khơng thể khơng nói đến những đặc trưng mà Lênin đã nêu trong
tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của Chủ nghĩa tư bản”:

+ Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền
+ Các ngân hàng và vai trò mới của chúng
+ Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính
+ Xuất khẩu tư bản
+ Sự phân chia thế giới giữa các tập đoàn tư bản
+ Phân chia lại thế giới giữa các cường quốc
Chính từ đó, sự ra đời của giai cấp cơng nhân trên tồn thế giới, sự liên kết
giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động các nước tư bản với phong trào đấu
tranh của các dân tộc bị áp bức, sự ra đời của các nước xã hội chủ nghĩa... cũng
thuộc phạm trù toàn cầu hóa.
Tuy nhiên, nhìn từ góc độ kinh tế, xu thế tồn cầu hóa trong giai đoạn này
có sự suy giảm bởi các tác động nặng nề của hai cuộc chiến tranh thế giới và
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) và sự bùng nổ trở lại của xu thế
này từ thập niên 50 đến nửa cuối thập niên 70 của thế kỷ XX. Vào cuối thập
niên 70 đến cuối thập niên 80 thế kỷ XX, xu thế toàn cầu hóa lại có phần lắng
xuống do tác động của khủng khoảng dầu lửa - kinh tế.
- Từ cuối những năm 1980, tồn cầu hóa lại phát triển mạnh mẽ cùng với
việc kết thúc chiến tranh lạnh và sự tan rã của hệ thống Xã hội chủ nghĩa. Xu thế
hịa bình, hợp tác để phát triển trở thành xu thế chủ đạo của quan hệ quốc tế. Các
yếu tố tác động đến sự gia tăng xu thế tồn cầu hóa, đó là: cuộc cách mạng khoa
6


học-công nghệ từ cuối thập kỷ 70, sự quốc tế hóa hoạt động sản xuất kinh
doanh, chính sách tự do hóa của các nước, trong đó đặc biệt là vai trò của các
nước bá quyền và các nước tư bản chủ nghĩa phát triển phương Tây.
Xét về bản chất của tồn cầu hóa kinh tế:
Một là, tồn cầu hóa kinh tế có bản chất khách quan, gắn liền với xu thế
vận động, phát triển khách quan của nền sản xuất xã hội, là kết quả tất yếu của
sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Tính khách quan của tồn cầu hóa kinh tế được quy định bởi tính tất yếu
khách quan của q trình quốc tế hóa kinh tế, khởi đầu là lĩnh vực buôn bán
thương mại được quốc tế hóa (ví dụ: Hiệp định chung về thuế quan và thương
mại - GATT), sau đó lan sang các lĩnh vực khác, như thừa nhận và tham gia vào
các tổ chức tài chính quốc tế: Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF), và có bước phát triển mới như hình thành Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO): quốc tế hóa sản xuất và đầu tư.
Hai là, tồn cầu hóa gắn liền với sự bành trướng của Chủ nghĩa tư bản và
hiện đang bị Chủ nghĩa tư bản, nhất là các nước tư bản phát triển chi phối, lợi
dụng để phục vụ cho mục đích của họ. Hay nói cách khác, tồn cầu hóa kinh tế
hiện nay đang trong quỹ đạo của Chủ nghĩa tư bản.
Nhìn lại lịch sử q trình tồn cầu hóa qua các thời kỳ cho thấy, ở thời kỳ
Chủ nghĩa tư bản thống trị toàn thế giới, thì q trình quốc tế hóa chịu sự chi
phối hoàn toàn bởi các tập đoàn tư bản. Song, trong thời kỳ hệ thống Xã hội chủ
nghĩa còn tồn tại, quốc tế hóa kinh tế bị chi phối bởi sự hợp tác và đấu tranh
giữa hai hệ thống kinh tế thế giới: Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa. Sau
khi Liên Xô và Đông Âu tan rã, tương quan lực lượng thay đổi, tồn cầu hóa
kinh tế được thúc đẩy bởi ý đồ chủ quan của những kẻ nắm các lực lượng kinh
tế hùng hậu nhất. Tư bản phương Tây đứng đầu là Mỹ dưới chiêu bài bình đẳng,
tự do đã ln áp đặt Chủ nghĩa bá quyền về kinh tế, tài chính, kỹ thuật... có lợi
cho các nước giàu. Họ thúc đẩy tự do hóa mậu dịch, phá vỡ hàng rào mậu dịch
7


