1
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƢƠNG 1:CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ VAI TRÒ CỦAVỐN ĐẦU TƢ ĐỐI VỚI TĂNG TRƢỞNG 3
1. Một số khái niệm chung 3
1.1. Vốn đầu tƣ 3
1.2. Khái niệm tăng trƣởng kinh tế 4
2. Vai trò của vốn đối với tăng trƣởng kinh tế 5
2.1. Mô hình Harrod –Domar 5
2.2. Mô hình tăng trƣởng Solow 6
2.3. Mô hình tổng cầu- tổng cung 12
CHƢƠNG 2: VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ĐỐI VỚI SỰ TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2000-2011 14
1. Vai trò của nguồn vốn đối với tăng trƣởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2000-2011 14
2. Vai trò của vốn đối với tăng trƣởng kinh tế phân theo thành phần kinh tế 17
2.1. Vai trò của nguồn vốn khu vực kinh tế nhà nƣớc 17
2.2. Vai trò của nguồn vốn ngoài nhà nƣớc 20
2.3. vai trò của nguồn vốn nƣớc ngoài 23
CHƢƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA VỐN TRONG TĂNG TRƢỞNG
KINH TẾ 26
1. Đối với nguồn vốn khu vực kinh tế nhà nƣớc 26
1.1. Nguốn vốn ngân sách nhà nƣớc 26
1.2. Nguồn vốn tín dụng đầu tƣ phát triển của nhà nƣớc 27
1.3. Nguồn vốn đầu tƣ phát triển của doanh nghiệp nhà nƣớc 27
1. Đối với nguồn vốn kinh tế tƣ nhân 28
2. Đối với nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài 28
2.1. Nguồn vốn viện trợ chính thức 28
2.2. Nguồn vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài 29
KẾT LUẬN 30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 31
2
LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trƣởng kinh tế có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia,
nó là điều kiện vật chất cần thiết để đảm bảo cho sự phát triển. Ngày nay, nó đã trở
thành mục tiêu và là động lực của nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là đối với các nƣớc
đang phát triển nhƣ nƣớc ta.
Tuy nhiên, tăng trƣởng kinh tế lại phụ thuộc vào các yếu tố nguồn lực và khả
năng huy động, sử dụng các yếu tố đó vào quá trình sản xuất để tạo ra của cải vật chất
cho xã hội. Quá trình đó liên tục đƣợc tiếp diễn và tạo thành chu kỳ tái sản xuất với
quy mô ngày càng đƣợc mở rộng, đây là cơ sở và cũng chính là kết quả đƣợc tích luỹ
lại từ hoạt động đầu tƣ. Nhƣ vậy, đầu tƣ có tác động trực tiếp đối với tăng trƣởng kinh
tế và phát triển của một nền kinh tế. Kết quả của hoạt động đầu tƣ là làm gia tăng năng
lực sản xuất, cung ứng các sản phẩm vật chất, dịch vụ cho nền kinh tế, thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển giao công nghệ, từ đó tạo đà cho sự tăng
trƣởng và phát triển kinh tế.
Trong những năm qua, nền kinh tế nƣớc ta ngày càng phát triển, duy trì đƣợc
mức tăng trƣởng cao và ổn định so với nhiều nƣớc trong khu vực và trên thế giới, mức
sống ngƣời dân đƣợc cải thiện rõ rệt, chất lƣợng cuộc sống đƣợc nâng cao Để có
đƣợc những thành tựu đó, phải kể đến vai trò đặc biệt quan trọng của vốn đầu tƣ. Với
những chính sách nhằm thu hút và sử dụng có hiệu qủa vốn đầu tƣ trong và ngoài
nƣớc, Việt Nam đang nâng cao uy tín, vị thế của mình trên trƣờng quốc tế.
Nhận thấy tầm quan trọng và sự cần thiết của yếu tố vốn đầu tƣ trong điều kiện
Việt Nam hiện nay, nhóm nghiên cứu dƣới sự hƣớng dẫn của Th.S Nguyễn Thị Hải
Yến đã quyết định lựa chọn đề tài :“ Vai trò của vốn đầu tƣ đối với tăng trƣởng
kinh tế Việt Nam giai đoạn 2000-2011”. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đánh giá
vai trò của yếu tố vốn tới tăng trƣởng kinh tế, đồng thời tìm ra những nguyên nhân của
hạn chế và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của vốn trong tăng trƣởng kinh
tế Việt Nam.
