Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Đề tài: Hoạt động của NHTM và đóng góp của NHTM đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.7 KB, 60 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
***
BÀI THẢO LUẬN MÔN
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đề tài: Hoạt động của NHTM và đóng góp của
NHTM đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Nhóm thảo luận số 3 (Lớp tín chỉ: 4)
1. Nguyễn Văn Đại
2. Hoàng Vũ Long
3. Bùi Khánh Linh
4. Đậu Tuấn Sơn
5. Nguyễn Ngọc Sơn
H
à Nội, Tháng 4 năm 2013
Mục lục Trang
Page 1
Mở đầu………………………………………………………………………… 5
A. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI…………………… 6
I.NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI……………………………………………….6
1. Khái niệm…………………………………………………………… 6
2. Phân loại ngân hàng thương mại………………………………………6
II.HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI……………………… 9
1. Khái quát chung về bảng tổng kết tài sản…………………………… 9
2. Nghiệp vụ của NHTM…………………………………………………11
2.1. Nghiệp vụ tạo vốn…………………………………………… 11
2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn……………………………………… 11
2.2.1. Hoạt động tín dụng (cho vay)
2.2.2. Nghiệp vụ ngân quỹ.
2.2.3.Nghiệp vụ đầu tư tài chính
2.3. Nghiệp vụ ngoài bảng tổng kết tài sản………………………………13


III.VAI TRÒ NHTM ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ………13
B. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTM Ở VIỆT NAM…….16
I. Vốn và hoạt động sử dụng vốn…………………………………………………16
1. Vốn tự có
2. Vốn pháp định
3. Huy động vốn và lãi suất huy động vốn
4. Cổ phiếu và trái phiếu
5. Tác động đến nền kinh tế
Trang
II. QUẢN LÝ HIỆU QUẢ DANH MỤC TÀI SẢN CÓ TẠI CÁC NHTM ở VIỆT NAM………30
Page 2
1. Các nghiệp vụ tài sản có tại Ngân hàng thương mại
2. Phân tích tình hình đầu tư vào tài sản có của các ngân hàng
thương mại tại VN
3. Những hạn chế tồn tại trong quản trị thanh khoản và cho vay
tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
III. Nghiệp vụ tín dụng…………………………………………………………37
1. Khái niệm chung
2. Tác động tích cực đến nền kinh tế
3. Rủi ro tín dụng
IV. Dịch vụ chăm sóc khách hàng…………………………………………….51
1. Khởi nguồn
2. Định nghĩa
3. Thực trạng
C. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG CỦA ……53
CÁC NHTM Ở VIỆT NAM
I. Nhóm giải pháp cho các vấn đề về vốn nói chung và hoạt động huy……….53
động vốn nói riêng
1. Đối với từng Ngân hàng thương mại
2. Đối với Ngân hàng nhà nước

II. Nhóm giải pháp cho vấn đề quản lý tài sản có………………………………54
1.Về quản trị thanh khoản
2. Về quản trị cho vay
Trang
III. Nhóm các Giải Pháp Vấn Đề Tín Dụng…………………………………56
1. Nghiên cứu khách hàng
2. San sẻ rủi ro
Page 3
3. Thực hiện bảo đảm tín dụng
4. Giám sát và cưỡng chế thi hành những quy định hạn chế
5. Hạn chế tín dụng
6. Đa dạng hóa đầu tư
IV. Nhóm giải pháp nâng cao dịch vụ chăm sóc khách hàng……………… 60
D. KẾT LUẬN
Danh mục tài liệu tham khảo
Mở đầu
Sau hơn 26 năm đổi mới,đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ trong mọi
mặt của đời sống xã hội.Sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước,theo định hướng xã hội chủ
nghĩa đã tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ trong nền kinh tế.Chính sự hoạt động
của hệ thống ngân hàng nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng đã tạo điều
kiện và là động lực đảm bảo thắng lợi cho công cuộc đổi mới đó.
Page 4
Trong những năm qua,hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã thực hiện khá
tốt chức năng,vai trò của một trung gian tài chính quan trọng trên thị trường tài
chính.Tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế khu vực và thế giới thì hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam luôn chịu sự tác động của thị trường tài chính toàn cầu.Điều đó đã đặt ra
yêu cầu phải không ngừng củng cố,hoàn thiện hoạt động ngân hàng ,nâng cao chất
lượng và mở rộng các loại hình dịch vụ để có thể đáp ứng được tối đa nhu cầu vốn

và dịch vụ ngân hàng cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước.
Bài thảo luận gồm 3 phần chính:
A. Tổng quan NHTM và vai trò ngân hàng thương mại đối với phát triển kinh tế.
B. Thực trạng hoạt động ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay.
C. Các biện pháp,khuyến nghị nhằm hoàn thiện vai trò của NHTM.
A. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I.NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.Khái niệm
Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM:
• Ở Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung
cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
• Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng
thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận
tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác
Page 5
và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín
dụng và tài chính”.
• Ở Việt Nam, Định nghĩa Ngân hàng thương mại: Ngân hàng thương mại
(còn gọi là ngân hàng tiền gửi hay ngân hàng tín dụng )với nghiệp vụ truyền
thống là huy động vốn phần lớn dưới hình thức ngắn hạn và cho vay ngắn hạn
dưới hình thức chiết khấu thương phiếu là chính.Tuy nhiên,do thị trường tiền tệ
ngày càng phát triển,dần dần các ngân hàng này đi vào kinh doanh tổng
hợp,làm cả nghiệp vụ huy động vốn và cho vay trung dài hạn và làm gần như
tất cả các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng.
Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài chính
mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là
nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn
cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ
của xã hội.
2.Phân loại ngân hàng thương mại