của các nước, ép buộc các nước thực hiện “mô hình kinh tế tự do” kiểu phương
Tây. Nhưng lại miễn cưỡng, trì hỗn mở cửa thị trường của nước mình cho các
nước khác. Tồn cầu hóa kinh tế thực chất là buộc các nước ở các nấc thang
phát triển rất khác nhau phải chấp nhận quy chế và quy tắc kinh tế quốc tế do
các nước lớn phương Tây, đứng đầu là Mỹ quy định.
Mặt khác, các nước này đã sử dụng những công cụ do họ thiết lập là các tổ

chức kinh tế, tài chính, thương mại (WB, IMF, WTO...) để thao túng các nước
khác và dùng lực lượng chính, đó là các cơng ty xun quốc gia để vận hành nền
kinh tế thế giới.
Tóm lại, tồn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng
nhiều nước tham gia. Xu thế này đang bị một số nước lớn và các tập đoàn kinh
tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích
cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh.
2. Những nhân tố làm nảy sinh và thúc đẩy q trình tồn cầu hóa
kinh tế
Có thể thấy những nhân tố chính làm nảy sinh và thúc đẩy q trình tồn
cầu hóa kinh tế trong giai đoạn hiện nay đó là:
Thứ nhất, bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ tính chất xã
hội hóa sản xuất trên phạm vi toàn thế giới.
Thứ hai, sự phát triển của khoa học kỹ thuật qua nhiều thời đại, đặc biệt sự
phát triển như vũ bão của khoa học-công nghệ từ nửa cuối thế kỷ XX, với sự
bùng nổ của công nghệ thông tin, hệ thống Internet... thúc đẩy q trình tồn cầu
hóa ngày càng sâu rộng.
Thứ ba, sự hình thành mạng lưới sản xuất quốc tế và vai trò ngày càng tăng
của các công ty xuyên quốc gia - lực lượng xung kích thúc đẩy tồn cầu hóa
kinh tế.
Thứ tư, sự tan rã của hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa đã làm cho các
nước phải thay đổi tư duy kinh tế và hầu hết các nước hiện nay đều chủ trương
8


hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Do vậy, tính tồn cầu của nền kinh tế ngày
càng gia tăng.
Thứ năm, các tổ chức kinh tế, tài chính, thương mại quốc tế ra đời là kết
quả của q trình tồn cầu hóa kinh tế, song, đến lượt mình, chúng trở thành
nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ q trình tồn cầu hóa kinh tế.

Thứ sáu, từ sự phát triển kinh tế đã nảy sinh những vấn đề toàn cầu như:
chiến tranh, môi trường, thiên tai, dịch bệnh, tội phạm ma túy, di dân ... địi hỏi
các nước khơng thể khoanh tay đứng nhìn, mà cần phải có sự hợp tác tồn cầu
mới có thể giải quyết được.
3. Tác động của tồn cầu hóa
Tồn cầu hóa là một q trình đầy mâu thuẫn, nó có mặt tích cực nhưng
đồng thời cũng có mặt tiêu cực:
* Tác động tích cực: Tồn cầu hóa kinh tế có tác động to lớn đối với sự
phát triển kinh tế của các nước trên thế giới, thể hiện trên một số mặt sau:
Một là, tồn cầu hóa kinh tế thúc đẩy nhanh, mạnh sự phát triển và xã hội
hóa lực lượng sản xuất, đưa lại tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, (Vào nửa đầu thế
kỷ XX, GDP của thế giới tăng 2,7 lần; đến nửa cuối thế kỷ tăng 5,2 lần). Mặt
khác, góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, làm tăng tỷ trọng hàng chế
tác và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế thế giới.
Hai là, tồn cầu hóa làm tăng thêm sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau giữa
các nền kinh tế. Kinh tế mỗi nước có thể trở thành một bộ phận của kinh tế toàn
cầu. Việc giao lưu, trao đổi hàng hóa, dịch vụ diễn ra thơng thống, có lợi cho
sự phát triển của các nước. Việc phân bổ các nguồn lực trên thế giới hợp lý và
có hiệu quả hơn.
Ba là, dưới tác động của tồn cầu hóa, những thành tựu khoa học-cơng
nghệ được chuyển giao nhanh chóng và ứng dụng rộng rãi, qua đó các nước đi
sau có điều kiện tiếp cận để phát triển rút ngắn.
9


