Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh thời kỳ 2009 – 2010 của công ty cổ phần Sơn Chinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.99 KB, 83 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Sự tồn tại của bất kỳ một tổ chức nào cũng đều có mục đích, trong nền kinh tế thị
trường mục đích của các doanh nghiệp là lợi nhuận. Cơ chế thị trường luôn mở ra rất
nhiều cơ hội để tìm kiếm lợi nhuận song cũng đầy cạm bẫy rủi ro. Muốn thành công
doanh nghiệp phải tận dụng các cơ hội kinh doanh phù hợp với nguồn lực vốn hạn
chế của mình, biết nhìn xa trông rộng và kiểm soát được các hoạt động kinh doanh.
Để đạt được mục đích doanh nghiệp cần vạch ra cho mình một kế hoạch đúng đắn
phù hợp trong thời kỳ kinh doanh, phải thiết lập được hệ thống các mục tiêu và tiến
hành thực hiện kiểm tra giám sát việc thực hiện các mục tiêu đã đề ra đó là nhiệm vụ
của việc thực hiện kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Tiến hành thực hiện kế
hoạch giúp cho doanh nghiệp đối phó được với những biến đổi trong nội bộ doanh
nghiệp cũng như môi trường kinh doanh. Mỗi một doanh nghiệp trong quá trình hoạt
động của mình phải xây dựng được một kế hoạch kinh doanh đây là một vấn đề hết
sức phức tạp đòi hỏi phải tính đến các vấn đề thuận lợi khó khăn bên trong bên ngoài
doanh nghiệp trên cơ sở chiến lược kinh doanh đã đề ra của công ty sao cho hoạt
động kinh doanh của công ty đạt hiệu quả cao nhất. Trong nền kinh tế thị trường để
thích ứng với môi trường thay đổi doanh nghiệp muốn thành công phải có khả năng
ứng phó với mọi tình huống. Điều này đòi hỏi nhà quản trị phải nắm bắt được những
xu thế đang thay đổi tìm ra những yếu tố then chốt đảm bảo thành công biết khai thác
những ưu thế tương đối hiểu được những điểm mạnh điểm yếu của mình và các đối
thủ cạnh tranh. Hiểu được các mong muốn của khách hàng và khả năng đáp ứng của
công ty biết cách tiếp cận thị trường nhằm tìm ra các cơ hội kinh doanh từ đó vạch ra
kế hoạch kinh doanh đúng đắn.
Sau hơn 15 năm đổi mới đất nước ta đã dành được nhiều thành tựu to lớn và rất
quan trọng nhất là trong lĩnh vực kinh tế . Ở trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân
chúng ta có thể thấy được tình hình sản xuất kinh doanh liên tục được đổi mới và
phát triển một trong số những ngành kinh tế điển hình là ngành công nghiệp dệt may
Việt nam. Với mục tiêu nghiên cứu những vấn đề lý luận, phương pháp luận và
phương pháp cụ thể để xây dựng kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp trong ngành
1
dệt may Việt Nam, bên cạnh đó tìm ra một số định hướng về xây dựng kế hoạch sản


xuất kinh doanh của công ty cổ phần Sơn Chinh ( sản xuất hàng may mặc) thời kỳ
2009 – 2010 em đã đi sâu nghiên cứu đề tài “xây dựng kế hoạch sản xuất kinh
doanh thời kỳ 2009 – 2010 của công ty cổ phần Sơn Chinh”.
Đây là một chuyên đề phức tạp đòi hỏi tính thực tế cao với trình độ và thời gian
hạn chế nên chuyên đề tốt nghiệp của em không khỏi tránh những thiếu sót. Rất
mong được sự quan tâm góp ý của các thầy cô trong khoa kế hoạch và phát triển
trường đại học kinh tế quốc dân.
Em xin cảm ơn GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ gợi ý
sửa chữa cho em trong suốt quá trình em viết chuyên đề này
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo công ty các phòng ban chức năng
đặc biệt là phòng kế hoạch kinh doanh của công ty cổ phần Sơn Chinh đã tạo điều
kiện thuận lợi, hướng dẫn và cung cấp tài liệu cho tôi trong thời gian tôi thực tập tại
công ty để tôi có thể hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
2
CHƯƠNG I
VAI TRÒ NỘI DUNG CỦA CÔNG TÁC XÂY DỰNG
KẾ HOẠCH KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
I- VAI TRÒ CỦA KẾ HOẠCH KINH DOANH TRONG
HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
1- Tính tất yếu và bản chất của kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp
Kế hoạch kinh doanh được coi là một văn bản trong đó phác thảo ra những gì sẽ
làm trong thời gian tới: đó là những gì mua vào, sản xuất, bán ra và bán cho ai cần
nguồn nhân lực vật lực như thế nào để công ty tồn tại và phát triển .
Sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang xây dựng cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước đã và đang đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần
phải nghiên cứu và giải quyết. Một trong những vấn đề đó là lĩnh vực kế hoạch hóa .
Trong những năm chuyển đổi vừa qua có không ít những những ý kiến bàn luận khác
nhau về vai trò và sự tồn tại khách quan của công tác này. Một số ý kiến cho rằng:
trong nền kinh tế thị trường cơ chế quản lý mới này không có chỗ cho công tác kế
hoạch hóa, tức là kế hoạch không thể tồn tại trong cơ chế thị trường, công tác này chỉ

phù hợp trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp. Một số ý kiến khác lại cho
rằng: giờ đây khi thị trường trực tiếp điều tiết chỉ dẫn cho các doanh nghiệp trong các
hoạt động nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế cơ bản, dù trong điều kiện nào công
tác kế hoạch hóa nói chung và công tác kế hoạch hóa trong các doanh nghiệp nói
riêng vẫn tồn tại như một khâu, một bộ phận của hoạt động quản lý và là một trong
những yếu tố cấu thành cơ chế quản lý. Khi môi trường và điều kiện hoạt động thay
đổi cùng với các bộ phận khác của cơ chế quản lý mới thay đổi công tác kế hoạch
hóa cũng được nghiên cứu và đổi mới cho phù hợp.
Những bài học thực tiễn trong cơ chế quản lý cũ không phải ít, với cơ chế điều
hành cứng nhắc từ trên xuống dưới thể hiện ở các chỉ tiêu pháp lệnh thông qua hệ
thống kế hoạch pháp lệnh đã để lại sự ăn mòn trong công tác xây dựng kế hoạch kinh
3
doanh của các doanh nghiệp mà đến nay vẫn chưa xóa nhòa được, hậu quả của cơ
chế cũ là làm cho các doanh nghiệp không biết đến thị trường đi ngược lại với cơ chế
của thị trường như quy luật cung cầu, quy luật giá cả…do đó điều hành sản xuất kinh
doanh thiếu linh hoạt nhà sản xuất không biết đến nhu cầu của người tiêu dùng sản
xuất kinh doanh không gắn liền với hiệu quả kinh tế, trong giai đoạn này các doanh
nghiệp chỉ quan tâm xem có hoàn thành được kế hoạch hay không. Trong khi đó cơ
chế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt giữa các đơn vị kinh tế thì hiệu quả kinh tế là
mục tiêu hàng đầu, là mục tiêu bao trùm lên tất cá các mục tiêu khác. Kế hoạch cho
phép các doanh nghiệp biết đến hướng đi trong thời gian tới, nó không chỉ quan tâm
đến vấn đề tài chính mà còn xem xét các hoạt động khác của công ty như thị trường
khách hàng, sự biến động của môi trường kinh doanh…và những thay đổi có thể xẩy
ra, công ty có cách ứng phó như thế nào trước sự thay đổi đó. Ngoài ra kế hoạch kinh
doanh còn là cơ sở để ngân hàng xem xét có nên cho công ty vay vốn để sản xuất
kinh doanh hay không vì bản kế hoạch kinh doanh sẽ cho ngân hàng thấy được trong
tương lai công ty sẽ mở rộng và phát triển đến đâu, trong trường hợp này bản kế
hoạch kinh doanh thực sự có ý nghĩa.
Thực tế hoạt động quản lý của doanh nghiệp trong những năm vừa qua đã đem lại
những bài học kinh nghiệm quý giá nếu như coi thường các yêu cầu của công tác kế

