Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nghiên cứu nhu cầu và sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh tại nội thành Hà Nội pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.09 KB, 7 trang )

TCNCYH 26 (6) - 2003
Nghiên cứu nhu cầu và sử dụng dịch vụ
khám chữa bệnh tại nội thành Hà Nội
Trơng Việt Dũng
1
và cộng sự
2
1
Trờng Đại học Y Hà Nội,
2
CBYT các TTYT quận HK, BĐ, ĐĐ, Hà Nội
Nghiên cứu đợc tiến hành theo phơng pháp điều tra chọn mẫu gồm 2099 hộ gia đình
tại 3 quận nội thành Hà Nội, kết quả cho thấy:
- Tần suất ốm của một ngời/năm là 1,05 lợt có sự khác nhau giữa các nhóm tuổi, trẻ
em (<15 tuổi) và ngời cao tuổi (60+) có tần suất ốm nhiều gấp 2-3 lần so với các nhóm
tuổi khác, cha thấy có sự chênh lệch giữa hai giới.
- Khi ốm, cách lựa chọn nhiều nhất là tự mua thuốc về chữa (36,5%), thứ đến là bệnh
viện KCB ngoại trú (27,6%), đến y tế phờng 21%, đến y tế t (11,3%). Tỷ lệ đến bệnh
viện điều trị nội trú rất thấp (2,6%). Yếu tố tác động đến cách lựa chọn cơ sở KCB quan
trọng nhất là tính tiện lợi, trình độ chuyên môn, thái độ tốt, tình trạng bệnh. Giá cả không
thật quan trọng, trừ khi phải nằm điều trị nội trú tại bệnh viện.

i. Đặt vấn đề
Việc tìm hiểu nhu cầu CSSK của cộng
đồng cũng quan trọng nh tìm hiểu thị
trờng của các nhà sản xuất, kinh doanh.
Mỗi cộng đồng có những nhu cầu và yêu
cầu khác nhau, không chỉ phụ thuộc vào
tình hình ốm đau bệnh tật, vào các yếu tố
nguy cơ tới sức khoẻ mà còn tuỳ thuộc vào
các hành vi ứng xử y tế cũng nh mối quan


hệ qua lại giữa ngời cung cấp và ngời sử
dụng dịch vụ y tế.
Hiện nay, những thống kê bệnh tật từ
các hệ thống y tế nhà nớc không còn là
nguồn số liệu chính xác về nhu cầu cũng
nh sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của
cộng đồng. Vì vậy, khá nhiều công trình
nghiên cứu trong hơn 10 năm lại đây đã
tập trung tìm hiểu nhu cầu từ các hộ gia
đình, tuy nhiên các nghiên cứu này thờng
hay tiến hành ở các cộng đồng nông thôn
mà ít chú ý tới cộng đồng thành thị [2, 4, 5,
6].
Những câu hỏi đặt ra cho ngời quản lý
y tế là: tần suất ốm đau của một ngời
trong năm là bao nhiêu, có những khác
biệt gì theo giới, tuổi, theo tình trạng kinh
tế hộ gia đình, khi ốm ngời ta đã đến đâu
để khám chữa bệnh, các cơ sở y tế nhà
nớc đáp ứng đợc đến đâu đối với các
nhu cầu đó. Khi có câu trả lời cho các câu
hỏi trên ngời ta sẽ quy hoạch và lập kế
hoạch hệ thống khám chữa bệnh trên địa
bàn một cách hiệu quả hơn, thu hút đợc
ngời ốm đến các cơ sở y tế công nhiều
hơn, nâng cao hiệu quả của công tác này.
Để góp thêm những số liệu về nhu cầu
khám chữa bệnh của cộng đồng đô thị nội
thành Hà Nội. Đợc sự hỗ trợ của TCYTTG
chúng tôi đã tiến hành đề tài này vào

tháng 5 9 năm 2002 nhằm mục tiêu sau:
1. Mô tả nhu cầu khám chữa bệnh của
các hộ gia đình
2. Phân tích tình hình sử dụng dịch vụ y
tế và các yếu tố chính liên quan đến sử
dụng dịch vụ y tế.