Bốn là, tồn cầu hóa gây sức ép mạnh về cạnh tranh đối với mỗi nền kinh
tế, mỗi doanh nghiệp, nó làm thay đổi cách nghĩ, cách làm của mỗi nước, mỗi
nhà sản xuất kinh doanh.
Năm là, cùng với sự phát triển kinh tế, trình độ giáo dục của các tầng lớp
nhân dân sẽ được nâng lên, sự giao lưu về kinh tế, văn hóa giữa các nước sẽ

được đẩy mạnh. Tồn cầu hóa kinh tế góp phần vào sự nâng cao dân trí, làm cho
các dân tộc xích lại gần nhau. Đồng thời, như một hệ quả tất yếu, tồn cầu hóa
kinh tế đã tạo ra một cuộc tập hợp lực lượng rộng rãi trên phạm vi toàn cầu, đấu
tranh cho sự công bằng và tiến bộ xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích to lớn mà tồn cầu hóa kinh tế mang lại
cho tất cả các quốc gia, thì các nước trên thế giới cũng đang đứng trước những
nguy cơ, những mặt trái của nó.
* Tác động tiêu cực:
Một là, tồn cầu hóa kinh tế tạo ra sự phân phối lại của cải theo hướng có
lợi cho các nước giàu, làm cho khoảng cách giàu nghèo giữa các nước ngày
càng rộng ra.
Cụ thể: trong 50 năm qua tỷ trọng thu nhập của 20% dân số nghèo nhất
trong tổng thu nhập thế giới đã giảm từ 2,3% xuống cịn 1,4%, trong khi đó cổ
phần của 20% dân số giàu nhất thế giới tăng từ 70% lên 85%; thu nhập của 358
triệu phú đô la trên thế giới hàng năm cao hơn thu nhập của 45% cư dân nghèo
nhất (tức 2,6 tỷ người).
Chênh lệch khoảng cách về GDP bình quân đầu người giữa các nước giàu
nhất và những nước nghèo nhất đầu những năm 1960 là 31/1; đầu những năm
1990 là 61/1; đến nay là 74/1.
Mặt khác, ngay bên trong mỗi nước, kể cả những cường quốc phát triển
nhất, tồn cầu hóa kinh tế cũng đào sâu những bất bình đẳng giữa các tầng lớp
dân cư. Nó làm tăng thêm những cách biệt về thu nhập, khả năng mất an toàn về

10


việc làm. Điều đó đã giải thích nguồn gốc phong trào đấu tranh phản đối tồn
cầu hóa của nhân dân các nước này.
Hai là, nền kinh tế toàn cầu là nền kinh tế dễ bị chấn thương, sự trục trặc ở
một khâu có thể lan nhanh ra phạm vi tồn cầu. Điều đó được chứng minh ở

cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ Đơng Nam Á 1997.
Ba là, tồn cầu hóa kinh tế làm xói mịn quyền lực nhà nước, dân tộc, làm
cho quyền lực của các công ty xuyên quốc gia không ngừng tăng lên. Đặc biệt
đối với các quốc gia nhỏ yếu rất dễ bị xâm thực, chủ quyền kinh tế gắn với lợi
ích đất nước dễ bị xâm phạm.
Bốn là, nếu khơng có biện pháp đúng đắn sẽ dẫn đến tài nguyên thiên nhiên
bị khai thác cạn kiệt, lãng phí; mơi trường sinh thái bị suy thối nghiêm trọng.
Đó là nguyên nhân gây ra những hiện tượng thiên tai tàn khốc mà loài người
phải gánh chịu (như: động đất sóng thần, bão lũ,...).
Năm là, tồn cầu hóa kinh tế, khoa học-công nghệ cũng kéo theo cả sự
truyền bá nền văn hóa phi nhân bản, khơng lành mạnh, làm băng hoại đạo đức,
xâm hại bản sắc văn hóa dân tộc và nguy cơ đánh mất độc lập tự chủ của mỗi
quốc gia. Tồn cầu hóa cũng làm cho một số vấn đề tiêu cực trở nên quốc tế
hóa, như: tội phạm xuyên quốc gia, buôn bán ma túy, mại dâm, chủ nghĩa khủng
bố, bệnh dịch.
Như vậy có thể thấy, xu thế tồn cầu hóa kinh tế tác động sâu sắc tới mối
quan hệ quốc tế và quá trình hội nhập kinh tế của các nước, trong đó có Việt
Nam, biểu hiện ở chỗ các nước đều mở cửa nền kinh tế để đẩy mạnh xuất khẩu,
tranh thủ vốn, công nghệ, trình độ quản lý tiến tiến, thiết lập các quan hệ song
phương, đa phương. Đối với các nước tư bản phát triển, mục tiêu của họ là lợi
nhuận và tìm cách chi phối, khống chế thị trường thế giới, cải biến kinh tế các
nước khác theo quỹ đạo của Chủ nghĩa tư bản. Đối với các nước dân tộc chủ
nghĩa, hội nhập để có điều kiện phát triển, thốt khỏi nghèo nàn lạc hậu. Còn các
nước định hướng Xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế để tranh thủ
11


những mặt có lợi trên thị trường thế giới, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế
theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển
kinh tế so với các nước phát triển.

II/ CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

1. Chủ trương và các bước đi của Việt Nam trong q trình hội nhập
Khơng phải đến giai đoạn này chúng ta mới đặt ra yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế, mà ngay từ những năm 70 của thế kỷ XX, nước ta đã gia nhập Hội đồng
tương trợ kinh tế (SEV), tham gia Phong trào khơng liên kết, Nhóm 77,
Liên Hợp Quốc, mà một trong những nội dung căn bản là đấu tranh cho một trật
tự kinh tế thế giới công bằng. Mặc dù thời gian này, các thế lực thù địch thực
hiện chính sách bao vây cấm vận về kinh tế, cơ lập về chính trị đối với nước ta,
song, chúng ta đã ra sức thúc đẩy quan hệ hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với các
nước tư bản chủ nghĩa.
Với đường lối đổi mới kinh tế được Đảng ta đề ra tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (1986) về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, trong đó đề cập đến quan hệ kinh tế đối ngoại.
Đại hội Đảng VII(1991), trước yêu cầu cấp bách của tình hình quốc tế và
kinh tế trong nước, Đảng ta xác định “Đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối
ngoại với phương châm: Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong
cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”, đánh dấu bước
mở đầu trong tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam.
Tháng 6/1991, Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII về chính sách đối ngoại
và kinh tế đối ngoại xác định: “Cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tài
chính tiền tệ quốc tế, mở rộng hợp tác với các tổ chức khu vực, trước hết là ở
Châu Á - Thái Bình Dương”.
Khẳng định sự đúng đắn của đường lối đó, Đại hội VIII (1996) của Đảng
tiếp tục chủ trương mở rộng kinh tế đối ngoại “Chủ động tham gia cộng đồng
12