hoạch hóa, các phương thức hoạch toán kinh doanh, đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ sẽ dẫn đến cách làm tùy tiện, thiếu kỷ cương, mạnh ai nấy làm không thể kiểm
soát được. Thực tế này đã dẫn đến một thực trạng thiếu ổn định trong công tác quản
lý kế hoạch hóa doanh nghiệp: khi thì dân chủ quá dẫn đến “dân chủ quá tròn” khi thì
gò bó cứng nhắc, quá nguyên tắc làm cho hoạt động kinh tế thiếu linh hoạt.
Trong thực tế ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển họ đều quan tâm đến
công tác lập kế hoạch ở cấp doanh nghiệp, họ đánh giá đúng vai trò vị trí xác định rõ
chức năng và tổ chức nghiên cứu thực thi nhiều giải pháp nhằm thực hiện, hoàn chỉnh
công tác này. Qua những thử nghiệm và đánh giá các nhà kinh tế học nhận định rằng:
hoạt động kế hoạch hóa của doanh nghiệp là sự cần thiết nhằm thực hiện hai mục
đích là tận dụng các cơ hội nhằm phát triển khả năng thành công trong hoạt dộng sản
4
xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tránh các rủi ro đe dọa của môi trường đến các
doanh nghiệp. Và thực tế ngày nay trong các doanh nghiệp công tác kế hoạch hóa
được quan tâm hàng đầu bởi lẽ hoạt động này giúp cho các công ty các doanh nghiệp
hoạch định đúng mục tiêu hoạt động dự báo đúng khả năng và nguồn lực của doanh
nghiệp xây dựng và đánh giá các phương án hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu
sản xuất kinh doanh đã đăt ra cho năm kế hoạch.
Khái niệm về kế hoạch kinh doanh
Trong nền kinh tế quốc dân có thể phân biệt hai loại kế hoạch đó là kế hoạch kinh
tế xã hội của chính phủ và kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Kế hoạch sản xuất kinh doanh là dự định chiến lược về hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp trong một thời gian nhất định. Kế hoạch này do doanh nghiệp vạch ra
trên định hướng của kế hoạch kinh tế xã hội của chính phủ dựa trên nguồn lực và thị
trường của doanh nghiệp. Kế hoạch sản xuất kinh doanh phải đạt được mục tiêu và
đảm bảo nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ xã hội vừa đảm bảo được lợi nhuận tối đa
để tái sản xuất kinh doanh mở rộng thị trường. Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi mới
thành lập cũng phải vạch cho mình một kế hoạch kinh doanh cụ thể với những chiến
lược mục tiêu rõ ràng để thực hiện việc kinh doanh có hiệu quả, kết quả đó phải phù
hợp với nguồn lực của mình. Đối với doanh nghiệp nào đã xây dựng được chiến lược

kinh doanh thì kế hoạch kinh doanh nhằm cụ thể hóa các mục tiêu chiến lược cho
một thời kỳ kinh doanh.
2- Các bộ phận cấu thành kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp
Kế hoach kinh doanh bao gồm ba bộ phận cơ bản: kế hoạch hóa mục tiêu, kế
hoạch nguồn lực và cách đạt được mục tiêu, kế hoạch hóa chính sách xã hội và phân
phối các kết quả đạt được.
Kế hoạch mục tiêu của doanh nghiệp là việc doanh nghiệp đề ra các kết quả kinh
doanh cần phấn đấu để đạt được trong thời gian kế hoạch.
Các chỉ tiêu của kế hoạch mục tiêu là các kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
như: tổng sản lượng, tổng doanh thu,lợi nhuận, các khoản nộp ngân sách nhà nước
(đối với doanh nghiệp nhà nước).
5
Yêu cầu của chỉ tiêu nói trên được căn cứ vào mối quan hệ tác động giữa chúng,
xuất phát từ tình hình thực tế năm trước, tháng trước, xuất phát từ nhu cầu của thị
trường qua kết quả nghiên cứu thị trường, từ kế hoạch của nhà nước(đối với các
doanh nghiệp nhà nước).
Quá trình xây dựng mục tiêu chính là tính toán và phân tích chỉ số tuyệt đối tương
đối của từng chỉ tiêu tổng quát và các bộ phận cấu thành chỉ tiêu (như tổng doanh
thu, doanh thu sản phẩm,doanh thu từ các dịch vụ…) đồng thời phân tích các tỷ trọng
của bộ phận cấu thành nhằm rút ra các giải pháp chính xác, đúng đắn nhằm nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Xác định tỷ suất lợi nhuận theo
doanh thu, chi phí…. Nhằm so sánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị qua các
năm.
Kế hoạch các nguồn lực và cách để đạt được mục tiêu (chủ trương, biện pháp)
Để đạt được các mục tiêu đề ra doanh nghiệp cần phải có nguồn lực (con người,
vốn, công nghệ, đất đai…) để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn lực
này không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có sẵn mà phải huy động, chính vì vậy mà
ngay từ khi triển khai thực hiện kế hoạch doanh nghiệp cần phải có chính sách từng
bước huy động các nguồn lực với chất lượng cần thiết cho việc thực hiện các mục
tiêu đã đề ra.

Bộ phận kế hoạch nguồn lực là kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản, kế hoạch trang
thiết bị công nghệ cơ sở vật chất phục vụ sản xuất và quản lý, kế hoạch nguồn vốn,
kế hoạch phát triển nguồn nhân lực (kế hoạch đào tạo, kế hoạch lao động tiền lương).
Bên cạnh đó là việc hệ thống hóa chính sách marketing, chính sách tiêu thụ sản
phẩm, chính sách phát triển các dịch vụ trong và sau khi bán hàng…nhằm đẩy nhanh
tốc độ hoàn thiện kế hoạch.
Giữa kế hoạch mục tiêu và kế hoạch nguồn nhân lực cho sự phát triển có mỗi
quan hệ phụ thuộc với nhau. Kế hoạch mục tiêu là cơ sở cho kế hoạc nguồn nhân lực
ngược lại kế hoạch nguồn nhân lực là điều kiện để có thể đạt được kế hoạch mục
tiêu. Nếu nguồn lực không cho phép thì các chỉ số của kế hoạch mục tiêu bắt buộc
cần phải giảm bớt đi, ngược lại nếu nguồn lực huy động được vượt quá sự cần thiết
6
để hoàn thành kế hoạch và thể dẫn đến sự lãng phí nguồn lực, đặc biệt là yếu tố con
người.
Xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch trong kế hoạch nguồn nhân lực là việc xác định
các thông số kỹ thuật, kinh tế hoặc các thông số về nguồn nhân lực cần đạt được
trong thời gian tới, với tiến độ kịp thời có lợi nhất cho việc thực hiện kế hoạch mục
tiêu. Kế hoạch đầu tư cần có sự chi tiêu cụ thể tránh sự chồng chéo, chậm trễ hay
lãng phí.
Kế hoạch các chính sách xã hội và phân phối các kết quả kinh doanh là việc
hoàn thành các nghĩa vụ đối với nhà nước (đối với các doanh nghiệp nhà nước) việc
thực hiện các hoạt động mang tính chất tích cực nâng cao phúc lợi cho người lao
động chủ yếu là các chính sách an toàn lao động, khen thưởng, trợ cấp, giúp đỡ người
lao động khi gặp khó khăn…các chính sách này được thực hiện bằng cách trích lập
các quỹ cho người lao động, các quỹ này được lấy từ lợi nhuận mà doanh nghiệp
kiếm được.
Yêu cầu của kế hoạch phân phối kết quả kinh doanh là phải xử lý thỏa đáng các
mối quan hệ giữa nhà nước doanh nghiệp và người lao động. Trong nội bộ doanh
nghiệp khi phân bổ vào các quỹ cũng cần có sự tương xứng thích đáng với vai trò và
tầm quan trọng trong mỗi quý. Việc xử lý thỏa đáng các mỗi quan hệ bên trong bên