3
CHƢƠNG 1:CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ VAI TRÒ CỦAVỐN ĐẦU
TƢ ĐỐI VỚI TĂNG TRƢỞNG
1. Một số khái niệm chung
1.1. Vốn đầu tƣ
Đầu tƣ là việc hy sinh các nguồn lực ở hiện tại nhằm thu đƣợc lợi ích trong
tƣơng lai bằng cách đƣa các nguồn lực hiện tại vào quá trình tái sản xuất xã hội.
Vốn đầu tƣ là nguồn vốn phục vụ cho các hoạt động đầu tƣ phát triển. Về bản
chất, nguồn hình thành vốn đầu tƣ chính là phần tiết kiệm hay tích lũy mà nền kinh tế
có thể huy động đƣợc để đƣa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Khẳng định này đã đƣợc
chứng minh ở hầu hết các trƣờng phái kinh tế học nhƣ: kinh tế học cổ điển, kinh tế học
chính trị Mác-Lênin và kinh tế học hiện đại.
Trong tác phẩm “ Của cải của các dân tộc” (1776), Adam Smith đã khẳng định:
“Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích lũy
cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết
kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên”
Sang thế kỷ XIX, theo quan điểm của Mác, con đƣờng cơ bản và quan trọng về
lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong
sản xuất và tiêu dùng, hay nói cách khác, nguồn lực cho đầu tƣ tái sản xuất mở rộng
chỉ có thể đáp ứng đƣợc do sự gia tăng sản xuất và tích lũy của nền kinh tế .
Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tƣ lại tiếp tục đƣợc các nhà kinh tế
học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng quát về việc làm,
lãi suất và tiền tệ” của mình, John Maynard Keynes đã chính minh đƣợc rằng: Đầu tƣ
chính là phần thu nhập mà không chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra
rằng , tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng. Điều này có nghĩa
là: Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tƣ
Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng
4
Nhƣ vậy: Đầu tƣ = Tiết kiệm
Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tƣ xuất phát từ tính chất song
phƣơng của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và một bên là ngƣời tiêu dùng.
Thu nhập chính là chênh lệch giữa tổng doanh thu cung cấp dịch vụ và bán hàng với
tổng chi phí. Nhƣng toàn bộ các sản phẩm phải đƣợc bán ra cho ngƣời tiêu dùng hoặc
các nhà sản xuất khác. Mặt khác đầu tƣ hiện hành chính bằng phần tăng thêm năng lực
sản xuất mới trong kỳ. Vì vậy, xét về tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với tiêu
dùng mà đƣợc gọi là tiết kiệm không thể khác với phần gia tăng năng lực sản xuất mà
đƣợc gọi là đầu tƣ.
Tuy nhiên điều kiện cân bằng trên chỉ đạt đƣợc trong nền kinh tế đóng. Trong
nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tƣ bằng tiết kiệm của nền kinh tế không phải bao giờ
cũng đƣợc thiết lập. Phần tích lũy của nền kinh tế có thể lớn hơn nhu cầu đầu tƣ tại
nƣớc sở tại, khi đó vốn có thể đƣợc chuyển sang nƣớc khác để thực hiện đầu tƣ. Ngƣợc
lại, vốn tích lũy của nền kinh tế có thể ít hơn nhu cầu đầu tƣ, khi đó nền kinh tế phải
huy động tiết kiệm từ nƣớc ngoài. Trong trƣờng hợp này, mức chênh lệch giữa tiết
kiệm và đầu tƣ đƣợc thể hiện trên tài khoản vãng lãi
CA = S – I
Trong đó: CA là tài khoản vãng lai (current account)
Trong nền kinh tế mở, nếu nhu cầu đầu tƣ lớn hơn tích lũy của nền kinh tế dẫn
đến tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn đầu tƣ từ nƣớc ngoài. Khi
đó, đầu tƣ nƣớc ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một trong những nguốn vốn đầu tƣ
quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích lũy của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tƣ trong
nƣớc trong điều kiện thặng dƣ tài khoản vãng lai thì quốc gia có thể đầu tƣ ra nƣớc
ngoài hoặc cho các nƣớc khác vay nhằm sử dụng vốn hiệu quả hơn.