thương mại thế giới, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách

chọn lọc, với bước đi thích hợp”. Nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII đề ra
nhiệm vụ: Tích cực chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế; tiến
hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ; gia
nhập APEC và WTO; có kế hoạch cụ thể chủ động thực hiện cam kết trong
khuôn khổ AFTA.
Đại hội Đảng IX nhấn mạnh chủ trương: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”.
Như vậy đến đây, Đảng ta đã chính thức đưa ra quan điểm về chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được hiểu là tham gia hội nhập một cách
có ý thức, có chủ đích, có kế hoạch và lộ trình cụ thể; Chủ động lựa chọn các tổ
chức tham gia và các đối tác để hợp tác; Chủ động điều chỉnh luật pháp, chính
sách cho phù hợp với “luật chơi chung”; Chủ động tổ chức sản xuất và điều
hành nền kinh tế nhằm nâng cao không ngừng khả năng cạnh tranh trên thị
trường trong nước và thị trường quốc tế; Chủ động lựa chọn phương thức thực
hiện các cam kết. Tóm lại, tính chủ động được thể hiện trong việc “chọn sân
chơi” và “cách chơi” theo “luật chơi” chung.
Về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đó khơng phải là phát triển nền
kinh tế khép kín, tự cung tự cấp mà là một nền kinh tế không bị lệ thuộc vào
nước khác, vào một tổ chức quốc tế nào đó về đường lối, chính sách phát triển
kinh tế, vào những điều kiện kinh tế, chính trị mà người khác áp đặt cho mình
trong quan hệ song phương, đa phương hoặc tiếp nhận viện trợ. Trước những
chấn động của thị trường, của khủng hoảng kinh tế, tài chính từ bên ngồi, về cơ
bản vẫn giữ được sự ổn định của nền kinh tế quốc gia và định hướng xã hội chủ
nghĩa của sự phát triển. Trước sự bao vây, cô lập và chống phá về kinh tế, chính
13



trị của các thế lực thù địch từ bên ngoài, đất nước vẫn trụ vững, không bị khủng
hoảng về kinh tế, chính trị. Độc lập tự chủ về kinh tế ở nước ta đồng nghĩa với
việc đảm bảo vững chắc cho định hướng xã hội chủ nghĩa theo đường lối chủ
trương của Đảng đề ra, khơng có bất kỳ sự áp đặt nào từ bên ngoài.
Tuy nhiên để đảm bảo nền kinh tế độc lập tự chủ, đòi hỏi chúng ta phải có
đường lối, chính sách độc lập tự chủ về phát triển kinh tế-xã hội phù hợp với
điều kiện cụ thể trong nước và bối cảnh quốc tế; phải có thực lực kinh tế đủ
mạnh thể hiện ở tích lũy tái sản xuất mở rộng trong toàn bộ nền kinh tế, ở sức
cạnh tranh cao của hàng hóa, dịch vụ, của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh
tế quốc dân; ở các yếu tố vật chất cần thiết đảm bảo an toàn và điều kiện cơ bản
cho sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; phải có sự quản lý, điều hành
nền kinh tế đúng đắn.
Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 27.11.2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị
quyết số 07-NQ/TW về Hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết 07 nêu rõ mục
tiêu: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ
thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta phải thực hiện chính sách kinh
tế mở, tham gia vào các tổ chức kinh tế, tài chính khu vực và thế giới, nhất là
WTO và tự do hóa thương mại hàng hóa, mở cửa thương mại dịch vụ, gia tăng
các luồng giao lưu quốc tế và vốn, đầu tư, tài chính, cơng nghệ... thơng qua đó
mà thiết lập các mối quan hệ thương mại, đầu tư, khoa học-công nghệ với các
nước trên thế giới dưới các hình thức song phương hay đa phương.
Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều lợi ích đa dạng cho Việt Nam, đó
là: thúc đẩy q trình cải cách và đổi mới kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh
của các doanh nghiệp trong nước; tránh được tình trạng bị phân biệt đối xử;
được hưởng lợi từ các ưu đãi về mở cửa thị trường; thu hút vốn đầu tư và
14