ngoài doanh nghiệp có tác động rất lớn đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
3- Các loại kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp và mối quan hệ
giữa các kế hoạch kinh doanh đó
Trong các hoạt động thực tế, hệ thống kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường rất đa dạng và phong phú có thể phân loại theo nhiều tiêu
thức khác nhau
3.1- căn cứ vào tiêu thức thời gian
Kế hoạch chiến lược (thường gọi là chiến lược) nhằm xác định các lĩnh vực mà
công ty sẽ tham gia, đa dạng hóa hoặc cải thiện hoạt động trên các lĩnh vực hiện tại,
xác định các mục tiêu các giải pháp dài hạn cho các vấn đề như đầu tư nghiên cứu
phát triển, con người…
7
Kế hoạch trung hạn: thường 2,3 năm nhằm phác thảo chương trình trung hạn để
thực hiện kế hoạch dài hạn, tức là để đảm bảo tính khả thi của lĩnh vực mục tiêu,
chính sách và giải pháp được hoạch định trong chiến lược đã chọn.
Chương trình kế hoạch hàng năm : tùy theo cách tiếp cận của kế hoạch chiến lược
và kế hoạch trung hạn cách cụ thể hóa các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh hàng năm
có thể được xác định theo chương trình hoặc kế họach năm. Cho dù kế hoạch năm
được xác định như thế nào thì bản chất của nó vẫn là sự cụ thể hóa nhiệm vụ sản xuất
kinh doanh căn cứ vào định hướng mục tiêu chiến lược và kế hoạch trung hạn, căn cứ
vào kết quả điều chỉnh nghiên cứu các căn cứ để có được kế hoạch phù hợp với điều
kiện kế hoạch năm.
Kế hoạch tác nghiệp và dự án: để triển khai các mục tiêu hoạt động sản xuất kinh
doanh các công ty cần hoạch định kế hoạch tác nghiệp và các phương án. Các kế
hoạch tác nghiệp ( có thể theo sản phẩm, theo lĩnh vực, theo bộ phận sản xuất hoặc
tiến độ thời gian). Gắn liền với việc triển khai các phương án kế hoạch là các dự án
về cải tạo hiện đại hóa dây chuyền công nghệ, đào tạo nghiên cứu phát triển…gắn
liền với việc thực thi các chương trình hoặc các chương trình đồng bộ có mục tiêu.
3.2- Căn cứ vào mối quan hệ giữa các hoạt động kế hoạch hóa phạm vi
doanh nghiệp có:

Bộ phận kế hoạch mục tiêu: đây là bộ phận kế hoạch quan trọng nhất của doanh
nghiệp có nhiệm vụ hoạch định các mục tiêu về sản xuất, thị trường, quy mô và cơ
cấu các hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, bộ phận kế hoạch mục tiêu
cũng xác định các mục tiêu tài chính cư bản nhằm xác định hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh gắn liền với từng phương án được hoạch định.
Các kế hoạch điều kiện hỗ trợ về vốn, vật tư, nhân lực, tiền lương… xác định
chính sách, giải pháp, phương hướng huy động khai thác các khả năng nguồn lực
nhằm thực hiện có hiệu quả các phương án kế hoạch mục tiêu và gắn kiền với kế
hoạch mục tiêu. Việc xác định các kế hoạch này nhằm đảm bảo tính đồng thời trong
mục tiêu, giải pháp và các điều kiện thực hiện các kế hoạch quản lý. Độ dài thừi gian
và yêu càu của các kế hoạch mục tiêu sẽ quyết định các vấn đề tương lai của các kế
8
hoạch điều kiện. Cuối cùng việc xây dựng và thực hiện các kế hoạch điều kiện là
nhằm đảm bảo và nâng cao tính khả thi của các phương án và các chương trình kế
hoạch của doanh nghiệp.
Về mặt logic kế hoạch kinh doanh là kế hoạch mở đầu của một quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh có một vai trò hết sức quan trọng vì nó lập ra mục tiêu lập
ra phương hướng để doanh nghiệp đi đến mục tiêu. Để tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh doanh nghiệp cần phải tiến hành thực hiện đồng bộ các kế hoạch tổng
hợp kinh doanh – kỹ thuật – tài chính – xã hội, giữa các kế hoạch bộ phận có mỗi
quan hệ khăng khít với nhau trong đó kế hoạch kinh doanh đóng vai trò quan trọng là
kế hoạch trung tâm của các kế hoạch khác.
Kế hoạch kinh doanh là cơ sở để tính toán để xây dựng các chỉ tiêu của kế hoạch
khác như kế hoạch tài chính, kế hoạch chi phí, kế hoạch sử dụng lao động kế hoạch
tiền lương, kế hoạch khách hàng…
Kế hoạch kinh doanh là căn cứ để tính các chỉ tiêu về hoạt động kinh doanh như
doanh thu, lợi nhuận, năng suất lao động…
4- Vai trò của kế hoạch kinh doanh trong hoạt động kinh doanh cảu
doanh nghiệp
Trong phạm vi doanh nghiệp kế hoạch là chức năng đầu tiên và quan trọng trong