115
TCNCYH 26 (6) - 2003
ii. Đối tợng và phơng pháp
nghiên cứu
1. Đối tợng nghiên cứu:
Để đánh giá nhu cầu và tình hình đáp
ứng nhu cầu CSSK của ngời dân ba quận
nội thành Hà Nội.
Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
Cỡ mẫu: dùng công thức tính với mẫu
cho mô tả
Cỡ mẫu điều tra thực tế cho 3 quận là
2099 hộ
Cách chọn mẫu
- Chọn quận theo phơng pháp ngẫu
nhiên đơn: Đống Đa, Ba Đình, Hoàn Kiếm
- Chọn phờng: Từ mỗi quận, chọn 10
phờng theo phơng pháp ngẫu nhiên
đơn.
- Chọn hộ gia đình: Theo phơng pháp
ngẫu nhiên có hệ thống, lấy nhà đầu tiên
và các hộ gia đình tiếp theo đợc chọn
theo nguyên tắc cổng liền cổng.

2. Phơng pháp nghiên cứu
(1) Phỏng vấn trực tiếp ngời sử dụng
dịch vụ y tế:
Tập huấn cho các điều tra viên là cán
bộ y tế các phờng
Quá trình phỏng vấn hộ gia đình đợc
giám sát bởi 2 giám sát viên của TTYT
huyện và tác giả. Các câu hỏi mở đợc mã
hoá. Sau khi kiểm tra, loại bỏ các sai sót,
số liệu đợc nhập vào máy tính với phần
mềm Foxpro. Việc xử lý số liệu đợc thực
hiện ở Phòng Thống kê - Tin học của Vụ
kế hoạch - Bộ Y tế.
Nội dung nghiên cứu và các nhóm
chỉ số thu thập:
(2) Đặc điểm hộ gia đình
- Các chỉ số nhân khẩu học, điều kiện
kinh tế, tiếp cận
(3) Nhu cầu chăm sóc sức khoẻ theo
các đặc trng nhân khẩu học:
- Tần suất ốm trong 2 tuần, mức độ
nặng nhẹ, phân bố theo nhóm tuổi, giới
(3) Sử dụng dịch vụ y tế và các yếu tố
ảnh hởng (nhân khẩu, địa d, kinh tế hộ
gia đình)
- Cách lựa chọn khi bị ốm, những yếu tố
quyết định lựa chọn cơ sở y tế, cách sử trí
iii. Kết quả
1. Tình hình kinh tế của hộ gia đình
1.1. Tình trạng kinh tế của hộ gia đình

tự nhận xét:
4.8
78.6
15.9
0.7
0
20
40
60
80
100
Nghèo ,rất nghèo Đủ ăn Khá Giàu
%

Biểu đồ 1: Mức giàu nghèo tự nhận của hộ gia đình

116
TCNCYH 26 (6) - 2003
Chỉ cha đầy 5% số hộ tự cho rằng gia đình mình thuộc diện nghèo và rất nghèo. Hộ
đủ ăn chiếm đại đa số.
1.2. Tình hình thu nhập của các hộ gia đình theo nhóm ngũ phân:
Bảng 1: Tình hình thu nhập của hộ gia đình
Nhóm thu nhập
(Ngũ phân)
Bình quân thu nhập đầu
ngời (ngàn)
% so với tổng số % cộng dồn
Thu nhập thấp nhất (Q5) 4396 10,7 10,7
Thu nhập thấp (Q4) 6469 15,7 26,4
Thu nhập TB (Q3) 7553 18,3 44,7

Thu nhập cao (Q2) 9556 23,2 67,9
Thu nhập cao nhất (Q1) 13226 32,1 100

Tỷ số Q5/Q1=3; Q2/Q1=1,4 có sự chệnh lệch đáng kể giữa các nhóm dân c. 20% dân
số của nhóm có thu nhập cao nhất đã chiếm 32,1% thu nhập của toàn bộ các hộ nghiên
cứu. Trong khi đó cũng 20% dân số nhóm thu nhập thấp nhất chỉ chiếm 10,7%. Mức
chênh lệch Q5/Q1 tới 3 lần.
2. Tình hình ốm đau và ớc tính nhu cầu khám chữa bệnh:
Bảng 2: Tình hình ốm trong 2 tuần trớc điều tra:
Số hộ dân % ốm Ước tính đợt ng/năm
Tỷ lệ ốm chung
nghiên cứu
8823 4,03 1,05
Tỷ lệ ốm
theo giới
Nam
Nữ
4241
4582
4,03
4,02
1,05
1,05
Tỷ lệ ốm
theo nhóm
tuổi
0-5
6-15
16-59
60+