chuyển giao kỹ thuật công nghệ cao; nâng cao vị thế quốc tế cho Việt Nam, tạo
ra khả năng tăng cường thế và lực trong thương mại quốc tế.
Song, chính hội nhập kinh tế quốc tế cũng đang đặt ra nhiều thách thức
buộc chúng ta phải đối mặt, đó là: vị thế kinh tế của nước ta thấp hơn nhiều
nước trong khu vực và thế giới; việc tuân thủ các nguyên tắc của WTO, các cam
kết trong thực hiện AFTA, APEC, ASEM... về cắt giảm thuế nhập khẩu; sức ép
lớn trong cạnh tranh quốc tế khi cơ chế thị trường và luật pháp ở nước ta đang
trong q trình hồn thiện; sức ép của sự bành trướng về kinh tế của các công ty
xuyên quốc gia...
* Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế:
Từng bước hội nhập vào kinh tế thế giới và khu vực là sự phát triển tất yếu
của nền kinh tế nước ta theo đường lối đổi mới của Đảng, phù hợp với quy luật
phát triển chung của lịch sử nhân loại. Năm 1993, nước ta đã khai thông quan hệ
với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế, như: IMF, WB, ADB. Ngày 25.7.1995,
nước ta chính thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN),
đồng thời gia nhập Khu vực mậu dịch tự do của khối này (AFTA). Tháng
3/1996, nước ta đã tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế Á - ÂU (ASEM) với tư
cách là thành viên sáng lập. Ngày 15.6.1996, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và tháng 11/1998
được cơng nhận là thành viên chính thức của tổ chức này.Tháng 12/1994, chúng
ta gửi đơn xin gia nhập WTO. Đến cuối năm 2005, nước ta tiến hành phiên đàm
phán thứ 10 và mục tiêu gia nhập tổ chức này vào năm 2006. Ngày 13.7.2000,
nước ta đã ký Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định này chính
thức có hiệu lực từ 10.12.2001.
2. Những thành tựu đạt được và tồn tại cần khắc phục
Thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế mở đa dạng hoá, đa phương hoá
các quan hệ kinh tế đối ngoại, Việt Nam đã từng bước hội nhập vào nền kinh tế
thế giới và đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Cho đến nay, Việt Nam đã có
15



quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước, mở rộng quan hệ thương mại với hơn 155
nước; Ký hiệp định thương mại song phương với gần 90 quốc gia; Thu hút đầu
tư trực tiếp của các tập đoàn và các công ty của 70 nước và vùng lãnh thổ đạt
65,1 tỷ USD vốn đăng ký. Chúng ta cũng đã tranh thủ nguồn viện trợ phát triển
chính thức (ODA) của gần 50 nước và các định chế tài chính quốc tế (IMF, WB,
ADB) đạt 32 tỷ USD vốn cam kết.
Nước ta đã gia nhập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), cam kết
thực hiện Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) loại bỏ hàng
rào phi thuế quan và cắt giảm thuế quan xuống 0 đến 5% vào năm 2006 với các
nước thành viên ASEAN; Đồng thời chúng ta đã là thành viên của Diễn đàn hợp
tác Á-Âu (ASEM), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC),
tham gia vào các hoạt động của diễn đàn này sẽ thúc đẩy q trình tự do hố và
thuận lợi hoá thương mại, dịch vụ, đầu tư giữa các nước.
Mục tiêu của chúng ta trong thời gian tới là được tham gia vào tổ chức kinh
tế lớn nhất thế giới - Tổ chức thương mại thế giới (WTO), chính vì vậy thời gian
qua nước ta đã xúc tiến đàm phán đa phương và song phương với các nước
trong lộ trình gia nhập WTO.
Mặc dù những kết quả, những thành tựu mà chúng ta đạt được trong quá
trình mở cửa, hội nhập là không thể phủ nhận. Song, trên thực tế, trong q trình
thực hiện vẫn cịn nhiều vấn đề bất cập đặt ra đòi hỏi phải khắc phục nhanh
chóng, có vậy mới thúc đẩy hội nhập ngày càng hiệu quả. Những vấn đề đó
được Hội nghị TW 9 Khố IX nhận định là:
- Chưa làm tốt cơng tác chuẩn bị khi tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
chuyển qua giai đoạn mới.
- Chưa hoàn thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập
kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết
quốc tế.