quản lý doanh nghiệp. Theo Hanry Foyol: “ doanh nghiệp chỉ thu được kết quả khi nó
hướng dẫn bởi một chương trình hoạt động một kế hoạch nhất định nhằm xác định
rõ: sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Với nguồn tài chính
nào?”.
Trước kia trong cơ chế bao cấp các chỉ tiêu kế hoạch được cơ quan cấp trên giao
xuống theo nhiệm vụ của từng ngành do đó không sát với thực tế của doanh nghiệp
trong quá trình thực hiện phải có sự điều chỉnh mới có thể thực hiện được, làm cho
vai trò của kế hoạch bị lu mờ trong quản lý doanh nghiệp. Từ khi nền kinh tế có sự
chuyển đổi sang “cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa” ( đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI – năm 1986) mới thực sự tạo ra
môi trường cho kế hoạch hoạt động, nghĩa là kế hoạch phải xuất phát từ nghiên cứu
9
thị trường, khả năng thực tế của doanh nghiệp và điều kiện pháp luật cho phép. Xuất
phát từ cơ sở này kế hoạch thực sự trở thành công cụ quản lý quan trọng nhằm xác
định nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các bộ phận và các cá nhân trong quá trình thực
hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Cụ thể vai trò của kế hoạch được thể hiện
qua các mặt sau:
Thứ nhất, trong lĩnh vực kinh doanh kế hoạch tạo ra thế chủ động ( tức là tạo ra
một sự định hướng) chủ động khai thác mọi nguồn lực: vốn, vật tư, máy móc thiết bị,
lao động hiện có chủ động trong việc mua sắm hàng hóa, đổi mới công nghệ, chủ
động trong việc liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác, chủ động trong
nghiên cứu tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ, thị trường nguyên vật liệu đầu vào.
Thứ hai, kế hoạch là công cụ đắc lực trong việc nỗ lực của các thành viên trong
doanh nghiệp sẽ biết “con thuyền” đến đích đã định. Nếu thiếu kế hoạch doanh
nghiệp sẽ như con thuyền mất tay lái không có định hướng nên cứ đi lòng vòng.
Thứ ba, kế hoạch có thể giảm được sự chồng chéo và những hoạt động lãng phí.
Kế hoạch không chỉ đơn thuần là các mục tiêu là những hướng đi của doanh nghiệp
mà nó còn thể hiện các cách để đạt được mục tiêu đó. Kế hoạch chỉ ra trách nhiệm và
nghĩa vụ của từng cá nhân, từng bộ phận trong việc thực hiện mục tiêu kinh doanh do
vậy hiện tượng chồng chéo lãng phí được giảm đến mức thấp nhất góp phần đem lại

hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
Thứ tư, kế hoạch có thể làm giảm tính bất ổn định cho doanh nghiệp. Trong quá
trình xây dựng kế hoạch các nhà hoạch định buộc phải nhìn về phía trước dự đoán
những thay đổi của nội bộ doanh nghiệp cũng như của môi trường kinh doanh cân
nhắc những ảnh hưởng của chúng và đưa ra những ứng phó kịp thời.
Thứ năm, kế hoạch thiết lập nên những tiêu chuẩn tạo điều kiện cho công tác kiểm
tra kiểm soát trong doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp không biết rõ cái đích mà
mình hướng tới là gì và đạt được bằng cách nào thì đương nhiên không thể xác đinh
được liệu nó đã thực hiện được mục tiêu hay chưa và cũng không có những biện
pháp điều chỉnh kịp thời khi có những biến cố xẩy ra. Vì vậy không có kế hoạch thì
không có kiểm tra.
10
Tóm lại, chức năng kế hoạch là chức năng đầu tiên là xuất phát điểm của mọi quá
trình quản lý trong doanh nghiệp. Thực tế đã chứng minh trong cơ chế thị trường
doanh nghiệp mà không có kế hoạch hoặc chất lượng kế hoạch không cao thì hiệu
quả sản xuất kinh doanh sẽ thấp. Việc vạch ra các kế hoạch có hiệu quả là chìa khóa
vàng đem lại sự thành công cho doanh nghiệp.
5- Ý nghĩa của việc xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh ở doanh
nghiệp
Kinh doanh là quá trình đầu tư công sức tiền của vào một lĩnh vực nhất định để
tìm kiếm lợi nhuận. Một doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại và phát triển được khi nó
tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Lợi nhuận là vấn đề sống còn của doanh
nghiệp nó quyết định việc mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
muốn kinh doanh tốt thì phải làm tốt công tác lập kế hoạch kinh doanh thực hiện tốt
kế hoạch đó có như vậy doanh nghiệp mới hoàn thành tốt các chỉ tiêu và đánh giá
được năng lực của mình.
Kế hoạch kinh doanh có ý nghĩa rất to lớn đối với các doanh nghiệp:
- Đảm bảo cho doanh nghiệp đối phó được với những biến động của thị
trường
- Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực

- Là công cụ chủ yếu để quản lý mọi mặt của hoạt động sản xuất kinh doanh
là đòn bẩy quan trọng để khai thác mọi khả năng tiềm tàng nhằm mục tiêu
sử dụng một cách hợp lý nhất toàn bộ giá trị tài sản của doanh nghiệp để
phát triển sản xuất nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu
quả kinh tế xã hội và cải thiện từng bước đời sống của người lao động.
- Kế hoạch kinh doanh có ý nghĩa quan trọng góp phần làm cho quá trình
kinh doanh diễn ra liên tục có hiệu quả
- Lập kế hoạch giúp cho doanh nghiệp tổ chức tốt hoạt động thị trường và
chiếm lĩnh thị phần trên thị trường bằng việc sử dụng các chiến lược khác
nhau như chiến lược chi phí thấp,chiến lược khác biệt hóa… tổ chức tốt
công tác nghiên cứu thị trường tìm hiểu các nhu cầu của khách hàng từ đó
11
tạo ra ưu thế cạnh tranh, mở rộng các thị trường mới. Thông qua kế hoạch
kinh doanh kích thích các nhà lãnh đạo công ty suy nghĩ đến triển vọng phát
triển của công ty trong tương lai.
Tóm lại, kế hoạch kinh doanh có ý nghĩa quan trọng nó ảnh hưởng đến thành
công hay thất bại của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Lập kế
hoạch kinh doanh mới có khả năng nắm bắt được nhu cầu của thị trường và chủ động
đối phó với những diễn biến phức tạp của môi trường kinh doanh, nắm bắt được nhu
cầu của khách hàng từ đó có thể đưa ra được những kế hoạch chi tiết cụ thể tao tiền
đề cho doanh nghiệp phát triển.
II- NỘI DUNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG KẾ HOẠCH
SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1- Nội dung của kế hoạch sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp
Từ trước tới nay bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển đều
không thể thiếu công tác kế hoạch, kế hoạch giúp cho doanh nghiệp xác định đúng
đắn, đưa ra những chính sách biện pháp thích hợp để đạt được mục tiêu đề ra. Công
tác kế hoạch hóa giống như chiếc cầu bắc từ hiện tại đến tương lai, nó vạch ra con
đường phát triển của doanh nghiệp làm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Kế
hoạch là hoạt động chủ yếu của con người theo mục tiêu đã định trước. Trên cơ sở đó