812
1394
5770
847
10,3
3,4
2,7
9,6
2,7
0,9
0,7
2,15

- Mức độ ốm: 83,5% số ngời ốm trên 5
ngày, 16,5% số ngời ốm dới 5 ngày.
51,65 ốm nhng vẫn làm việc đợc gần
nh bình thờng, 21,70% ốm phải nghỉ
việc, nghỉ học, 11,26% ốm phải nằm một
chỗ, 15,38% ốm cần có ngời chăm sóc.
- Trung bình trong thời gian 2 tuần có
4,03 ngời bị ốm không có sự khác biệt về
tần suất ốm giữa nam và nữ (p>0,05)
- Trẻ <5 tuổi và ngời cao tuổi, già có tỷ
lệ ốm cao hơn các nhóm tuổi khác.
- Ngời ốm trên 5 ngày chiếm đa số
(83,5%)
- Ngời ốm có ảnh hởng tới sinh hoạt,
lao động chiếm xấp xỉ 50% số trờng hợp.

117

TCNCYH 26 (6) - 2003
3. Tiếp cận và sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh:
3.1. Tiếp cận với cơ sở y tế (theo khoảng cách).
Bảng 3: Tiếp cận theo khoảng cách đến cơ sở y tế.
Cơ sở y tế
Mức độ tiếp cận
Y tế phờng (%) Bệnh viện gần nhất (%)
Dễ đi 97,4 99,0
Không khó đi lắm 0,5 0,9
Khó đi 0,0 0,05
Cha đến bao giờ 2,1 0,05

Gần nh tất cả các hộ gia đình không
gặp trở ngại gì về đờng đi đến cơ sở y tế.
3.2. Tình hình tiếp xúc với cán bộ y tế
trong 1 tháng:
- Trong thời gian 1 tháng, trung bình có
39,8 số hộ đợc cán bộ y tế đến thăm và
6,3 hộ đã đến trạm y tế phờng.
- Cán bộ y tế phờng đến thăm hộ gia
đình với nhiệm vụ vận động sinh đẻ kế
hoạch (31,92%) và tuyên truyền VSPB là
chính (50,64%). Chăm sóc sức khoẻ tại
nhà rất ít (6,3%).
- Tỷ lệ hộ gia đình có thầy thuốc t đến
nhà rất thấp (4/2099) và chủ yếu là để
khám chữa bệnh tại nhà.
3.3. Sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh
của các trờng hợp ốm:
Bảng 4: Các cách xử trí khi ốm

Nơi/cách xử trí n %
1. Tự mua thuốc về chữa
2. Đến y tế phờng
3. Đến thầy thuốc YHCT
4. Đến thầy thuốc t (Tây y)
5. Điều trị nội trú
6. KCB ngoại trú BV
135
78
3
42
10
102
36,5
21,0
1,0
11,3
2,6
27,6
Cộng 370 100
Mua thuốc về chữa là hình thức phổ
biến nhất, y tế phờng đợc sử dụng với tỷ
lệ 21% thấp hơn một chút so với hình thức
KCB ngoại trú tại bệnh viện và phòng
khám. Điều trị nội trú chiếm tỷ lệ rất thấp
(2,6%)
3.4. Những lý do tìm kiếm một cơ sở
KCB khi ốm.
Bảng 5: Phân bố các lý do lựa chọn
cơ sở y tế

Lý do %
Trình độ chuyên môn, thái độ tốt
Giá cả phải chăng
Gần nhà, tiến lợi, quen biết.
Tình trạng nặng nhẹ của bệnh
27,6
14,5
35,2
22,7
Các lý do quan trọng nhất khi quyết
định đến một cơ sở khám chữa bệnh là tính
tiện lợi và trình độ chuyên môn, thái độ
phục vụ tốt.
Bảng 6: Lý do đầu tiên khiến ngời ốm
chọn một cơ sở y tế KCB
Cơ sở KCB %
Trạm y tế phờng: bệnh nhẹ
Bệnh viện (KCB ngoại trú): bệnh
nặng
Bệnh viện (Nội trú): bệnh nặng
Y tế t nhân: gần, tiện lợi
64,8
43,0