2.1.Dựa vào hình thức sở hữu:
a. Ngân hàng thương mại Quốc doanh (State owned Commercial bank):
Là ngân hàng thương mại được thành lập bằng 100% vốn ngân sách nhà nước.
Trong tình hình hiện nay để tăng nguồn vốn và phù hợp với xu thế hội nhập tài
chính với thế giới các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam đang phát hành
trái phiếu để huy động vốn; đã và đang cổ phần hóa để tăng sức cạnh tranh với các
chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng cổ phần hiện nay.Thuộc loại
này gồm:
– Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Bank for
Agriculture and Rural Development)
– Ngân hàng công thương Việt nam (Industrial and commercial Bank of viet
man – ICBV) gọi tắt là Vietinbank – đã cổ phần hoá)
– Ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam (Bank for Investement and
Development of Viet nam – BIDV) đã cổ phần hóa
– Ngân hàng ngoại thương Việt nam (Bank for Foreign Trade of Viet nam –
Vietcombank) đã cổ phần hoá.
Page 6
– Ngân hàng phát triền nhà đồng bằng sông cửu long (Housing Bank of
Mekong Delta) đã cổ phần hóa
b. Ngân hàng thương mại cổ phần (joint Stock Commercial bank): Là ngân
hàng thương mại được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. Trong đó một cá
nhân hay pháp nhân chỉ được sở hữu một số cổ phần nhất định theo qui định của
ngân hàng nhà nước Việt nam.
- NH TMCP Á Châu
- NH TMCP Phương Đông
- NH TMCP Đông Á
- NH TMCP Quân đội
- …
c. Ngân hàng liên doanh (thuộc loại hình tổ chức tín dụng liên doanh)
Là Ngân hàng được thành lập bằng vốn liên doanh giữa một bên là ngân

hàng thương mại Việt nam và bên khác là ngân hàng thương mại nước ngoài có trụ
sở đặt tại Việt nam, hoạt động theo pháp luật ở Việt Nam
- INDOVINA BANK LIMITTED
- NH Việt Nga
- SHINHANVINA BANK
- VID PUBLIC BANK
- VINASIAM BANK
- …
d.Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo pháp luật
nước ngoài, được phép mở chi nhánh tại Việt Nam, hoạt động theo pháp luật Việt
Nam
Page 7
- CITY BANK
- BANGKOK BANK
- SHINHAN BANK
- DEUSTCH BANK

e. NHTM 100% vốn nước ngoài: là NHTM được thành lập tại VN với 100% vốn
điều lệ thuộc sở hữu nước ngoài; trong đó phải có một NH nước ngoài sở hữu trên
50% vốn điều lệ (NH mẹ). NHTM 100% vốn nước ngoài được thành lập dưới hình
thức công ty TNHH một thành viên hoặc từ hai thành viên trở lên, là pháp nhân
VN, có trụ sở chính tại VN.
- NH TNHH một thành viên ANZ
- NH TNHH một thành viên Standard Chartered
- NH TNHH một thành viên HSBC
- NH TNHH một thành viên Shinhan
- NH TNHH một thành viên Hongleong
2.2. Dựa vào chiến lược kinh doanh
a. Ngân hàng bán buôn: là loại NH chỉ giao dịch và cung ứng dịch vụ cho đối
tượng khách hàng doanh nghiệp chứ không giao dịch với khách hàng cá

nhân.
b. Ngân hàng bán lẻ: là loại NH giao dịch và cung ứng dịch vụ cho đối tượng
khách hàng cá nhân.
c. Ngân hàng vừa bán buôn vừa bán lẻ: là loại NH giao dịch và cung ứng
dịch vụ cho cả khách hàng doanh nghiệp lẫn khách hàng cá nhân.
2.3. Dựa vào tính chất hoạt động
a. Ngân hàng chuyên doanh: là loại NH chỉ hoạt động chuyên môn trong một
lĩnh vực như nông nghiệp, xuất nhập khẩu, đầu tư…
Page 8
b. Ngân hàng kinh doanh tổng hợp: là loại NH hoạt động ở mọi lĩnh vực
kinh tế và thực hiện hầu như tất cả các nghiệp vụ mà một NH có thể được
phép thực hiện.
II.HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.Khái quát chung về bảng tổng kết tài sản.
1.1.Khái niệm.
Bảng tổng kết tài sản (Blance Sheet) của ngân hàng thương mại là một bản báo
cáo tài chính tổng hợp,được trình bày dưới dạng cân đối,phản ánh tổng quát tình
hình sử dụng vốn và nguồn vốn hoạt động của ngân hàng thương mại tại một thời
điểm nhất định.
-Đặc điểm của bảng tổng kết tài sản:
+Báo cáo tại thời điểm nhất định
+Có tính đặc thù:Đối tượng kinh doanh của ngân hàng thương mại là tiền tệ và
quyền sử dụng tiền tệ
+Là báo cáo kế toán phản ánh tài sản của ngân hàng thành hai mặt tài sản Có(sử
dụng vốn) và tài sản Nợ(nguồn vốn).
1.2.Kết cấu bảng tổng kết tài sản
1.2.1.Tài sản Nợ
-Diễn tả những khoản mà NHTM mắc nợ thị trường hay nguồn vốn hoạt động của
NHTM.Có nghĩa là những khoản mà dân chúng gửi vào NHTM hay nó đi vay các
đối tượng trong nền kinh tế như:NHTW,Ngân hàng trung gian hay tổ chức kinh tế

khác,nước ngoài,các doanh nghiệp Ngoài ra còn:Các khoản vốn tự có hay vốn cổ
phần,lợi nhuận trước thuế,tài sản ròng.
1.2.2.Tài sản Có
-Phản ánh những khoản mà thị trường nợ NHTM hay những khoản mục sử dụng
vốn của NHTM,tức là khoản mà NHTM cho thị trường vay,ngoài ra còn được gọi
là khoản đầu tư của ngân hàng.
=>Hai bên Tài sản Có và Tài sản Nợ luôn bằng nhau nên đc gọi là Bảng cân đối kế
toán.
Page 9
Ví dụ Bảng cân đối tài sản đơn giản của một ngân hàng thương mại,cuối năm 1997
(đơn vị %)
Tài sản Nguồn vốn
Các khoản tiền dự trữ
2
Tiền gửi giao dịch
18
Tiền mặt trong quá trình thu
3
Tiền gửi ở NHTM khác
2
Tiền gửi phi giao dịch
+Tiền gửi tiết kiệm
17
+Tiền gửi có kì hạn
34
Chứng khoán
19
Các khoản tiền vay
24
Các khoản tiền cho vay

67
Vốn tự có và coi như tự có
7
Tài sản khác
7
Tổng cộng
100
Tổng cộng
100
2. Các nghiệp vụ của NHTM
2.1.Nghiệp vụ tạo vốn
2.1.1.Khái niệm
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động
được,dùng để cho vay,đầu tư và thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
2.1.2.Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng
-Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
-Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng.
-Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên thương
trường
-Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Page 10
2.1.3.Đặc điểm các nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh NHTM
Vốn của NHTM bao gồm:
• Vốn tự có
• Vốn huy động
• Vốn đi vay
• Vốn khác
2.2.Nghiệp vụ sử dụng vốn
-Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích nhằm đảm
bảo an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của NHTM.