16


- Hệ thống luật pháp, chính sách quản lý kinh tế thương mại chưa hoàn
chỉnh, chưa đồng bộ.
- Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn rất thấp.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH còn chậm.
- Việc thực hiện chính sách phát triển các thành phần kinh tế tuy đã tiến
bộ nhưng thiếu nhất quán, chưa khai thác tốt các nguồn lực, nhất là
trong dân.
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN chậm được hoàn thành
đồng bộ.
- Cơ chế quản lý kinh tế còn nhiều bất cập, hiệu quả quản lý nhà nước
còn thấp.
- Đội ngũ cán bộ yếu, công tác tổ chức, chỉ đạo chưa thích hợp
Có thể chỉ ra ngun nhân của những yếu kém trên là do một bộ phận đảng
viên, cán bộ và dân chúng chưa nhận thức được xu hướng tất yếu của tồn cầu
hóa, cũng như thời cơ và thách thức mà nó đặt ra. Chưa thấu suốt về chủ trương
hội nhập kinh tế quốc tế, việc lãnh đạo, triển khai còn chậm trễ, lúng túng, chưa
kiên quyết, chưa nhất quán. Công tác tuyên truyền phổ biến chủ trương, chính
sách chưa sâu sát và hiệu quả. Nhiều doanh nghiệp ỷ lại vào sự bảo hộ của nhà
nước, chưa chuẩn bị sẵn sàng để tham gia hội nhập, thậm chí cịn đứng ngồi
“cuộc chơi”. Chúng ta cũng chưa đánh giá hết những tác động phức tạp của toàn
cầu hóa, của sự phát triển khoa học-cơng nghệ và thơng tin nên phản ứng chậm
chạp, bị động trước tình hình.
Vậy trước những khó khăn, tồn tại đang đặt ra, chúng ta cần phải nỗ lực
vươn lên, đồng thời phải đề ra những giải pháp mang tính khả thi để giải quyết
những trở ngại trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Những giải pháp chủ yếu thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam

17


Là một nước có nền kinh tế kém phát triển, đứng trước xu thế tồn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, thách thức đến với
chúng ta sẽ không nhỏ. Tuy nhiên khơng vì thế mà Việt Nam bỏ qua những cơ
hội thuận lợi để tham gia quá trình này. Trái lại, việc triển khai có hiệu quả
những giải pháp sau sẽ giúp chúng ta vượt qua khó khăn thử thách để chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế:
Một là, tổ chức thông tin, tuyên truyền sâu rộng trong xã hội về những cơ
hội và thách thức to lớn mà xu thế tồn cầu hóa đặt ra đối với nước ta. Đồng
thời, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về hội nhập
trong các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, các tầng lớp nhân dân, đặc biệt
trong các doanh nghiệp.
Hai là, tiến hành xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật, rà sốt lại tồn bộ
cơ chế, chính sách thương mại cho phù hợp với luật pháp và các định chế
quốc tế.
Ba là, hoàn thiện chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như
xây dựng và thực hiện lộ trình để chủ động hội nhập.
Đối với chiến lược hội nhập ở cấp độ vĩ mô phải gắn kết các ngành, các địa
phương trong cả nước; có chính sách ưu tiên đối với những sản phẩm chiến
lược.
Đối với chiến lược hội nhập cấp độ doanh nghiệp phải xác định được điểm
mạnh, yếu của mình trong mối tương quan với đối thủ cạnh tranh để từ đó xây
dựng chiến lược kinh doanh.
Vấn đề quan trọng đặt ra là phải nâng cao sức cạnh tranh của từng sản
phẩm, từng doanh nghiệp và của cả nền kinh tế.
Bốn là, đặc biệt coi trọng việc bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực, phẩm
chất của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại và quản lý
doanh nghiệp để họ có đủ sức, đủ bản lĩnh thực hiện tốt các nhiệm vụ theo đúng

đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước.
18


Năm là, kết hợp hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại và củng
cố an ninh - quốc phòng. Đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao phục vụ kinh tế
đối ngoại và đảm bảo hội nhập kinh tế quốc tế không gây ảnh hưởng xấu tới
nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và an toàn xã hội. Mặt khác, tăng cường an
ninh - quốc phòng để thúc đẩy quá trình hội nhập hiệu quả.
Sáu là, xúc tiến việc đàm phán và tích cực chuẩn bị mọi mặt để gia nhập
WTO. Việc tham gia vào tổ chức này sẽ đánh dấu bước thành công to lớn của
Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế.
Bảy là, tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ; tranh thủ
đầu tư và trợ giúp kỹ thuật của các nước và các tổ chức quốc tế.
III/ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG VỚI VIỆC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1. Những thuận lợi và khó khăn của thành phố Hải Phịng trong q
trình hội nhập kinh tế quốc tế
* Thuận lợi:
Hải Phòng là một trong những địa phương có tư duy về kinh tế hàng hóa,
kinh tế thị trường và tư tưởng hội nhập từ rất sớm. Đời sống kinh tế-xã hội có
những chuyển biến tích cực theo hướng dân chủ hóa. Tốc độ tăng trưởng GDP
của Hải Phòng khá ổn định. Đời sống nhân dân được nâng lên, dung lượng thị
trường được mở rộng. Tính hấp dẫn của môi trường đầu tư được cải thiện.
Nằm ở biển Đông Bắc của Việt Nam, cách Hà Nội 102 km, Hải Phòng là
thành phố lớn thứ 3 cả nước, được xếp vào đô thị loại I và là cảng biển lớn nhất
miền Bắc Việt Nam. Cảng Hải Phịng có trang bị hiện đại, an toàn theo tiêu
chuẩn quốc tế.
Với diện tích 1.519 km2, có 2 huyện đảo (Cát Hải và Bạch Long Vĩ), Hải
Phòng là trung tâm thương mại, giao thông vận tải quan trọng của miền Bắc, là

cầu nối giữa các tỉnh phía Bắc với thị trường thế giới thông qua hệ thống cảng
biển.

19


Hải Phịng có cơ sở hạ tầng giao thơng vận tải khá phát triển, có điều kiện
để phát triển đủ các loại hình giao thơng đối nội và đối ngoại (mạng lưới đường
bộ qua quốc lộ 5, quốc lộ 10; mạng lưới đường sắt Hải Phòng-Hà Nội-Lào Cai
nối liền với Cơn Minh-Trung Quốc; mạng lưới đường sơng; đường biển,...)
Bưu chính viễn thông với mạng lưới và thiết bị hiện đại, Hải Phịng có khả
năng cung cấp những dịch vụ viễn thơng quốc tế và trong nước với nhiều hình
thức khác nhau và có dịch vụ chuyển phát nhanh sang các nước láng giềng và
nhiều tỉnh, thành trong cả nước.
Thêm vào đó, Hải Phịng cịn có khu cơng nghiệp Nomura nằm trên quốc lộ
5 được coi là tốt nhất Việt Nam về cơ sở hạ tầng với diện tích 153 ha. Khu kinh
tế Đình Vũ nằm gần cảng nước sâu với diện tích gần 1.152 ha gồm 3 phần: khu
vực chế biến xuất khẩu, khu công nghiệp và khu dân cư.
Là một thành phố cảng, thành phố công nghiệp của cả nước, Hải Phịng cịn
là địa phương có nhiều tiềm năng về phát triển du lịch (với Khu dự trữ sinh
quyển quốc gia Cát Bà, Khu du lịch vui chơi giải trí Đồ Sơn, Suối nước nóng
Tiên Lãng ...), ni trồng và chế biến thủy-hải sản phục vụ cho xuất khẩu.
Về lực lượng lao động của Hải Phòng, trong 1.770.800 dân hiện có 850.756
người đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân trên địa bàn thành phố,
trong đó có 216 tiến sĩ, 807 thạc sĩ, 33.174 đại học, 38.530 Trung học chun
nghiệp, 75.012 cơng nhân kỹ thuật.
* Khó khăn:
Cơ chế thị trường mặc dù đã được hình thành và đã phát huy tác dụng tích
cực, song chưa hồn chỉnh và đồng bộ, còn nhiều khiếm khuyết, làm giảm vai
trò động lực tăng trưởng của cơ chế thị trường, thậm chí làm phát tán tác động

tiêu cực - mặt trái của cơ chế thị trường (buôn lậu, gian lận thương mại, cạnh
tranh không lành mạnh, vi phạm quyền sở hữu công nghiệp, nạn hàng giả, hàng
nhái và những gian lận trong chấp hành chế độ kế tốn, thuế và tín dụng khác).

20



×