những nhà lãnh đạo sẽ đề ra các chính sách và biện pháp để thực hiện mục tiêu đã đề
ra.
Kế hoạch sản xuất kinh doanh bao gồm các nội dung sau:
1.1- Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
Suy cho cùng mọi kế hoạch đều là những quyết định cho tương lai, kế hoạch hóa
tiêu thụ sản phẩm có nhiệm vụ xác định mục tiêu của các chính sách tiêu thụ cũng
như các chi phí tiêu thụ cần thiết trong một thời kỳ xác định. Kế hoạch tiêu thụ được
cấu thành bởi 3 bộ phận là kế hoạch bán hàng kế hoạch chi phí kinh doanh cho hoạt
động tiêu thụ và kế hoạch quảng cáo. Về nguyên tắc kế hoạch bán hàng là cơ sở của
mọi kế hoạch bộ phận của mọi lĩnh vực chức năng khác nhau của doanh nghiệp. Chỉ
có thể xác định được cơ cấu sản phẩm nào sẽ sản xuất, nếu xác định được sẽ bán sản
12
phẩm với cơ cấu và số lượng cụ thể bao nhiêu. Như vậy việc xác định kế hoạch sản
xuất phải dựa trên cơ sở là kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, tiếp đó kế hoạch tiêu thụ sản
phẩm lại quy định kế hoạch chuẩn bị các yếu tố sản xuất (kế hoạch tạo nguồn). Xét
trên góc độ là phương tiện của hàng các hoạt động sản xuất kinh doanh thì kế hoạch
tài chính phụ thuộc vào kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, kế hoạch sản xuất sản phẩm, kế
hoạch tạo nguồn và kế hoạch kho tàng.
1.2- Kế hoạch chương trình và quá trình sản xuất
1.2.1- Kế hoạch chương trình sản xuất
Nhờ kế hoạch chương trình sản xuất người ta xác định xem chủng loại sản phẩm
nào và số lượng sản phẩm là bao nhiêu cần phải được sản xuất trên một thời kỳ xác
định. Khi lập kế hoạch tức là tìm kiếm và xác định một chương trình sản xuất tối ưu
dựa trên cơ sở số liệu dự toán hoạch số liệu của kế hoạch tiêu thụ (chẳng hạn như sản
lượng cao nhất có thể tiêu thụ, giá cả), lĩnh vực kho tàng (chẳng hạn như lượng hàng
tồn kho), lĩnh vực sản xuất( chẳng hạn như năng lực về tư liệu lao động và về lao
động có thể sử dụng, đòi hỏi về năng lực sản xuất của mỗi đơn vị sản phẩm…) và
lĩnh vực mua sắm ( chẳng hạn như lượng nguyên liệu có thể sử dụng). Người ta phải
phân biệt kế hoạch hóa dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Nhờ kế hoạch hóa dài hạn và
trung hạn mà các vấn đề về cơ cấu của chương trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm kể

cả sự phát triển sản phẩm mới cũng như phương pháp sản xuất sẽ được quyết định.
Với các quyết định đó mối quan hệ giữa kế hoạch hóa sản xuất và tiêu thụ dài và
trung hạn cũng như kế hoạch hóa tài chính và đầu tư luôn được lặp lại.
Kế hoạch chương trình sản xuất và quá trình sản xuất có ưu thế ở các doanh
nghiệp sản xuất nhóm sản phẩm đã tiêu chuẩn hóa. Thông thường kế hoạch chương
trình sản xuất phải xuất phát từ tư liệu lao động và sức lao động hiện có của doanh
nghiệp, nếu trong trường hợp phải xuất phát từ chương trình tiêu thụ thì số lượng sản
xuất các loại sản phẩm được chuẩn hóa từ sản lượng sản phẩm tiêu thụ đã được kế
hoạch hóa. Khi xác định thời gian và số lượng sản xuất và tiêu thụ đối với sản xuất
hàng loạt có thể đề cập đến các trường hợp sau:
1. Sản lượng sản phẩm tiêu thụ hàng tháng không đổi: có thể đưa sản lượng sản
13
phẩm tiêu thụ vào chương trình sản xuất. Cả hai chương trình đều giống nhau
về lượng sự dự trữ là không cần thiết.
2. Sản lượng sản phẩm tiêu thụ đổi theo mùa : xẩy ra do tính chất mùa vụ hay tập
quán tiêu dùng chẳng hạn như sự lặp đị lặp lại của các dịp lễ và do đó sự mua
sắm của các loại hàng truyền thống trong năm thay đổi
3. Không chỉ ở khâu tiêu thụ mà ngay cả ở khâu mua sắm cũng phải phù hợp với
sự thay đổi mùa vụ. Với các doanh nghiệp sản xuất theo tính chất mùa vụ hầu
như không loại bỏ được sản xuất theo kiểu lặp lại, vì vậy kế hoạch hóa chương
trình sản xuất được xây dựng ở các doanh nghiệp này trên cơ sở kế hoạch tiêu
thụ và thời hạn mua sắm
4. Những thay đổi của chương trình sản xuất có thể xẩy ra do thay đổi cơ cấu, các
phân tích thị trường phải xác đinh được xu thế tăng của cầu từ đó dẫn đến sự
mở rộng hay thu hẹp chương trình tiêu thụ và do đó mở rộng hay thu hẹp
chương trình sản xuất. Nhiệm vụ của kế hoạch hóa chương trình sản xuất là
làm phù hợp theo cách thức từng bậc sản lượng sản xuất theo kế hoạch với sự
thay đổi tiêu thụ dự tính (nguyên tắc thang bậc).
5. Những thay đổi hoàn cảnh kinh tế đò hỏi sự thích ứng của kế hoạch hóa
chương trình khi so sánh các trường hợp thay đổi theo mùa vụ thì những thay

đổi hoàn cảnh kinh tế có thể không được chú ý đến ở kế hoạch chương trình,
không phải do dự trữ hay không có các biện pháp khác mà vì chu trình kinh tế
bao gồm một trùm một thời kỳ dài không vận động theo quy luật như tính mùa
vụ. Khi thay đổi hoàn cảnh kinh tế trong khuôn khổ kế hoạch hóa chương trình
sản xuất người ta phải xóa bổ những thích ứng về sản lượng có lợi cho các quá
trình thời gian.
1..2.2- Kế hoạch quá trình sản xuất
Bên cạnh kế hoạch chương trình sản xuất các doanh nghiệp còn phải thực hiện kế
hoạch quá trình sản xuất. Kế hoạch quá trình sản xuất phải xuất phát từ thực tế tư
liệu lao động và sức lao động. Những vấn đề đặt ra và giải quyết ở kế hoạch chương
trình sản xuất là lựa chọn nhiều loại máy móc, lựa chọn giữa việc tự sản xuất hay
14
mua ngoài lựa chọn loại sản xuất tối ưu cũng như lựa chọn thứ tự chế biến và điều
kiện thuận lợi nhất ….ở các trường hợp không bắt buộc xác định trước sản lượng mọi
quyết định đưa ra đều phải theo quyết định tối thiểu hóa chi phí sản xuất kinh doanh.
Kế hoạch phương pháp sản xuất
Khi các loại máy móc và nơi làm việc khác nhau thực hiện quá trình lao động rất
giống nhau ở các điều kiện sản xuất khác nhau và với chi phí kinh doanh khác nhau
sẽ đặt ra vấn đề lựa chọn loại máy móc hoặc nơi làm việc. Ngược lại nếu nhiều sản
phẩm có thể được sản xuất trên cùng một loại thiết bị kỹ thuật sẽ xuất hiện vấn đề
sắp xếp thứ tự loạt sản xuất theo thời gian vấn đề sản xuất theo loạt
Nếu dựa vào thị trường doanh nghiệp cung cấp nhiều loại sản phẩm nào mà chúng
được sản xuất tuần tự trên cùng một thiết bị sẽ phải trả lời câu hỏi việc sản xuất một
cách tuần tự toàn bộ mỗi loạt trong một khoảng thời gian nhất định hay sản xuất
trước hết tuần tự từng phần của sản lượng kế hoạch cho từng loạt rồi quay lại từ đầu
là có hiệu quả hơn.
Việc xác đinh sản lượng tối ưu của loạt m
opt
được tiến hành như sau:
Giả sử một doanh nghiệp và ở một thời kỳ nào đó sẽ tiêu thụ được M đơn vị sản

phẩm (cầu) và mỗi lượng sản phẩm m được sản xuất liên tục theo loạt thì n được hình
thành cho thời kỳ đó là :
n = M/m (1)
khi chi phí kinh doanh cố định của mỗi loạt có độ lớn là FC
1
thì tổng chi phí kinh
doanh cố định theo loạt trong cả thời kỳ sẽ là FC
K