2.2.1.Hoạt động tín dụng (cho vay)
Các NHTM chủ yếu thu lợi nhuận bằng việc cho vay .Tiền cho vay là một khoản
nợ đối với người vay nhưng là một tài sản đối với NHTM và nó mang lại thu nhập
cho ngân hàng.Tiền cho vay là kém lỏng so với các tài sản khác bởi vì chúng
không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các tài khoản cho vay đó mãn hạn,các
tài sản cho vay cũng có xác xuất vỡ nợ cao hơn so với tài sản khác.Do thiếu tính
lỏng và rủi ro cao nên NHTM thường thu được nhiều lợi nhuận.
Khoản tiền cho vay lớn nhất đối với NHTM là các món tiền cho vay thương mại và
công nghiệp dành cho các doanh nghiệp và các món cho vay mua bất động
sản.Ngoài ra:cấp tín dụng cho các tổ chức và cá nhân.
Các NHTM cũng thực hiện các món cho vay giữa các ngân hàng thương mai với
nhau nhưng thường là những món tiền cho vay ngắn hạn được thực hiện thông qua
thị trường liên ngân hàng.
2.2.2Nghiệp vụ ngân quỹ.
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của ngân hàng được dùng với mục đích
đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc
do NHTW đề ra.
Tiền dự trữ bao gồm tiền dự trữ bắt buộc theo luật định mà NHTM phải gửi vào
NHTW và tiền mặt mà các NHTM dự trữ để thanh toán(tiền trong két-tiền dự trữ
vượt quá)
Page 11
2.2.3.Nghiệp vụ đầu tư tài chính
Bắt nguồn từ hai lý do:
• Đặc tính thanh khoản thấp của các khoản vốn vay
• Hoạt động tín dụng ở mức rủi ro cao,đặc biệt với ngân hàng vừa và nhỏ chỉ
giới hạn phạm vi hoạt động trong một địa bàn.
Bên cạnh hoạt động tín dụng các NHTM còn sử dụng một phần nguồn vốn của
mình tham gia hooajt động đầu tư tài chính.Tức là ngân hàng mua các trái phiếu
kho bạc,tín phiếu kho bạc,trái phiếu công ty,cổ phiếu nhằm mục đích sau:
• Tìm kiếm lợi nhuận

• Nâng cao khả năng thanh khoản
• Đa dạng hóa hoạt động kinh doanh nhằm phân tán rủi ro
2.2.3.1.Các đặc điểm nghiệp vụ đầu tư tài chính
a.Là hoạt động kinh doanh của ngân hàng có chi phí điều hành tương đối thấp
Ngân hàng chỉ tiến hành lựa chọn từ một loạt các chứng khoán hiện có,với các kỳ
hạn định sẵn.
b.Đầu tư tài chính là nghiệp vụ lớn thứ hai sau nghiệp vụ kinh doanh tín dụng
c.Dễ thay đổi đổi đối tượng đầu tư
Khi ngân hàng muốn thay đổi mục tiêu đầu tư sao cho phù hợp cới những biến
động của thị trường,môi trường đầu tư hoặc các yêu cầu trong hoạt động kinh
doanh thì ngân hàng có thể dễ dàng thay đổi đối tượng đầu tư,danh mục đầu tư phù
hợp với mong muốn của mình.
2.3.Nghiệp vụ ngoài bảng tổng kết tài sản
(DỊCH VỤ THANH TOÁN,NGÂN QUỸ VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG KHÁC CỦA
NHTM)
-Những hoạt động ngoài bảng tổng kết tài sản liên quan đến việc:Môi giới mua bán
các công cụ tài chính đã tạo ra thu nhập nhờ các khoản lệ phí và chuyển nhượng
những món vay,tất cả chúng tác động đến lợi nhuận của ngân hàng nhưng không
thấy xuất hiện trên bảng tổng kết tài sản ngân hàng.
Page 12
-Ngân hàng cung ứng các dịch vụ thanh toán như:Séc,thư tín dụng,ủy nhiệm chi,ủy
nhiệm thu,thẻ thanh toán.
-Dịch vụ thanh toán trong và ngoài nước:thanh toán chuyển tiền trong nước,thanh
toán chuyển tiền quốc tế,thanh toán quốc tế,thanh toán séc du lịch,chi trả kiều
hối…
-Dịch vụ thu hộ-chi hộ
-Ngoài ra còn các dịch vụ thu tiền,dịch vụ phát tiền,nghiệp vụ chuyển tiền.
III. VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ
1.Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế

Vốn được tạo ra từ quá trình tích lũy,tiết kiệm của mỗi cá nhân,doanh nghiệp và
Nhà nước trong nền kinh tế.Vì vậy muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân
và có mức độ tiêu dùng hợp lý.Để tăng thu nhập quốc dân tức là phải mở rộng quy
mô chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hóa,đẩy mạnh sự phát
triển của các ngành trong nền kinh tế và muốn làm được điều đó cần thiết phải có
vốn.Mặt khác,khi nền kinh tế càng phát triển thì sẽ càng tạo ra nhiều nguồn
vốn,điều đó sẽ có tác động tích cực đến hoạt động của ngân hàng.Ngân hàng
thương mại là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh.NHTM
đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi ở các tổ chức ,cá
nhân,mọi thành phần kinh tế như:vốn tạm thời được giải phóng ra từ quá trình sản
xuất,vốn từ nguồn tiết kiệm của các cá nhân trong xã hội.Bằng vốn huy động được
trong nền kinh tế thông qua hoạt động tín dụng,NHTM sẽ cung cấp vốn cho mọi
hoạt động kinh tế và đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình sản
xuất.Nhờ có hoạt động của hệ thống NHTM và đặc biệt là hoạt động tín dụng các
doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất,cải tiến máy móc công nghệ,tăng năng
suất lao động,nâng cao hiệu quả kinh tế.
2.Ngân hàng là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thi trường.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường,hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác
động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị,quy luật
Page 13
cung cầu,quy luật cạnh tranhvaf sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng nhu cầu thị
trường,thỏa mãn nhu cầu thị trường trong mọi phương diện như:phương diện giá
cả,khối lượng,chất lượng,thời gian,địa điểm.Để đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của
thị trường,các doanh nghiệp đòi hỏi phải đầu tư một khối lượng vốn lớn,nhiều khi
vượt khả năng vốn tự có của doanh nghiệp.Để giải quyết khó khăn này doanh
nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu đầu tư của
mình.Thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng là chiếc cầu nối giữa các doanh
nghiệp với thị trường.Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng cung ứng cho doanh
nghiệp đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá
trình sản xuất kinh doanh,đáp ứng nhu cầu thị trường và từ đó tạo cho doanh

nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.
3. NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường,NHTM hoạt động một cách có hiệu
quả trông qua các hoạt động kinh doanh của mình sẽ thực sự là công cụ để nhà
nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ thống,các NHTM
đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông.Thông qua việc
cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế ,NHTM thực hiện việc dẫn dắt
các luồng tiền,tập hơp và phân chia vốn của thị trường,điều khiển chúng một cách
có hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô:Nhà nước điều tiết ngân
hàng,ngân hàng dẫn dắt thị trường.
4.Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế
Với các nghiệp vụ kinh doanh như nhận tiền gửi,cho vay,nghiệp vụ thanh
toán,nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác,ngân hàng thương mại đã tạo điều
kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng phát triển.Thông qua các hoạt động thanh
toán,kinh doanh ngoại hối,quan hệ tín dụng với các NHTM nước ngoài,hệ thống
NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận
động của nền tài chính quốc tế.
Page 14
B. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTM Ở VN ( số liệu nghiên
cứu trong khoảng giai đoạn từ năm 2006 đến 2012)
I. Vốn và các vấn đề về vốn
1. Vốn tự có
1.1. Tổng quan
Thực tế hiện nay, khi mà cánh cửa hội nhập đang đến “gõ cửa” từng doanh
nghiệp và lộ trình của nó đang ngày một rút ngắn về thời gian thì các NHTM nói
chung và khối các NHTM CP nói riêng đang phải đối mặt với những thách thức
nhất định nhằm cạnh tranh với nền kinh tế khu vực và nền kinh tế thế giới. Trong
đó vấn đề năng lực tài chính là vấn đề trọng tâm nhất là đối với các NHTM CP Việt
Nam. Một trong những giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM

CP Việt Nam trong thời gian tới là tăng vốn tự có.
Về mặt kinh tế, vốn tự có là vốn riêng của Ngân hàng do các chủ sở hữu
đóng góp và nó còn được tạo ra trong qúa trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận
giữ lại.
Vốn tự có cơ bản bao gồm vốn điều lệ (vốn ngân sách cấp, vốn cổ phần
thường, vốn cổ phần ưu đãi vĩnh viễn), quỹ dự trữ, dự phòng, lợi nhuận không chia
và các khoản khác (các tài sản nợ khác theo qui định của NHNN).
Với nền kinh tế thị trường, vốn tự có là cơ sở hình thành pháp lý kinh doanh
cho các doanh nghiệp, đồng thời cũng là yếu tố tài chính quan trọng nhất trong
việc đảm bảo các khoản nợ đối với khách hàng. Với lĩnh vực kinh doanh tiền tệ,
Page 15
vốn tự có còn là yếu tố có ý nghĩa quyết định sống còn đến sự hình thành và phát
triển lâu dài của Ngân hàng. Giai đoạn từ năm 2006 cho đến nay đã chứng kiến
việc đua nhau tăng vốn của các Ngân hàng cổ phần, nhất là khối các NHTMCP
trong nước.
Để rõ hơn về thực trạng nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, dưới đây là một
số kết quả đã đạt được của các NHTM trong thời gian qua, bên cạnh đó là những
mặt còn hạn chế, nguyên nhân và giải pháp để từng bước khắc phục những hạn chế
đó.
1.2. Thực trạng
Thứ nhất, điểm đáng nổi bật trên thị trường tài chính thời gian qua là Nghị
định 141/2006/NĐ-CP, đến cuối năm 2010 vốn điều lệ của các NHTM CP phải đạt
3.000 tỷ đồng. Các tổ chức tín dụng (TCTD) đều rất nỗ lực để hoàn thành việc tăng
vốn điều lệ theo đúng lộ trình quy định của Chính phủ. Tuy nhiên, quá trình tăng
vốn điều lệ đã chịu tác động của một số nguyên nhân khách quan như bối cảnh nền
kinh tế thế giới sau khủng hoảng chưa có dấu hiệu thực sự khả quan.
Bên cạnh đó, việc Chính phủ có chủ trương hạn chế các Tổng công ty, doanh
nghiệp Nhà nước góp vốn ra ngoài lĩnh vực chính cũng là một khó khăn lớn cho
các TCTD cổ phần có cổ đông hiện hữu là các Tổng công ty, doanh nghiệp Nhà
nước khi thực hiện tăng vốn điều lệ. Ngoài ra, một số TCTD cổ phần đã niêm yết

cổ phiếu trên thị trường chứng khoán cũng gặp phải một số quy định về thời gian
khi phát hành cổ phiếu ra công chúng mà không thể hoàn tất việc tăng vốn điều lệ
đúng thời hạn quy định.
Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận đề xuất giãn lộ trình tăng vốn điều lệ
lên 3.000 tỉ đồng đối với các ngân hàng thương mại đến 31-12-2011 theo như đề
xuất của ngân hàng Nhà nước.
Cho đến thời điểm có quyết định gia hạn, có khoảng 17 trên tổng số hơn 40
Ngân hàng và các tổ chức tín dụng vẫn chưa thể hoàn thành mục tiêu tăng vốn điều
lệ theo Nghị định 141. Mặc dù lộ trình tăng vốn điều lệ của các Ngân hàng đã được
Ngân hàng Nhà nước chấp thuận ngay từ cuối tháng 9, vẫn có khá nhiều nguyên
nhân khiến việc thực hiện kế hoạch gặp nhiều khó khăn ở một số Ngân hàng.
Page 16
Để tăng vốn điều lệ, các Ngân hàng chủ yếu huy động từ 3 nguồn chính:
phát hành ra công chúng qua thị trường chứng khoán, phát hành cho các cổ đông
hiện hữu và phát hành cho các cổ đông chiến lược nước ngoài.
Tuy nhiên, bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước khiến thị trường chứng khoán
trong năm trồi sụt và ảm đạm, các cổ đông hiện hữu là các tổng công ty, doanh
nghiệp nhà nước hay Ngân hàng lớn của nhà nước bị hạn chế góp vốn cho các hoạt
động ngoài lĩnh vực chính, thậm chí còn bị yêu cầu thoái vốn từ các tổ chức tài
chính, trong khi kinh tế thế giới phục hồi chậm lại khiến sự quan tâm của nhà đầu
tư nước ngoài không còn mặn mà.
Các nguồn huy động này còn đặc biệt khó khăn hơn nữa đối với các Ngân
hàng nhỏ, chưa có thương hiệu và còn đang gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh.
Ước tính còn khoảng 10 nghìn tỷ đồng mà các Ngân hàng này cần phải huy động
thêm nếu muốn thực hiện đúng quy định, điều mà khó có thể hoàn thành trong
khoảng thời gian ngắn ngủi còn lại của năm 2010.
Rõ ràng, việc giãn thời gian tăng vốn điều lệ là không thể tránh khỏi, nếu
Ngân hàng Nhà nước không muốn những biến động khó kiểm soát trong hệ thống
tài chính trong bối cảnh kinh tế vĩ mô trong nước năm 2010 vẫn chưa ổn định.
Ví dụ, ở thời điểm năm 2011, việc sát nhập những Ngân hàng nhỏ và năng