1.2. Khái niệm tăng trƣởng kinh tế
Tăng trƣởng kinh tế là sự gia tăng sản lƣợng (thu nhập) của nền kinh tế về quy
mô và tốc độ trong 1 khoảng thời gian nhất định (thƣờng là 1 năm). Quy mô tăng
trƣởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trƣởng đƣợc sử dụng với ý
5
nghĩa so sánh tƣơng đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Thu
nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện dƣới dạng hiện vật hoặc giá trị. Thu nhập bằng
giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu GDP, GNI và tính cho toàn thể nền kinh tế hoặc tính
bình quân trên đầu ngƣời. Nhƣ vậy, về bản chất, tăng trƣởng phản ánh sự thay đổi về
lƣợng của nền kinh tế.
2. Vai trò của vốn đối với tăng trƣởng kinh tế
2.1. Mô hình Harrod –Domar
Năm 1946, mô hình Harrod-Domar về tăng trƣởng kinh tế và các nhu cầu về
vốn cơ bản dựa trên tƣ tƣởng của Keynes đã đƣợc trình bày với giới học giả kinh tế.
Đây là hai kết quả nghiên cứu độc lập của các nhà kinh tế Roy F. Harrod (công bố năm
1939) và Evsey Domar (công bố năm 1946). Mô hình này dựa trên hai giả thiết căn
bản: (1) giá cả cứng nhắc, và (2) nền kinh tế không nhất thiết ở tình trạng toàn dụng lao
động. Nguồn gốc tăng trƣởng kinh tế là do lƣợng vốn (yếu tố K, capital) đƣa vào sản
xuất tăng lên. Mô hình coi đầu ra của bất kỳ đơn vị kinh tế nào cũng đều phụ thuộc vào
tổng vốn đầu tƣ cho đơn vị đó.
Phải đến mô hình này thì mối quan hệ tiết kiệm, tích lũy vốn và tăng trƣởng
kinh tế mới đƣợc lƣợng hoá và mặc dù mô hình còn quá đơn giản, nhƣng nó đã trở
thành cơ sở của chiến lƣợc tích lũy vốn nhằm thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế ở các nƣớc
sau chiến tranh thế giới thứ thứ hai.
Nếu gọi S là mức tích lũy của nền kinh tế thì tỷ lệ tích lũy (s) trong đầu tƣ sẽ là:
Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tƣ, nên về mặt lý thuyết đầu tƣ luôn bằng tiết
kiệm (St = It), do đó cũng có thể viết:
6
Mục đích của đầu tƣ là để tạo ra vốn sản xuất, nên It = Kt. Nếu gọi k là tỷ số gia
tăng giữa vốn và sản lƣợng (còn gọi là hệ số ICOR), ta có:
Do đó chúng ta có:
Nhƣ vậy, tốc độ tăng GDP ( ) tỷ lệ thuận tỷ lệ tiết kiệm quốc gia ( ) và tỷ lệ
nghịch với tỷ lệ vốn-sản lƣợng ( ). Hệ số ICOR nói lên rằng : vốn đƣợc tạo ra bằng
đầu tƣ là yếu tố cơ bản của tăng trƣởng; tiết kiệm của nhân dân và các công ty là nguồn
gốc của đầu tƣ. Hệ số này cũng phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất và là số đo
năng lực sản xuất của đầu tƣ.
Lý thuyết Harrod-Domar về thực chất chỉ gói gọn trong khái niệm tăng trƣởng
kinh tế. Dù vậy, lý thuyết này vẫn còn ảnh hƣởng lớn đến các nƣớc đang phát triển
muốn tăng nhanh tốc độ phát triển của mình , bởi nó nhắm trúng vấn đề thiết yếu và
nan giải nhất ở đây là vốn đầu tƣ. Đi theo hƣớng này là một loạt chính sách ở các quốc
gia nhằm nâng cao khả năng tích lũy trong tổng sản phẩm quốc dân.