42,3
55,5

118
TCNCYH 26 (6) - 2003
Có sự khác nhau về lý do lựa chọn cơ

sở KCB, trong đó đến y tế phờng chủ yếu
khi bệnh nhẹ, đến BV khi cần dịch vụ có
chất lợng còn đến y tế t nhân là do gần
nhà, tiện lợi.
4. Chi phí và khả năng chi trả:
- Mức chi phí trung bình cho một trờng
hợp ốm phải trả phí là 285000đ
- Mức chênh lệch giữa nhóm có thu
nhập thấp nhất so với nhóm có thu nhập
cao nhất tới 3 lần.
- Tỷ lệ hộ có khả năng trả phí khi có
trờng hợp ốm bằng tiền có sẵn trong nhà:
93,5%
- Nếu phải đi bệnh viện KCB ngoại trú
77,2% có khả năng chi trả ngay không
phải vay mợn trong khi đó nếu phải nằm
điều trị nội trú, tỷ lệ này là 50%.
iv. Bàn luận
Khác với các cuộc điều tra trớc đây
của chúng tôi ở Hà Nội năm 1996. Khi đó
tiến hành nghiên cứu cả khu vực nội thành
và ngoại thành [6], nghiên cứu này chỉ tiến
hành ở 3 quận nội thành. Tỷ lệ đủ ăn là
78%, so với 2 điều tra khác ở nông thôn
miền núi Yên Bái và đồng bằng Thanh
Hoá, tỷ lệ ngời đủ ăn ở nội thành Hà Nội
cao hơn. Mức chênh lệch giàu nghèo ở
đây cũng không lớn: 3 lần so với mức
chệnh lệch của 2 điểm kia là 6,2 lần và 6,7
lần [4], [5]. Điều kiện kinh tế và mức chênh

lệch giầu nghèo có thể ảnh hởng không
chỉ mức độ ốm đau mà còn tới cách tìm
kiếm dịch vụ KCB và nhất là tới khả năng
chi trả.
Tình hình ốm đau phản ánh một phần
nhu cầu KCB của một cộng đồng. Do số
liệu thống kê từ các cơ sở y tế chỉ phản
ánh một phần tình hình ốm đau của cộng
đồng, việc điều tra tình hình ốm đau trong
2 tuần đã trở thành phơng pháp phổ biến
ở nớc ngoài cũng nh ở ta [2, 3, 6, 7].
Cho dù cha phải là phơng pháp tối u
(vì còn phụ thuộc vào thời điểm điều tra,
tình hình dịch bệnh) nhng để tìm hiểu thái
độ và thực tế ứng xử y tế (Lựa chọn cơ sở
KCB) mỗi khi bị ốm là đáng tin cậy. Để
nhận định sự khác biệt về nhu cầu KCB
giữa các nhóm tuổi, giới cũng nh nhóm
dân c giàu nghèo khác nhau ngay trong
một thời điểm cách hỏi về ốm đau cũng
nh ứng xử y tế là có giá trị khoa học và
đợc chấp nhận ở trong và ngoài nớc [1,
7].
Kết quả trong bảng 2 cho thấy bình
quân một ngời ốm với mức độ rõ rệt (có
ảnh h
ởng tới sinh hoạt bình thờng)
khoảng 1 lần/năm. Tỷ lệ này không khác
nhau nhiều theo giới nhng rất khác nhau
theo lứa tuổi. Điều này nói lên các nhóm

tuổi khác nhau có nhu cầu KCB khác
nhau. Trẻ em và ngời cao tuổi, ngời già
có tần suất ốm gấp 2,5 đến 2,7 lần so với
tỷ lệ chung và gấp 3-4 lần so với 2 nhóm
tuổi còn lại. Do cỡ mẫu 2099 hộ và số dân
8823 ngời vẫn còn nhỏ khi nhận xét tình
hình ốm đau trong 2 tuần, sự khác biệt về
giới cha thể hiện rõ nh trong các nghiên
cứu khác [4, 5]. Kết quả này cũng không
khác nhiều so với kết quả nghiên cứu trớc
đây của chúng tôi cũng trên địa bàn Hà
Nội [6]. Nh vậy có thể sơ bộ nhận định
rằng cha có sự thay đổi trong thời gian
vừa qua về nhu cầu KCB ở địa bàn này.
Về tiếp cận với cơ sở y tế, chỉ tiêu quan
trọng nhất là khoảng cách. Nhìn chung, ở
nội thành không có khó khăn gì về tiếp cận
song vẫn có 2,1% số hộ cha bao giờ đến
y tế phờng. Vấn đề tiếp cận không chỉ
liên quan đến khoảng cách mà còn tính
tiện lợi của dịch vụ, niềm tin vào cơ sở y tế
đó và vào những cản trở về tài chính (giá
cả), trong nghiên cứu này cha đi sâu vào