lực điều hành kém có thể sẽ là giải pháp mang lại nhiều xáo trộn, Ngân hàng Nhà
nước khó giám sát phòng ngừa và ngăn chặn rủi ro.
Mặc dù các Ngân hàng vẫn phải tăng vốn cho đến 31/12/2011, nhưng với số
vốn bổ sung thêm chỉ còn 10 nghìn tỷ đồng, hiện tượng cổ phiếu ngành Ngân hàng
bị pha loãng có thể sẽ không tái diễn, khi các Ngân hàng có tới một năm để thu xếp
các nguồn vốn cần thiết, trong kỳ vọng chính sách tiền tệ có thể không còn quá thắt
chặt vào quý 2 năm 2011.
Trong khi đó, các Ngân hàng quy mô nhỏ có thể quẳng gánh lo tăng vốn
điều lệ trong ngắn hạn để tập trung khả năng và nguồn lực để giải quyết những vấn
đề nội tại như đảm bảo các điều kiện an toàn theo Thông tư 13, đảm bảo thanh
khoản cho thời điểm cuối năm và giáp Tết, hoàn thành các chỉ tiêu tín dụng và lợi
nhuận và củng cố khả năng cạnh tranh trong bối cảnh lãi suất gia tăng.
Tuy nhiên, việc hoãn tăng vốn điều lệ đến một năm có thể phải trả giá trong
dài hạn. Không phải vô cớ mà Ngân hàng Nhà nước muốn các Ngân hàng thương
Page 17
mại tăng vốn điều lệ năm 2010 là 3.000 tỷ đồng, và có lộ trình tăng lên 5 nghìn tỷ
(năm 2012) và 10 nghìn tỷ (năm 2015).
Một hệ thống tài chính gồm quá nhiều Ngân hàng quy mô nhỏ, năng lực tài
chính yếu luôn là một rủi ro đến an toàn hệ thống. Những hiện tượng như cuộc đua
lãi suất bắt nguồn từ những Ngân hàng nhỏ do tình trạng khát vốn, cho vay lãi suất
cao trong khi khả năng quản trị điều hành kém, vay ngắn hạn trên thị trường liên
Ngân hàng để cho vay dài hạn và đẩy lãi suất liên Ngân hàng tăng cao là những
ví dụ cho thấy việc tồn tại song song những Ngân hàng có quy mô khác biệt lớn có
thể gây bất ổn đến hệ thống như thế nào.
Việc trì hoãn tăng vốn trong vòng 1 năm tới cũng đồng nghĩa với việc những
hiện tượng trên nhiều khả năng sẽ còn tiếp tục tái diễn, và theo đó, nỗ lực giảm lãi
suất và bình ổn thị trường vốn sẽ còn gặp rất nhiều cam go.
Ngoài ra, quy định hệ số an toàn vốn CAR trong Thông tư 13 sẽ tiếp tục là
cản trở các Ngân hàng không thể tăng mạnh được tài sản đã điều chỉnh rủi ro, nếu
phần tử số - vốn tự có - vẫn ở quy mô thấp.

Do đó, mức lãi suất đầu ra ở các Ngân hàng, đặc biệt các Ngân hàng nhỏ, sẽ
tiếp tục gặp khó trong quá trình điều chỉnh giảm. Hơn nữa, động thái gia hạn thêm
với thời gian tương đối dài là không cần thiết, khi các Ngân hàng nhỏ đã có rất
nhiều nỗ lực để tăng vốn điều lệ trong suốt năm qua, và số vốn mà các Ngân hàng
còn thiếu thực ra không quá lớn, nếu có với quy mô và khả năng của cả hệ thống
tài chính.
Và cuối cùng nhưng chắc chắn chưa phải là hồi kết, những quan ngại “kinh
niên” về tính nhất quán và hiệu lực của các quy định hay chính sách của Ngân
hàng Nhà nước tiếp tục ám ảnh thị trường. Niềm tin, điều tối quan trọng để điều
hành chính sách tiền tệ có hiệu quả và theo đó ảnh hưởng đến ổn định trong dài
hạn, vẫn tiếp tục là điều phải chờ đợi.
Vấn đề cơ bản của quy định về vốn điều lệ của một Ngân hàng không hẳn ở
chỗ một nền kinh tế có quá nhiều hay quá ít Ngân hàng, hay Ngân hàng quá
nhỏ. Mấu chốt của vấn đề vốn điều lệ là đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính,
nên việc tăng vốn theo quy định cần thực hiện đồng bộ với các giải pháp như phân
loại và quản lý nợ theo chuẩn mực quốc tế thì mới đạt mục đích đề ra.
Page 18
Một hệ thống tài chính an toàn khi các Ngân hàng có hệ số an toàn vốn
(CAR – capital adequacy ratio) cao, nói cách khác có đủ vốn để “chịu trận” khi lỗ.
Nếu vốn thấp mà lỗ nặng, Ngân hàng sẽ phá sản và vì đặc thù của loại hình kinh
doanh này sẽ rất dễ kéo toàn hệ thống sụp đổ theo, liên luỵ cho cả nền kinh tế.
Hệ số an toàn vốn (vốn tự có/tổng tài sản có rủi ro, capital adequacy ratio –
CAR) là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh năng lực tài chính của các Ngân hàng.
Chỉ tiêu này được dùng để xác định khả năng của Ngân hàng trong việc thanh toán
các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro
vận hành.
Điều quan trọng là hệ số này phụ thuộc vào hai yếu tố: tử số là vốn điều lệ
và mẫu số là tổng tài sản. Như vậy để tăng độ an toàn cho một Ngân hàng hay toàn
bộ hệ thống, nhà quản lý hoặc chặn không cho Ngân hàng tăng tổng tài sản quá cao
hoặc yêu cầu Ngân hàng phải tăng vốn. Việc NHNN yêu cầu các Ngân hàng tăng