Mô hình có một số ƣu điểm nhƣ: Vận dụng để ra kế hoạch cho sự phát triển của
một ngành hay một khu vực nào đó của nền kinh tế. Với hệ số vốn ƣớc lƣợng đƣợc và
với mục tiêu tăng trƣởng cho trƣớc thì từ mô hình này sẽ tính đƣợc tỉ lệ tiết kiệm cần
thiết cho tăng trƣởng. Dựa vào đó cũng có thể đƣa ra những chính sách điều chỉnh cơ
cấu kinh tế khi xét đến mối tƣơng quan giữa nguồn tài chính và nguồn lực hiện có.
2.2. Mô hình tăng trƣởng Solow
Mô hình Harrod – Domar chỉ ra sự tăng trƣởng là kết quả giữa tiết kiệm với đầu
tƣ và đầu tƣ là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế. Tuy vậy, trên thực tế thì tăng
7
trƣởng kinh tế có thể xảy ra không phải vì lí do tăng đầu tƣ, hoặc ngƣợc lại đầu tƣ
không có hiệu quả vẫn dẫn đến không có sự tăng trƣởng. Kể cả trong trƣờng hợp đầu
tƣ có hiệu quả thì sự gia tăng tỉ lệ tiết kiệm cũng chỉ có thể tạo nên gia tăng tốc độ tăng
trƣởng kinh tế trong ngắn hạn chứ không thể đạt đƣợc trong dài hạn. Từ những lập luận
này, năm 1956, dựa trên tƣ tƣởng thị trƣờng tự do của lí thuyết tân cổ điển, Solow
(1924) đã xây dựng nên mô hình tăng trƣởng mang những ý tƣởng mới, còn đƣợc gọi
là mô hình tăng trƣởng Solow.
a) Ký hiệu:
Y là sản lƣợng thực tế .
K là lƣợng tƣ bản đem đầu tƣ.
L là lƣợng lao động.
y là sản lƣợng trên đầu lao động.
k là lƣợng tƣ bản trên lao động
S là tiết kiệm của cả nền kinh tế.
s là tỷ lệ tiết kiệm.
I là đầu tƣ.
i là đầu tƣ trên đầu lao động.
C là tiêu dùng cá nhân
c là tiêu dùng cá nhân trên lao động.
δ là tỷ lệ khấu hao tƣ bản.
Δ là lƣợng tƣ bản tăng thêm ròng.
n là tốc độ tăng dân số,lao động
Hệ giả thiết:
Giả thiết 1:
Toàn bộ tiết kiệm S sẽ đƣợc chuyển thành đầu tƣ I (quy tắc trong kinh tế học tân
cổ điển) Và do đó, sY = I.
Giả thiết 2:
Mức sản lƣợng thực tế Y phụ thuộc vào lƣợng lao động L, lƣợng tƣ bản K và,
năng suất lao động A. Từ đó, ta có một hàm sản xuất vĩ mô Y = F(A,L,K).
Giả thiết là hàm này có dạng Cobb-Douglas, tức là:
Y= A
Nhân 1/L với L và K, thì vế trái sẽ thành Y/L tức là sản lƣợng thực tế trên đầu
lao động y. Còn K/L tức lƣợng tƣ bản trên đầu lao động k. Hàm sản xuất vĩ mô sẽ có
dạng sau:
8
Y= A
y = A
Giả thiết 3:
Nền kinh tế đóng cửa và không có sự can thiệp của Chính phủ. Do đó, tổng sản
lƣợng Y bằng tổng của tiêu dùng cá nhân C và đầu tƣ I hay Y = C + I tƣơng đƣơng với
Y = C + sY và lại tƣơng đƣơng với C = (1-s)Y.
Nếu tính trên đầu lao động L, thì sẽ có tiêu dùng cá nhân trên đầu ngƣời c bằng
sản lƣợng thực tế trên đầu ngƣời y nhân với 1-s hay c = (1-s)y.
Giả thiết 4:
Có sự khấu hao tƣ bản. Với tỷ lệ khấu hao δ, mức khấu hao sẽ là δK.
Đầu tƣ I làm tăng lƣợng tƣ bản trong khi khấu hao δK làm giảm lƣợng tƣ bản,
nên mức tƣ bản thực tế tăng thêm
Giả thiết 5:
Tƣ bản K và lao động L tuân theo Quy luật lợi tức biên giảm dần. Có nghĩa là
khi khi tăng k thì ban đầu y tăng rất nhanh đến một lúc nào đó nó tăng chậm lại.