FG
K
= n . FC
1
= (M/m) . FC
1
(2)
Chi phí kinh doanh này giảm cùng với sự tăng độ lớn của loạt có dạng hình
hypepol.
Nếu một thời điểm nào đó một mặt người ta nhập kho toàn bộ số sản phẩm của
loạt và mặt khác lại xuất kho bán toàn bộ số sản phẩm như vậy thì lượng sản phẩm ở
kho giảm bậc nhất tới 0 đơn vị trong thời kỳ kế hoạch n lần và trong thời kỳ kế hoạch
n lần và lượng cao nhất m từ đó lượng sản phẩm lưu kho và tiền trả lãi toàn bộ thời
kỳ VC
K
( với loạt chi phí VC
1
cho mỗi thời kỳ và sản lượng m) có giá trị là :
15
VC
K

= VC
1
. m/2 (3)
Chi phí này tăng bậc nhất với sự tăng của sản lượng của loạt
Chi phí kinh doanh ảnh hưởng đến quá trình của thời kỳ xem xét là:
TC = FC
K
+ VC
K
(4)
Chi phí kinh doanh này phải tiến tới cực tiểu theo dạng hàm
TC = (M/m) . FC
1
+ VC
1
. m/2 → min
Lấy vi phân theo m ta được:
d(TC) = - M/m
2
. FC
1
+ VC
1
/2
Đặt d(TC)/ d(m) = 0 và giải phương trình theo m ta được
M
opt
= √ 2 M . FC
1
/VC

1
(6)
1.3- Kế hoạch nguồn lực
Để thực hiện được các kế hoạch trên thì công ty phải chuẩn bị đầy đủ các nguồn
lực để tiến hành hoạt động sản xuất như vốn, con người, con nghệ, đất đai…Khi tiến
hành điều tra thị trường và lập được các kế hoạch tiêu thụ kế hoạch sản xuất thì công
ty phải lập kế hoạch các nguồn lực đây là yếu tố cơ bản nhất là những yêu cầu cần
thiết nhất để bắt đầu sản xuất kinh doanh. Một khi công ty đã có dự định sản xuất sản
phẩm gì thì phải nhập vào các nguồn nguyên liệu, phụ liệu cần thiết phục vụ cho quá
trình sản xuất. Trước đó công ty phải tìm kiếm mặt bằng để sản xuất và là nơi để đặt
địa điểm của công ty, chỗ đặt làm mặt bằng phải phù hợp thuận tiện giao thông,
thuân tiện để xử lý các chất thải sản xuất. Để làm được điều này doanh nghiệp có thể
đi thuê mặt bằng hoặc sử dụng mặt bằng của chính mình ( nếu doanh nghiệp tư nhân
có mặt bằng sẵn ). Khi đã hoàn tất công việc này lúc đó doanh nghiệp mới tính đến
việc mua dây chuyền công nghệ phục vụ cho sản xuất mà hầu hết ở nước ta các công
ty sản xuất phải nhập khẩu dây chuyền công nghệ từ các nước tiên tiến như Nhật
Bản, Đức, Ytalia… tất cả những điều này buộc công ty phải xây dựng kế hoạch
nguồn lực. Kế hoạch nguồn lực là kế hoạch xây dựng cơ bản là kế hoạch nguồn nhân
16
lực, kế hoạch công nghệ, kế hoạch tài chính phục vụ cho quá trình sản xuất kinh
doanh của công ty. Khi các cơ sở vật chất kỹ thuật đã chuẩn bị xong thì một công
việc rất quan trọng và quyết định đến quá trình sản xuất đó là nguồn nhân lực về con
người, công việc tuyển chọn những người lao động phải có kế hoạch cụ thể và nó là
một phần trong kế hoạch nguồn lực của doanh nghiệp. Bất kỳ doanh nghiệp sản xuất
hay doanh nghiệp thương mại đều phải có kế hoạch tuyển dụng và đào tạo nguồn
nhân lực cho mình, con người là yếu tố cơ bản quyết định đến việc thành công hay
thất bại của doanh nghiệp.Một nguồn lực không thể thiếu cho bất kỳ một doanh
nghiệp nào đó là nguồn lực tài chính hay còn gọi là vốn kinh doanh, đây là bộ phận
nguồn lực quan trọng nhất trong kế hoạch nguồn lực vì có vốn mới có thể tiến hành
được các hoạt động thuê mặt bằng, mua công nghệ, tuyển nhân công và mua các

nguyên liệu đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Ví dụ một công ty
sản xuất hàng may mặc thì kế hoạch nguồn lực của họ bao gồm nhà xưởng sản xuất,
dây chuyền may, Nguồn vốn kinh doanh, Nguồn lao độngvà các nguồn lực khác.
Tóm lại, kế hoạch nguồn lực là một kế hoạch quan trọng rất cần thiếtvà không thể
thiếu trong kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì phải xây dựng kế hoạch kinh doanh hoàn
chỉnh trong đó kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, kế hoạch sản xuất và kế hoạch nguồn lực
là ba kế hoạch quan trong nhất trong kế hoạch kinh doanh buộc doanh nghiệp phải
xây dựng.
Bên cạnh các kế hoạch trên thì việc xây dựng kế hoạch vận chuyển, bất kỳ một
doanh nghiệp nào cũng phải có kế hoạch vận chuyển vận chuyển hàng hóa do
doanh nghiệp mình sản xuất ra hay vận chuyển nguyên vật liệu đầu vào. Và
doanh nghiệp phải tính toán xem kế hoạch vận chuyển như thế nào là có lợi nhất
cho doanh nghiệp của mình.khi đã xây dựng đầy đủ các kế hoạch trên thì doanh
nghiệp đã có thể bắt tay vào việc đưa bản kế hoạch kinh doanh này vào thực
tiễn.
2- Phương pháp xây dựng các kế hoạch và tính toán các chỉ tiêu kế hoạch
17
2.1- Giới thiệu chung về phương pháp lập kế hoạch
Xác định mục tiêu kinh doanh: trước hết phải xác định mục tiêu tổng quát của
hoạt động kinh doanh toàn doanh nghiệp trong thời kỳ dài hạn đó là các định hướng,
các mục tiêu chiến lược, trong ngắn hạn đó là các mục tiêu về tốc độ tăng trưởng sản
lượng, lợi nhuận sau đó xác định cho mục tiêu cấp dưới. Dù ở cấp độ nào mục tiêu
cũng phải đáp ứng các vấn đề : cái đích cần đạt đến, thứ tự ưu tiên, thời gian cần thiết
để tiến hành, thời gian kết thúc…mục tiêu tổng quát chỉ rõ phương hướng của kế
hoạch và là căn cứ để xác định mục tiêu bộ phận. Mục tiêu bộ phận chính sẽ kiểm
soát mục tiêu bộ phận phụ và cứ như thế cho đến mục tiêu bộ phận thấp nhất.
Soát xét vấn đề căn cứ: đây là bước quan trọng trong quá trình lập kế hoạch đó là
việc hình thành, mở rộng và đạt được sự thống nhất để sử dụng các tiền đề cấp thiết
cho việc lập kế hoạch. Các tiền đề cấp thiết đó liên quan trực tiếp đến kết quả phân