vốn tối thiểu lên 3.000 tỉ đồng có thể coi là một vế của kế hoạch tăng hệ số an toàn
vốn cho toàn hệ thống, nhưng chỉ yêu cầu tăng vốn điều lệ tối thiểu là không đủ và
có thể còn làm tăng rủi ro.
+ Một là, nếu Ngân hàng tăng vốn điều lệ đồng thời tăng tổng tài sản thì hệ
số an toàn vốn có thể không tăng. Đây là khả năng rất dễ xảy ra vì một Ngân hàng
khi đi huy động vốn điều lệ họ không thể nói tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
(ROE) của Ngân hàng này sẽ giảm, như thế không ai bỏ tiền mua cổ phiếu của
Ngân hàng đó. Để ROE không giảm trong khi hệ số an toàn vốn tăng, Ngân hàng
buộc phải tăng tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), một điều không dễ trong
hoàn cảnh hoạt động Ngân hàng ở Việt Nam còn rất khó khăn như hiện nay.
+ Hai là, vấn đề phân loại nợ xấu và trích lập dự phòng cho các khoản nợ
xấu đó của các Ngân hàng vẫn còn khoảng cách so với chuẩn mực quốc tế. Cứ giả
sử NHNN thành công trong việc tăng hệ số an toàn vốn của toàn hệ thống, nhưng
nếu nợ xấu vẫn được giấu kỹ ở đâu đó thì hệ số an toàn vốn mà các Ngân hàng báo
cáo chỉ là số ảo, con số thực sẽ thấp hơn nhiều và rủi ro tiềm ẩn cao hơn nhiều.
+ Ba là, Việc yêu cầu tăng vốn điều lệ sẽ buộc các Ngân hàng phải chạy đua
tăng ROE/ROA như đề cập ở trên để cạnh tranh thu hút vốn. Trường hợp này rủi ro
nợ xấu sẽ tăng lên, do vậy không giải quyết được vấn đề phân loại và theo dõi nợ
xấu. Yêu cầu tăng vốn điều lệ (để tăng hệ số an toàn vốn) do đó không giải quyết
được bài toán an toàn cho hệ thống.
Page 19
+ Bốn là, khi các Ngân hàng không đáp ứng đủ điều kiện về vốn điều lệ, thì
buộc phải sáp nhập. Về mặt số học, đây là giải pháp sai lầm vì hai Ngân hàng có hệ
số an toàn vốn thấp sau khi sáp nhập hệ số này không thể tăng dù vốn điều lệ tăng.
NHNN lập luận rằng với số Ngân hàng ít đi họ sẽ giám sát chặt chẽ hơn và bản
thân các Ngân hàng sẽ cẩn thận hơn và điều hành tốt hơn là những Ngân hàng nhỏ
manh mún hiện nay. Trước hết cần xác định, Ngân hàng càng lớn thì hoạt động và
sản phẩm càng phức tạp, NHNN sẽ càng khó giám sát và kiểm tra để phòng ngừa
hay ngăn chặn rủi ro. Ngoài ra, Ngân hàng lớn sẽ có nhiều cách để “lách luật”,
hoặc tệ hơn nữa là tìm cách ảnh hưởng tới quá trình làm luật và các chính sách để

có lợi cho mình.
Các Ngân hàng nhỏ hiện nay thiếu chuyên môn và hoạt động quá liều lĩnh có
một phần chính xác. Tuy nhiên giải pháp sáp nhập các Ngân hàng nhỏ và/hoặc
buộc tăng vốn điều lệ không giải quyết được nguyên nhân căn bản. Chuyên môn và
nghiệp vụ Ngân hàng không phải là điều quá khó để các Ngân hàng nhỏ có thể học
được (với sự giúp đỡ của NHNN). Việc điều hành những Ngân hàng nhỏ có 1 – 2
chi nhánh đơn giản hơn nhiều so với một Ngân hàng lớn có chi nhánh toàn quốc và
cả ở nước ngoài. Việc tăng chuyên môn phụ thuộc vào sự đào tạo, giúp đỡ, giám
sát của NHNN nhiều hơn là vào việc sáp nhập. Các Ngân hàng nhỏ sau khi sáp
nhập với nhau không có nghĩa đội ngũ nhân viên và lãnh đạo tự nhiên có trình độ
chuyên môn tăng lên.
+ Điểm cuối cùng và không kém phần quan trọng, cần phải xác định đâu là
nguyên nhân chính khiến các Ngân hàng nhỏ hoạt động quá rủi ro (ví dụ chạy đua
lãi suất hay vay ngắn hạn trên thị trường liên Ngân hàng để cho vay dài hạn). Đó
không phải là vì họ nhỏ và thiếu chuyên môn mà đó là hậu quả tất yếu của việc các
Ngân hàng quốc doanh và một vài Ngân hàng lớn được hưởng nhiều ưu đãi nên
các Ngân hàng nhỏ không còn cách nào khác là phải liều lĩnh hơn để đạt được
ROE như đã hứa với các cổ đông.
Tỷ trọng vốn tự có/tổng tài sản của các Ngân hàng thương mại nhìn chung
còn thấp chỉ đạt trên dưới 5%. Để đảm bảo hiệu quả sử dụng các nguồn vốn và
đảm bảo phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh thì các Ngân hàng thương mại nên
tăng tỷ lệ này lên khoảng từ 8% - 10 % là hợp lý.
2. Vốn pháp định
2.1. Khái niệm
Page 20
Theo quy định tại Điều 4 Luật Doanh nghiệp (2005) thì khái niệm vốn pháp
định được hiểu là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật để thành
lập doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là Nhà nước sẽ đặt ra mức sàn tối thiểu về
vốn đối với một số ngành nghề cụ thể và nhà đầu tư phải đáp ứng số vốn đó từ
bằng hoặc lớn hơn mức mà nhà nước đặt ra thì mới được thành lập doanh nghiệp

và hoạt động trong ngành nghề đó.
Quy định về vốn pháp định là việc làm cần thiết để nhằm tạo ra sự an toàn
cho xã hội và đảm bảo trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp trước đối tác và chủ
nợ. Vì thực chất những ngành nghề như kinh doanh tiền tệ – tín dụng, kinh doanh
bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán trên thế giới nhiều quốc gia cũng đã và đang áp
dụng mức vốn pháp định, cho nên ở Việt Nam cũng không là ngọai lệ.
2.2. Thực trạng
Theo Nghị định 10/2011/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2006 về ban hành Danh mục
mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng. Theo đó, tổ chức tín dụng được cấp
giấy phép thành lập và hoạt động sẽ phải có biện pháp bảo đảm số vốn điều lệ thực
góp hoặc được cấp tối thiểu tương đương mức vốn pháp định theo quy định, chậm
nhất vào ngày 31/12/2011, thay cho quy định cũ thời hạn này là ngày 31/12/2010.
Với các Ngân hàng thương mại, mức vốn pháp định áp dụng cho đến năm
2011 là 3.000 tỷ đồng; chi nhánh Ngân hàng nước ngoài là 15 triệu USD; với Ngân
hàng chính sách, Ngân hàng phát triển là 5.000 tỷ đồng; Ngân hàng đầu tư, Ngân
hàng hợp tác và quỹ tín dụng Nhân dân Trung ương là 3.000 tỷ đồng; với công ty
tài chính là 500 tỷ đồng; công ty cho thuê tài chính là 150 tỷ đồng.
Theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP, các NHTM có thời gian 4 năm để thực
hiện việc tăng vốn điều lệ với 2 giai đoạn cụ thể (giai đoạn 1 kết thúc 31/12/2008
và giai đoạn 2 kết thúc 31/12/2010).
Tuy nhiên, quá trình tăng vốn điều lệ đã chịu tác động của một số nguyên
nhân khách quan, khiến việc tăng vốn điều lệ từ các nguồn khác nhau của nhiều
NHTM trong nước gặp phải một số khó khăn.
Vì vậy, việc gia hạn thời gian tăng vốn điều lệ cho các NHTM đến
31/12/2011 là một trong những chủ trương đúng đắn. Bởi sẽ giảm bớt áp lực về
thời gian tăng vốn cho các NHTM chưa thể tăng đủ ngay mức vốn pháp định,
nhưng đảm bảo có sự công bằng đối với những NHTM thời gian qua đã nỗ lực
tăng vốn để đảm bảo đủ mức vốn pháp định theo chỉ đạo của Chính phủ và Ngân
hàng Nhà nước.