Giả thiết 6:
Hàm y = f(k) là một hàm tăng. Đồ thị của nó có dạng đƣờng cong. Hàm i = sf(k)
= sy cũng nhƣ vậy, bởi vì đầu tƣ trên đầu lao động i là một bộ phận của sản lƣợng trên
đầu lao động y.
Chú ý rằng để hàm số y = f(k) là hàm tăng thì đạo hàm bậc một y' phải lớn hơn
0, mặt khác do nó tuân theo quy luật năng suất cận biên giảm dần nên đạo hàm bậc hai
y’’ phải nhỏ 0.
Giả thiết 7:
Thay đổi trong lực lƣợng lao động L thể hiện bằng phƣơng trình sau:
=
(1+gL)
trong đó, gL là hàm số của L. Đồng thời giả thiết là tốc độ thay đổi lao động đúng bằng
tốc độ thay đổi dân số n.
b) Mô hình:
Xét một dạng hàm tổng sản xuất Cobb-Douglas giản đơn:
9
Y=
trong đó Y, K, L lần lƣợt là sản lƣợng, vốn và lao động của nền kinh tế. Nếu tính mức
sản lƣợng bình quân trên đầu ngƣời thì phƣơng trình trên sẽ còn là:
y=
với y = Y/L (thu nhập bình quân công nhân ) và k = K/L (mức vốn bình quân công
nhân). Vì năng suất cận biên của vốn giảm dần nên khi k tăng thì y tăng chậm dần.
Từ mô hình tăng trƣởng Harrod – Domar, đã có I=sY với I là đầu tƣ của nền
kinh tế và s là tỷ lệ tiết kiệm quốc gia. Nếu chia cả 2 vế phƣơng trình này cho L, đƣợc
mức đầu tƣ bình quân công nhân i bằng:
i = sy
Tại mỗi thời điểm, lƣợng vốn là yếu tố quyết định sản lƣợng của nền kinh tế,
nhƣg lƣợng vốn có thể thay đổi theo thời gian, dẫn tới tăng trƣởng kinh tế. Mô hình
Solow xác định hai lực lƣợng tác động tới sự thay đổi của lƣợng vốn là đầu tƣ (làm
tăng lƣợng vốn) và khấu hao(làm giảm lƣợng vốn). Khi có đầu tƣ mới, trữ lƣợng vốn
tăng lên. Nhƣng đồng thời, vốn cũng bị khấu hao theo thời gian. Khi đó lƣợng vốn mới
có sẽ bằng lƣợng vốn mới tạo ra từ đầu tƣ, trừ đi các khoản hao mòn.
Với quy mô dân số nhất định, gọi tỉ lệ khấu hao của vốn là . Nếu một lao động
sử dụng lƣợng vốn là k, thì khấu hao của một đơn vị vốn trên lao động là k.
Thay đổi trữ lƣợng vốn = Lƣợng đầu tƣ mới – Phần khấu hao của vốn
10
Vì i= sf(k) , nên có thể viết:
Đây là phƣơng trình trung tâm của mô hình Solow: lƣợng vốn mới tăng thêm
bằng lƣợng đầu tƣ mới sf(k) trừ đi khấu hao. Phƣơng trình này đƣợc thể hiện bằng
hình vẽ nhƣ sau:
Nếu đầu tƣ sf(k) để tạo ra vốn mới vẫn còn lớn hơn lƣợng vốn bị khấu hao, thì
vốn tiếp tục tăng, và . Vốn sẽ tăng cho đến khi đầu tƣ mới chỉ đủ bằng lƣợng
khấu hao, khi đó vốn mới không đƣợc sản sinh thêm nữa, k = 0, nền kinh tế sẽ đạt
trạng thái dừng (steady state).
Trạng thái dừng là điểm cân bằng mà ở đó lƣợng vốn giữ nguyên không đổi, bởi
vì lƣợng đầu tƣ để tạo ra vốn mới mỗi năm chỉ đủ đến bù trừ phần vốn bị hao mòn. Khi
vốn không tăng thì sản lƣợng cũng sẽ không tăng. Vì vậy, ở trạng thái dừng, lƣợng vốn
trên một lao động là cố định, và sản lƣợng trên một lao động là cố định. Vốn và lao
động không tăng thì tổng sản lƣợng cũng là cố định.