tích về môi trường, điều kiện kinh doanh và nội bộ doanh nghiệp và các dự báo quan
trọng có liên quan tới : thị trường, cơ cấu và sản lượng sản phẩm, các triển khai kỹ
thuật công nghệ, chính sách tài chính, môi trường chính trị pháp luật, xã hội…Trên
thực tế một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng kế hoạch cá nhân được gia nhiệm vụ
xây dựng kế hoạch càng hiểu biết sâu trong việc sử dụng các tiền đề hợp lý thì việc
xây dựng sẽ càng được phối hợp chặt chẽ hơn.
18
Sơ đồ phương pháp xây dựng kế hoạch
Hoạch định phương án kinh doanh :các mục tiêu thường được thực hiện bằng các
con đường khác nhau, ứng với mỗi con đường có thể xác định một phương án kinh
doanh hợp lý. Tuy nhiên yêu cầu cơ bản của bước này không phải là tìm ra mọi
phương án mà là lựa chọn một phương án tốt nhất có triển vọng nhất.
Đánh giá các phương án dựa vào mục tiêu cần đạt được: sau khi tìm được
phương án và phân tích được điểm mạnh điểm yếu của chúng là việc định hướng các
phương án dưới ánh sáng tiền đề căn cứ vào mục tiêu từ đó đánh giá so sánh các
phương án với nhau. Vì có vô số các biến số và ràng buộc cần xem xét nên việc đánh
giá trở nên rất khó khăn.
Lựa chon phương án kinh doanh: sau khi so sánh các phương án với nhau ta chọn
ra phương án tối ưu nhất đối với doanh nghiệp, đây là thời điểm phương án được
chấp nhận. Trên thực tế doanh nghiệp có thể lựa chọn cho mình một phương án tối
ưu và một phương án dự phòng.

Lựa chọn phương án
Lập ké hoạch hỗ trợ
19
Nhận thức cơ hội
kinh doanh
Xác định mục tiêu kinh
doanh
Soát xét các tiền đề căn cứ

Hoạch định các phương án
Đánh giá so sánh các phương
án dựa vào mục tiêu
Lượng hóa phương án thông
qua
Xây dựng phương án kế hoạch hỗ trợ: các kế hoạch hỗ trợ được xác định trên
cơ sở phương án đã xác định trong dài hạn đó là việc xác định các chính sách, biện
pháp, chiến lược dài hạn. Còn trong ngắn hạn là việc xác định các kế hoạch điều kiện
về vốn, lao động, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu…nhằm thực hiện có hiệu quả
phương án kinh doanh, lượng hóa phương án thông qua việc lập ngân quỹ. Kế hoạch
sau khi đã được xây dựng xong và công bố phải được lượng hóa bằng tiền. Ngân quỹ
chung cho doanh nghiệp biểu thị toàn bộ thu nhập và chi phí với lợi nhuận hoặc số dư
tổng hợp. Nếu thực hiện tốt nhân quỹ sẽ là phương tiện tốt nhất để kết hợp các bộ
phận khác nhau và tiêu chuẩn quan trọng để đo lường sự thăng tiến của kế hoạch.
2.2- Các phương pháp xây dựng kế hoạch kinh doanh
Phương pháp cân đối:được thực hiện qua các bước:
Bước 1: xác định nhu cầu về các yếu tố kinh doanh để thực hiện các mục tiêu kinh
doanh dự kiến
Bước 2: xác định khả năng bao gồm khả năng đã có và chắc chắn sẽ có của doanh
nghiệp về các yếu tố kinh doanh
Bước3: cân đối giữa nhu cầu và khả năng về các yếu tố kinh doanh. Cân đối được
thực hiện là cân đối động và được thực hiện liên hoàn tức là tiến hành cân đối liên
tục nhau để tiến hành bổ sung điều chỉnh phương án cho phù hợp với thay đổi của
môi trường. Trong đó thực hiện cân đối từng yếu tố trước khi tiến hành cân đối tổng
hợp.
Phương pháp phân tích nhân tố tác động:
Khi xây dựng kế hoạch kinh doanh các nhà hoạch định kế hoạch sẽ xem xét các
yếu tố sau:
- Các yếu tố như : tổng sản phẩm xã hội, mức cung tiền
- Sự phát triển về dân số và nhóm lứa tuổi

- Các yếu tố chính trị pháp luật như luật cạnh tranh, luật bảo vệ môi
trường
- Sự biến động của thị trường và thái độ của khách hàng
- Sự thay đổi cấu trúc ngành nghề
20
- Các đặc điểm về nguồn lực của doanh nghiệp: phần thị trường, chu kỳ
sống của sản phẩm, chất lượng lao động, doanh thu….
Phương pháp lợi thế vượt trội: phương pháp này gợi mở cho cá nhà hoạch định kế
hoạch xem xét lợi thế vượt trội của doanh nghiệp từ đó lập kế hoạch để mang lại hiệu
quả cho doanh nghiệp,
Phương pháp chu kỳ sống của sản phẩm:
Mỗi sản phẩm khi xuất hiện trên thị trường đều có tính chất thời điểm và thời
đoạn đến thời gian nào đó nó sẽ bị thị trường từ chối. Người hoạch định kế hoạch
kinh doanh sẽ quyết đinh chỉ sản xuất và kinh doanh mặt hàng nào do đó việc phân
tích chu kỳ sống của sản phẩm là một phương pháp kế hoạch quan trọng
Các giai đoạn Thâm nhập Tăng trưởng Chín muồi Suy thoái
Đối thủ cạnh
tranh
Rất ít Nhiều Nhiều Ít đi
Thị phần của
doanh nghiệp
Rất cao Cao Ít dần Ít
Vị trí trên thị
trường
Dẫn đầu Bị cạnh tranh Bán ít dần Bị chặn
Mức doanh thu Tăng chậm Tăng nhanh Tăng chậm Giảm
Kết quả Hòa vốn Lãi lớn Lãi giảm Lỗ
Sự co giãn
giá cả
ít Trung bình Lớn ít

Bảng chu kỳ sống của sản phẩm
Phương pháp đường cong kinh nghiệm
Phương pháp này dựa vào kết quả nghiên cứu của nhóm tư vấn Boston thực chất
là việc phân tích các đối thủ cạnh tranh của vùng, ngành nghề trên cơ sở mối quan hệ
của việc giảm chi phí trên mọi đơn vị sản phẩm với việc tăng sản lượng sản phẩm.
Theo kết quả nghiên cứu nếu sản lượng tăng gấp đôi thì chi phí có thể hạ từ 20% đến
30% ( không kể lạm phát).
21
Phương pháp mô hình PISM
Đây là phương pháp áp dụng rộng rãi ở hoa kỳ thực chất là việc phát hiện sự trao
đổi các kết quả có tính chất chiến lược để từ đó xác định kế hoạch kinh doanh
P:profine(lợi nhuận), I: impact (tác động), S: strategy (chiến lược), M: market(thị
trường)
Khi hoạch định kế hoạch họ phải phân tích 6 vấn đề sau:
- Sự hấp dẫn của thị trường: mức tăng thị trường tỷ lệ xuất khẩu….
- Tình hình cạnh tranh: tính thị phần tương đối của doanh nghiệp dùng
để phân tích cho từng loại sản phẩm
Phần thị trường tuyệt đối của doanh nghiệp
Thị phần doanh nghiệp =—————————————————— * 100
Tổng phần thị trường tuyệt đốicủa 3 đối thủ
Cạnh tranh lớn nhất
- Hiệu quả của hoạt động đầu tư: cường độ đầu tư, doanh thu trên mỗi
hoạt động đầu tư
- Sử dụng ngân sách của doanh nghiệp: quy mô của doanh nghiệp, mức
độ phân tán của doanh nghiệp
- Phân tích sự thay đổi của các yếu tố :phần thị trường liên kết giá cả,
chất lượng sản phẩm và sự thay đổi số lượng
Tổng doanh thu Lợi nhuận lợi nhuận
ROI = ——————— * ————— *100 = —————— * 100
Tổng vốn kinh doanh tổng doanh thu tổng vốn kinh doanh