Dù được gia hạn việc nâng vốn pháp định lên 3.000 tỉ đồng thêm một năm
nữa nhưng kết thúc năm 2010 (31-12), nhiều Ngân hàng thương mại vẫn nâng vốn
pháp định đảm bảo quy định pháp luật.
Page 21
Như Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (VIETBANK) đến ngày 30-
12 mới chính thức hoàn thành các thủ tục pháp lý tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỉ
đồng.
VIETBANK cho biết việc tăng vốn điều lệ này được thực hiện theo công
văn chấp thuận tăng vốn lên 3.000 tỉ đồng của Ngân hàng Nhà nước ngày 21-9 và
nằm trong kế hoạch của Ngân hàng theo đúng lộ trình. Không chỉ có VIETBANK
mà Đại Á và Tiên Phong cũng nâng vốn đúng thời hạn.
Các Ngân hàng trên cho biết dù được gia hạn thời gian thêm 12 tháng nhưng
có ít Ngân hàng ỉ lại và nhiều Ngân hàng vẫn hoàn thành việc tăng vốn theo đúng
lộ trình (31-12-2010). Việc tăng vốn như quy định nhằm nâng cao năng lực tài
chính cũng như vị thế cạnh tranh trong những năm tới.
Và quan trọng, là vẫn đảm bảo tiếp tục duy trì mục tiêu tăng vốn điều lệ để
nâng cao năng lực tài chính của các NHTM, tiếp tục khuyến khích các NHTM tăng
vốn điều lệ để sớm đạt được mức vốn pháp định.
3. Huy động vốn và lãi suất huy động vốn
3.1. Thực trạng
Hầu hết các Ngân hàng thương mại chỉ có từ 20-30 % là vốn tự có, còn lại là
vốn đi vay.Vì vậy, việc thu hút vốn là vấn đề hàng đầu của các Ngân hàng thương
mại và vốn cũng là một câu hỏi lớn nhất của nền kinh tế Việt Nam.
Những năm gần đây tốc độ tăng trưởng nguồn vốn đầu tư khá cao, tuy nhiên
tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn lại thấp, mà chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn.
Có nhiều hạn chế gây khó khăn trong việc huy động vốn của cac NHTM, trước
hết là về phía bản thân các NHTM.
Thứ nhất, mức độ cạnh tranh trên thị trường vốn ngày càng cao.
Việc huy động vốn của các NHTM phải cạnh tranh với các kênh thu hút vốn khác
như tiết kiệm bưu điện, bảo hiểm nhân thọ, hoạt động đầu tư bất động sản, đầu tư

cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường tài chính.
Thứ hai, nội lực của chính các Ngân hàng, với quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân
lực hạn chế, trình độ công nghệ còn chậm tiến so với các nước trong khu vực.
Công nghệ Ngân hàng hiện đại và dịch vụ tuy đã có bước phát triển, nhưng
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Hệ thống dịch vụ Ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao,
chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ Ngân hàng truyền
Page 22
thống. Các Ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng
nguồn vốn huy động.
Thứ ba, dựa vào công cụ lãi suất để cạnh tranh thu hút khách hàng. Tuy
nhiên, công cụ này cũng chỉ có tác dụng ở mức giới hạn nhất định.
Do không thể đa dạng hóa các loại hình dịch vụ Ngân hàng đã khiến các
Ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu dựa vào công cụ lãi suất để cạnh tranh
thu hút khách hàng
Lãi suất là một trong những công cụ để các NHTM thu hút vốn, tuy nhiên,
công cụ này cũng chỉ có tác dụng ở mức giới hạn nhất định. Sức ép cạnh tranh đã
khiến các Ngân hàng gần như đồng loạt công bố tăng lãi suất huy động vốn. Đáng
lo ngại trước tình trạng lãi suất đang chạm sát với giới hạn sinh lãi, khả năng an
toàn các các Ngân hàng và tác động tới tăng trưởng kinh tế. Cạnh tranh trong việc
thu hút vốn đã tạo ra cuộc chạy đua lãi suất trên thị trường nhằm giảm bớt những
nguy cơ rủi ro thanh khoản đang có chiều hướng gia tăng.
Nhiều NHTM đã liên tục tăng lãi suất với tần suất thay đổi có khi tới 3 đến 4
lần/tuần, và không chỉ diễn ra ở các NHTM cổ phần nhỏ mà còn đối với cả các
NHTM cổ phần hàng đầu và các NHTM Nhà nước.
Theo nhìn nhận của các chuyên gia, hiện lãi suất huy động vốn mà các
NHTM đang áp dụng là quá cao, ngay cả khi lạm phát ở mức 10%. Thông thường
các NHTM chỉ nên đưa ra mức lãi suất huy động bảo đảm nguyên tắc lãi suất
dương, có lợi cho người gửi tiền là được.
Để đảm bảo cho thị trường tín dụng ổn định, Hiệp hội Ngân hàng đã đưa ra