Đây là hệ quả của hàm sản xuất có hiệu suất biên giảm dần. Nếu vốn tiếp tục
tăng, sản lƣợng sẽ tăng nhƣng với tốc độ giảm dần. Do vậy, thu nhập dành cho tiết
kiệm cũng tăng với tốc độ giảm dần, và đầu tƣ tăng cũng với tốc độ giảm dần. Vì vậy,
luôn tồn tại một trạng thái dừng của nền kinh tế, nơi mà mọi biến số đều hội tụ về một
giá trị cố định. Mô hình Solow chứng minh rằng: nếu nền kinh tế nằm ở trạng thái
dừng thì nó sẽ đứng nguyên tại đó, còn nếu nền kinh tế chƣa nằm ở trạng thái ổn định
thì nó sẽ có xu hƣớng tiến về đó (tức là
và
có xu hƣớng tiến về
).
11
Trên hình vẽ có thể thấy tại
có
. Tại điểm này: đầu tƣ chỉ vừa đủ
để bù đắp khấu hao
. Khi đó lƣợng vốn trên một lao động sẽ giữ nguyên
không đổi: . Nghĩa là vốn không tăng lên nữa. Ở trạng thái dừng,
=
)
giữ nguyên không đổi.
Trong các mô hình tăng trƣởng, trạng thái dừng này chính là cân bằng dài hạn
của nền kinh tế. Đây là sự cân bằng mà tại đó, một số biến chúng ta đang xem xét sẽ
không đổi, trong khi một số biến khác có thể thay đổi nhƣng với tốc độ không đổi.
Xem xét mô hình khi tỉ lệ tiết kiệm tăng lên . Tỉ lệ tiết kiệm cao hơn sẽ dẫn tới
đầu tƣ nhiều hơn. Đầu tƣ nhiều hơn tạo ra lƣợng vốn mới nhiều hơn và nền kinh tế đạt
trạng thái dừng ở một mức vốn
mới cao hơn. Ứng với mức vốn
cao hơn là mức
sản lƣợng ở trạng thái dừng
cao hơn.
Nhƣ vậy, mô hình Solow cho thấy, nếu tỉ lệ tiết kiệm cao, thì nền kinh tế sẽ có
mức sản lƣợng lớn hơn (GDP cao hơn). Tuy nhiên,việc tăng tỉ lệ tiết kiệm chỉ đƣa đến
tăng trƣởng nhanh hơn trong một thời gian ngắn, trƣớc khi nền kinh tế đạt tới trạng thái
dừng. Nếu một nền kinh tế duy trì một tỉ lệ tiết kiệm cao nhất định, nó sẽ duy trì đƣợc
mức sản lƣợng cao nhƣng không duy trì đƣợc tốc độ tăng trƣởng cao. Kết luận này
hoàn toàn khác với kết luận của mô hình Harrod- Domar.
12
2.3. Mô hình tổng cầu- tổng cung
Keynes cho rằng nền kinh tế không phải lúc nào cũng đạt đến mức sản lƣợng
tiềm năng nhờ cơ chế tự điều chỉnh nhƣ quan điểm của trƣờng phái cổ điển và tân cổ
điển, mà nền kinh tế chỉ có thể đạt tới và duy trì một sự cân đối ở một mức sản lƣợng
nào đó, dƣới mức công ăn việc làm đầy đủ cho mọi ngƣời.
Khi mô tả nền kinh tế, cũng giống nhƣ mô hình cổ điển, ông cho rằng có hai
đƣờng tổng cung: AS – LR phản ánh mức sản lƣợng tiềm năng của nền kinh tế và AS –
SR phản ánh khả năng thực tế. Và, sự cân bằng của nền kinh tế không nhất thiết ở mức
sản lƣợng tiềm năng, mà thông thƣờng sản lƣợng thực tế đạt đƣợc ở mức cân bằng nhỏ
hơn mức sản lƣợng tiềm năng nơi mà dƣới mức công ăn việc làm đầy đủ cho mọi
ngƣời.