119
TCNCYH 26 (6) - 2003
các yếu tố đó song trong mục 2,3,4, bảng
5 và 6, khi bàn luận về những lý do lựa
chọn cơ sở KCB. Một khi có ngời ốm
trong nhà, quyết định đi đâu để KCB thì

yếu tố gần nhà, thời gian làm việc tiện lợi
đóng vai trò quan trọng nhất (35,2%) trong
khi đó yếu tố giá cả chỉ chiếm tỷ trọng thấp
hơn (14,5%). Đối với bệnh nhân đến thầy
thuốc t nhân 55,5% do gần nhà và thời
gian tiện lợi. Kết quả này cũng khá trùng
hợp với điều tra tại địa phơng khác [2, 6].
Cho dù CSYT cả t nhân và nhà nớc
sẵn sàng cung cấp dịch vụ KCB nhng
cho tới nay, cách lựa chọn đầu tiên vẫn là
tự mua thuốc về chữa. Kết quả trong bảng
4 cho thấy có tới 36,5% số trờng hợp ốm
đã tự mua thuốc về chữa, tỷ lệ này rất gần
với tỷ lệ 31,2% trong điều tra trớc đây của
chúng tôi năm 1995 và thấp hơn so với
điều tra ở nông thôn đồng bằng Thanh
Hoá (50%) nhng cao hơn so với nông
thôn miền núi Yên Bái (27,7%) [4],[5]. Sở
dĩ có sự khác nhau này chúng tôi cho rằng
ở miền núi do không có nhiều nơi mua
thuốc cũng nh rất ít y tế t nhân hoạt
động, bệnh viện thì xa nên cơ sở KCB
quan trọng nhất là TYT xã. Đối với vùng
nông thôn đồng bằng ngời bán thuốc t
nhân không nhiều hơn ở thành phố, song
khả năng kinh tế lại hạn chế hơn nên vẫn
chọn cách mua thuốc về chữa là phổ biến
nhất. Kết quả của các nghiên cứu khác
còn cao hơn [2].
Trong nghiên cứu trớc đây của chúng

tôi năm 1995, tỷ lệ ngời ốm đến y tế
phờng cũng khá thấp 18,3%, trong thời
gian này, sau 5 năm tỷ lệ này vẫn chỉ là
21%. Nh vậy cũng nh phơng thức tự
mua thuốc về chữa, tình hình sử dụng trạm
y tế phờng nội thành của ngời dân vẫn
không thay đổi. Tỷ lệ sử dụng y tế phờng
ở Hà Nội trong cùng thời điểm so với 2 địa
bàn nghiên cứu cho thấy cao hơn một chút
so với nông thôn Thanh Hoá (17,2%) song
thấp hơn nhiều so với điểm nghiên cứu ở
Yên Bái (48,5%). Hoạt động KCB ở trạm y
tế phờng cha phải là nhiệm vụ hàng
đầu.
Nếu có sự khác nhau không nhiều trong
sử dụng dịch vụ KCB của trạm y tế phờng
so với TYT xã đồng bằng thì tỷ lệ sử dụng
bệnh viện ở nội thành lại có sự khác biết
khá lớn và mang đặc trng thành thị rất rõ.
Qua các công trình nghiên cứu trớc đây
cũng nh tại 2 điểm nghiên cứu cùng thời
điểm này, tỷ lệ ng
ời ốm đến bệnh viện
dao động từ 5-10% số trờng hợp ốm [1, 2,
6]. Trong nghiên cứu ở nội thành này tỷ lệ
sử dụng bệnh viện rất cao, tổng cộng đến
30,2%. Điều đáng để ý hơn là tỷ lệ đến
KCB ngoại trú rất cao (27,6%) trong khi đó
chỉ có 2,6% phải nằm điều trị nội trú tại
bệnh viện, đây là một đặc điểm đáng chú ý