3- Điều kiện thực hiện chỉ tiêu kế hoạch
Kế hoạch được lập có tiến độ và cân đối nhưng đó mới chỉ là khả năng, vấn đề là
phải biến khả năng đó thành hiện thực. Điều kiện để biến khả năng này thành hiện
thực hay điều kiện để thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch là:
Doanh nghiệp phải ký kết được các hợp đồng, doanh nghiệp phải có kho tàng bến
bãi để chứa đựng hàng hóa trong thời gian cần thiết và chế độ bảo quản phù hợp.
22
doanh nghiệp phải giao hàng đúng hạn theo đơn đặt hàng đúng mẫu mã chất lượng để
việc thực hiện có hiệu quả. Người quản lý phải đôn đốc kiểm tra giải quyết những
mất cân đối những phát sinh khi thực hiện kế hoạch, phải theo dõi sát sao kịp thời
tình hình thực hiện kế hoạch, phải sơ kết tình hình thực hiện kế hoạch đồng thời phổ
biến những kinh nghiệm hay sửa chữa những khuyết điểm. Hơn nữa chỉ tiêu nào đề
ra không có tính khả thi phải điều chỉnh đồng thời bổ sung vào kế hoạch những khả
năng mới có thể đưa vào kinh doanh.
4- Lập kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp
4.1 căn cứ lập kế hoạch kinh doanh
Để kế hoạch kinh doanh đúng đắn và thực tế doanh nghiệp cần phải dựa vào
những tiêu thức nhất định có liên quan đến toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Đó là việc xác định các căn cứ sau:
- Căn cứ vào các dự báo khả năng phát triển của doanh nghiệp kỳ kế
hoạch về thị trường và khách hàng
- Căn cứ vào chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, vào thị trường
mục tiêu
- Căn cứ vào kết quả điều tra nắm bắt nhu cầu khách hàng, phát triển thị
trường, khả năng biến động
- Căn cứ vào các đơn đặt hàng hợp đồng mua bán hàng hóa đã được ký
kết với khách hàng. Đây là văn bản có tính pháp quy cần phải tuân thủ
một cách nghiêm ngặt để đảm bảo thực hiện mục tiêu nhiệm vụ và uy
tín của doanh nghiệp với khách hàng và bạn hàng

- Đối thủ cạnh tranh cũng là yếu tố quan trọng để xây dựng kế hoạch của
doanh nghiệp, doanh nghiệp phải thường xuyên so sánh sản phẩm, giá
cả với các đối thủ để dành thế chủ động kinh doanh
- Các căn cứ khác cũng được tính khi xây dựng kế hoạch kinh doanh: dự
kiến về chi phí sản xuất, khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, khả
năng thu hút khách hàng mới…..
4.2- Trình tự lập kế hoạch kinh doanh
23
Kế hoạch kinh doanh do phòng kế hoạch của các doanh nghiệp lập dưới sự chỉ
đạo của giám đốc phụ trách kinh doanh. Kế hoạch kinh doanh được lập theo các bước
sau:
Bước 1: trước khi kết thúc kỳ báo cáo chuẩn bị lập kế hoạch cho kỳ sau. Trong
bước này cần chuẩn bị tài liệu cần thiết cho lập kế hoạch
- Tổ chức thu thập, nghiên cứu đánh giá và lựa chọn các tài liệu đáng tin
cậy
- Phân tích tài liệu, dự báo và lựa chọn các hướng dự báo có căn cứ khoa
học nhất
- Phân tích môi trường kinh doanh và khả năng phát triển của đối thủ
cạnh tranh thời kỳ kế hoạch
Bước 2: lập kế hoạch
- Trực tiếp tính toán các chỉ tiêu
- Cân đối các mặt hàng sản xuất từ chi tiết đến tổng hợp
- Phát hiện và dự kiến các biện pháp khắc phực mất cân đối
Bước 3: trình duyệt quyết định kế hoạch chính thức
Kế hoạch kinh doanh lập ra phải được trình và bảo vệ trước hội đồng ban lãnh
đạo doanh nghiệp hoặc hội đồng quản trị sau khi đã bổ sung thống nhất kế hoạch
được thông qua. Kế hoạch được chính thức bắt đầu từ khi ban lãnh đạo doanh nghiệp
nhất trí và giao bằng văn bản cho các bộ phận các phòng ban thực hiện.
5- Tổ chức thực hiện và đánh giá thực hiện kế hoạch
Công tác kế hoạch kinh doanh ở các doanh nghiệp là toàn bộ các kế hoạch diễn ra

hằng ngày về lập và tổ chức các kế hoạch kinh doanh nhằm đáp ứng mọi yêu cầu của
kế hoạch, của thị trường với chi phí thấp nhất đảm bảo kinh doanh phải có lợi nhuận.

Công tác bao gồm:
Nghiên cứu và nắm bắt nhu cầu của thị trường về các loại hàng hóa dịch vụ
Việc nắm bắt nhu cầu cụ thể của thị trường để từng bước sản xuất hàng hóa dịch
vụ đạp ứng nhu cầu, thị hiếu của khách hàng
24
Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh
Kế hoạch lập ra cần phải đi vào thực tiến vì vậy đây là khâu quan trọng để đưa kế
hoạch vào thực hiện
- Kết thúc các hợp đồng
- Phân công nhiệm vụ cho cán bộ thực hiện
- Đôn đốc kiểm tra giải quyết những khúc mắc, khó khăn phát sinh khi
thực hiện
- Phải theo dõi sát sao tình hình thực hiện kế hoạch, sơ kết phổ biến kinh
nghiệm và sửa chữa những sai sót
- Điều chỉnh kế hoạch phù hợp hơn với biến động mới
III- CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC XÂY
DỰNG VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH KINH DOANH
Kế hoạch kinh doanh thường được kiểm nghiệm bằng thực tế đó là quá trình triển
khai và thực hiện kế hoạch. Qúa trình này có thể thực hiện tốt và đạt được hoặc vượt
qua kế hoạch đặt ra, nhưng cũng có thể kế hoạch đặt ra không thực hiện được so với
kế hoạch đề ra. Nếu kế hoạch đặt ra sát với thực tế của doanh nghiệp thì trong quá
trình thực hiện kế hoạch kinh doanh có nhiều nhân tố tác động làm thay đổi các chỉ
tiêu nhân tố này có thể là trong nội bộ doanh nghiệp hoặc do môi trường kinh doanh
1- nhân tố chủ quan
Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp là yếu tố quan trọng phản ánh sức mạnh của
doanh nghiệp căn cứ vào nguồn vốn mà doanh nghiệp xây dựng kế hoạch kinh doanh
phù hợp cùng với khả năng quản lý phân phối nguồn vốn có hiệu quả để thực hiện kế

hoạch kinh doanh đó.

Tiềm năng con người của doanh nghiệp: sự hoàn hảo của cấu trúc tổ chức,
tính hiệu quả của hệ thống quản lý và công nghệ quản lý tác động trực tiếp đến việc
xây dựng một kế hoạch kinh doanh hoàn thiện. Chủ thể thực hiện các kế hoạch kinh
doanh chính là đội ngũ cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp vì vậy cần phải có
sự kết hợp giữa các phòng ban như phòng kế hoạch kinh doanh, phòng xuất nhập
25

×