và kêu gọi đồng thuận với mức lãi suất trần huy động là 12%/năm vào những tháng
đầu năm 2010. Nhưng diễn biến lãi suất, cả huy động và cho vay hiện nay, lại
không theo cái "lẽ phải thông thường" đó. Biểu hiện bất thường, ẩn chứa nhiều bất
ổn của lãi suất có thể thấy ở hai khía cạnh lớn của vấn đề. Thứ nhất là nhiều
NHTM, tuy chỉ niêm yết mức lãi suất huy động 12%/năm, nhưng cộng thêm các
chi phí khuyến mãi (bằng cả thưởng tiền "nóng", thưởng lãi suất…) khiến lãi suất
huy động trong thực tế đã vượt xa niêm yết. Có Ngân hàng thực hiện ghi lãi suất
huy động trên sổ chỉ 12%/năm, nhưng lại kèm theo cam kết bằng văn bản trả thêm
3% lãi suất cho món tiền gửi đó khi đáo hạn. Tình trạng khuyến mãi huy động
không chỉ diễn ra đối với NHTM nhỏ, mà ở cả các NHTM lớn. Thứ hai là có một
số NHTM công khai "vượt trần" lãi suất huy động 12%/năm.
Page 23
Trường hợp lách luật đầu tiên là NHTM CP Sài Gòn (SCB). Từ ngày
7/4/2008, SCB đã triển khai kế hoạch phát hành 3.000 tỷ đồng kỳ phiếu kéo dài
cho tới 4/6/2008. Kỳ phiếu có thời hạn 270 ngày và 360 ngày, với lãi suất trả trước
là 1%/tháng, tương đương 12%/năm. Như vậy lãi suất thực khách hàng được trả
khi mua kỳ phiếu lên tới trên 13%/năm. Đặc biệt là khách hàng còn được khuyến
mại thông qua tham gia chương trình quay số dự thưởng của SCB với tổng trị giá
giải thưởng là 2,5 tỷ đồng; trong đó có giải đặc biệt là 2kg vàng SJC trị giá hơn 1
tỷ đồng, kèm theo rất nhiều giải khác có giá trị.
NHTM CP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) cũng triển khai chương trình tiết kiệm
nhận ngay tiền lãi, với 7 loại gửi tiết kiệm đồng Việt Nam kỳ hạn từ 1 tháng đến 6
tháng trả lãi trước là 10,5%/năm; các kỳ hạn từ 7 đến 13 tháng cũng trả lãi trước,
với lãi suất 11,0%/năm. Nhìn bề ngoài thì lãi suất của SHB thực hiện theo đúng
thoả thuận giữa các NHTM thành viên do Hiệp hội Ngân hàng chủ trì, nhưng do lãi
trả trước nên tính thực ra lãi suất khách hàng được hưởng lên tới 12%/năm.
Một số NHTM cổ phần quy mô nhỏ khác, hay NHTM CP nông thôn,
NHTM CP nông thôn mới chuyển lên thành NHTM CP đô thị cũng cho biết đang
chuẩn bị điều chỉnh lãi suất huy động vốn đồng Việt Nam lên trên 11%/năm. Các
NHTM CP này kêu ca rằng họ đang ở vào thế bất lợi so với các NHTM NN và

NHTM CP quy mô lớn, quy mô khá, do đó vốn huy động từ khi áp dụng trần lãi
suất thỏa thuận không tăng, thậm chí cá biệt có Ngân hàng còn giảm.
Việc các NHTM đồng loạt tăng lãi suất đang gây ra nhiều lo ngại. Đại diện
một NHTM phân tích, lãi suất huy động USD tăng cao sẽ ảnh hưởng đến chi phí
đầu vào của cả doanh nghiệp và Ngân hàng. Bởi khi lãi suất huy động tăng thì lãi
suất cho vay khách hàng cũng phải tăng. Điều này sẽ khiến chi phí của doanh
nghiệp đội lên cao, gây áp lực tăng giá, một trong những nguyên nhân dẫn đến lạm
phát. Cứ như thế, lạm phát tăng buộc các Ngân hàng lại phải tăng lãi suất huy động
để đảm bảo thực dương. Đồng thuận với việc cần đảm bảo lãi suất thực dương là
câu hỏi: Vậy lãi suất thực dương ở mức nào thì hợp lý? Lo ngại lớn nhất sau khi lãi
suất huy động USD lên cao chính là việc tỷ giá VND/USD sẽ chịu nhiều áp lực.
Bởi khi lãi suất USD tăng cũng đồng nghĩa với việc USD lên giá, khi đó VND bị
coi là giảm giá so với USD. Điều này sẽ gây ra nhiều phản ứng tiêu cực trên thị
trường tiền tệ đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế đang có nhiều biến động hiện nay.
Page 24
Sau những ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống kinh tế của cuộc chay đua lãi
suất, cuối năm 2010, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận
và cùng với các biện pháp điều hành tiền tệ linh hoạt lãi suất huy động và cho vay
VND của các Ngân hàng thương mại giảm dần (mức giảm khoảng 1%). Thời gian
gần đây, các Ngân hàng đã thực hiện đồng thuận lãi suất huy động VND không
vượt quá 14%/ năm.
Thứ tư, những NHTM trong nước hiện đang nắm giữ khoảng gần 90% thị
phần. Nhưng đây không phải là lợi thế của chúng ta mà chỉ là kết quả tất yếu của
sự bảo hộ trong suốt thời gian qua.
Bên cạnh những hạn chế của bản thấn các NHTM, cũng phải kể đến những
hạn chế khách quan từ môi trường vĩ mô.
Chính sách nhà nước về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (trong đó
có NHTMNN) còn chậm và nhà nước còn can thiệp vào hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng.
Yếu tố giá cả tăng mạnh trong 2 năm gần đây gây ra tâm lý e ngại gửi tiền:

Người dân e ngại gửi tiền VND dài hạn vào hệ thống Ngân hàng, dẫn đến việc
người dân chuyển sang đầu tư vào bất động sản, hoặc tích trữ dưới dạng USD và
vàng.
Về phía khách hàng, tốc độ tăng trưởng kinh tế dù được duy trì ở mức cao
trong nhiều năm nhưng thu nhập quốc dân bình quân đầu người vẫn còn thấp, tiết
kiệm và tích lũy trong dân cư tuy đã tăng nhưng còn ở mức khiêm tốn và dân cư
vẫn chưa thực sự tin tưởng khi gửi tiết kiệm.
Qua thực tế trên cho thấy hiện nay, các Ngân hàng chưa tiếp cận các nguồn
vốn ở nông thôn, chưa hướng người dân thay đổi tập quán cất vàng chuyển sang
gởi tiền tiết kiệm tại các Ngân hàng.
3.2. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân của thực trạng lãi suất cao. Phải kể đến những biến
động tăng đột biến của giá vàng thế giới đã khiến giá vàng trong nước tăng vọt
trong thời gian qua. Bên cạnh đó, biến động tỷ giá ngoại tệ. Không thể phủ nhận
chính những biến động của giá vàng và tỷ giá đã làm nảy sinh tâm lý lo sợ lạm
phát cao khiến một phần tiền gửi bị hút đầu tư vào vàng và đôla, khiến nguồn huy
động của các NHTM cũng bị ảnh hưởng. Người ta cũng nói đến một nguyên nhân
Page 25

×