để bố trí hệ thống KCB ngoại trú ở khu vực
thành thị với nhiệm vụ nặng nề hơn khu
vực điều trị nội trú. Nếu so sánh tỷ lệ điều
trị nội và ngoài trú ở các khu vực nông
thôn, mức chênh lệch không nhiều thậm
chí ở vùng khó khăn, tỷ lệ KCB ngoại trú
có thể còn thấp hơn so với điều trị nội trú.
Điều này cũng cho thấy ngời thành thị khi
ốm đã tìm đến cơ sở bệnh viện sớm hơn vì
vậy không đợi đến lúc bệnh nặng để đến
viện là phải nhập viện. Về mức chi phí và
khả năng chi trả, mức chi phí trung bình
cho một đợt ốm khá cao, trên 280000đ,
cao hơn số trung bình về chi phí y tế của
một ngời trong nghiên cứu trớc đây [1].
Tuy nhiên khả năng chi trả lại cao hơn, thể
hiện là tỷ lệ ngời có sẵn tiền để trả nói
chung lại cao (93,5%). Nếu phải nằm điều
trị nội trú, chỉ có 50% số trờng hợp ốm có
sẵn tiền trong nhà để thanh toán. Đây có

120
TCNCYH 26 (6) - 2003
thể là một yếu tố khiến ngời dân chọn
cách điều trị nội trú với tỷ lệ rất thấp.
v. Kết luận
- Tần suất ốm của một ngời/năm là
1,05 lợt có sự khác nhau giữa các nhóm
tuổi, trẻ em (<15 tuổi) và ngời cao tuổi
(60+) có tần suất ốm nhiều gấp 2-3 lần so

với các nhóm tuổi khác, cha thấy có sự
chênh lệch giữa hai giới.
- Khi ốm, cách lựa chọn nhiều nhất là tự
mua thuốc về chữa (36,5%), thứ đến là
bệnh viện KCB ngoại trú (27,6%), đến y tế
phờng 21%, đến y tế t (11,3%). Tỷ lệ
đến bệnh viện điều trị nội trú rất thấp
(2,6%). Yếu tố tác động đến cách lựa chọn
cơ sở KCB quan trọng nhất là tính tiện lợi,
trình độ chuyên môn, thái độ tốt, tình trạng
bệnh. Giá cả không thật quan trọng, trừ khi
phải nằm điều trị nội trú tại bệnh viện.
Tài liệu tham khảo
1. Trần Thị Trung Chiến (2003). Y tế
công cộng Việt Nam. NXB Y học, Hà Nội.
2. Bội Y tế, Đơn vị chính sách, Vụ kế
hoạch (2002) Nghiên cứu theo dõi điểm
(Seltinel) về tình hình cung cấp và sử dụng
dịch vụ y tế tại 28 xã nông thôn trong 2
năm 2000 2001. Hà Nội, 4/2002, 131 trg.
3. Dicker A. Armstrong D. (1995)
Patients views of Priority setting in health
care: An interview survey in one practice
BMJ, p 1137-1139
4. Trơng Việt Dũng (2002) Báo cáo
kết quả điều tra thông tin y tế từ hộ gia
đình tại Yên Bái. (Đề tài nghiên cứu trong
dự án hợp tác y tế Việt Nam WHO). Tài
liệu cha xuất bản.
5. Trơng Việt Dũng (2002) Báo cáo

kết quả điều tra thông tin y tế từ hộ gia
đình tại Thanh Hoá. (Đề tài nghiên cứu
trong dự án hợp tác y tế Việt Nam WHO).
Tài liệu cha xuất bản.
6. Trơng Việt Dũng, Đào Xuân Vinh
Phạm Ngọc Đính (1996). Bớc đầu tìm
hiểu ở Hà Nội. Y học thực hành, số 1, tr
22-24.
7. World Bank (1992). The health of
adults in the Developing world. Oxford
Universty Press. 350p.
Summary
Study on the health needs and utilization of
curative care in Hanoi metropolitan
The household sampling survey was conducted in 2099 households in 3 districts by
using questionnaire, the results showed that:
Average episode per person per year was estimated 1.05; there also differences
among age groups, children under 5 and aging groups were got sick more frequently 2 3
times than those other groups. There was, however, still not found the gender differences
Once got sick, the most popular choices were self-medication (36.5%), out patient care
(27.6%), CHS (21%) and private clinics (11.3%). Inpatient care was composed of only
2.6%.
It was showed that factors influenced the choices a facility firstly conveniences, quality of
care, good attitudes and severity of conditions. Price of services was not an important
determinant, excluding in case of hospitalization.

121

×