Khi nghiên cứu tiêu dùng cho đầu tƣ của các doanh nghiệp, Keynes cho rằng
đầu tƣ đóng vai trò quyết định đến quy mô việc làm và theo đó là tăng trƣởng kinh tế.
Mỗi sự gia tăng của đầu tƣ đều kéo theo sự gia tăng của cầu bổ sung công nhân, cầu về
tƣ liệu sản xuất. Do vậy làm tăng cầu tiêu dùng, tăng giá hàng, tăng việc làm cho công
nhân. Tất cả điều đó làm cho thu nhập tăng lên. Đến lƣợt nó, tăng thu nhập lại là tiền
đề cho sự gia tăng đầu tƣ mới. Đây là quá trình số nhân đầu tƣ: tăng đầu tƣ làm tăng
thu nhập; tăng thu nhập làm tăng đầu tƣ mới; tăng đầu tƣ mới làm tăng thu nhập mới –
nền kinh tế tăng trƣởng. Quá trình này đƣợc tính toán nhƣ sau:
K=dR/dI
Trong đó: dR là gia tăng thu nhập
dI là gia tăng đầu tƣ
K là số nhân
Vì dI=dS nên K=dR/dI = dR/dS= dR/(dR-dC)= 1/(1-dC/dR)
Theo Keynes, cùng với việc tăng lên của vốn đầu tƣ, thì hiệu quả giới hạn của tƣ
bản, tƣơng quan giữa thu hoạch tƣơng lai của đầu tƣ và phí tổn đầu tƣ, sẽ giảm sút. Có
hai nguyên nhân làm cho hiệu quả giới hạn của tƣ bản giảm sút. Thứ nhất đầu tƣ tăng
sẽ làm tăng thêm khối lƣợng cung ra thị trƣờng. Điều đó làm giảm giá hàng hóa và kéo
13
theo làm giảm thu nhập tƣơng lai. Thứ hai tăng cung hàng hóa sẽ làm giá cung của tài
sản tƣ bản tăng lên hay tăng phí tổn thay thế. Từ đó làm cho thu nhập tƣơng lai giảm
xuống.
Hơn nữa giữa đầu tƣ và lãi suất có quan hệ với nhau. Sự khuyến khích đầu tƣ
tùy thuộc một phần vào lãi suất. Nhà đầu tƣ sẽ tiếp tục đầu tƣ, chừng nào hiệu quả giới
hạn của tƣ bản lớn hơn lãi suất thị trƣờng.
Nhƣ vậy, đầu tƣ mới tăng lên, việc làm gia tăng sẽ làm tăng thu nhập, từ đó sẽ
làm tăng tiêu dùng. Song, do khuynh hƣớng tiêu dùng giới hạn, nên tiêu dùng tăng
chậm hơn so với thu nhập, còn tiết kiệm lại tăng nhanh hơn. Điều này làm cho tiêu
dùng giảm tƣơng đối. Việc giảm tiêu dùng tƣơng đối sẽ làm giảm cầu hiệu quả, còn
cầu lại ảnh hƣởng đến quy mô sản xuất và đến tăng trƣởng kinh tế. Để điều chỉnh sự
thiếu hụt của cầu tiêu dùng, cần phải tăng chi phí đầu tƣ, tăng tiều dùng sản xuất. Song
khối lƣợng đầu tƣ lại phụ thuộc vào ý muốn đầu tƣ cho tới khi nào hiệu quả giới hạn
của tƣ bản giảm xuống bằng mức lãi suất. Nhƣng trong nền kinh tế, hiệu suất tƣ bản có
xu hƣớng giảm sút, còn lãi suất cho vay có xu hƣớng ổn định, điều đó tác động đến đầu
tƣ mới và khủng hoảng xuất hiện, nền kinh tế trở nên trì trệ.
14
CHƢƠNG 2: VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ĐỐI VỚI SỰ TĂNG
TRƢỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2011
1. Vai trò của nguồn vốn đối với tăng trƣởng kinh tế Việt Nam trong
giai đoạn 2000-2011
Ba yếu tố đầu vào của tăng trƣởng kinh tế bao gồm nguồn vốn, lao động và tổng
hợp các nhân tố năng suất. Theo dõi sự đóng góp của 3 nhân tố trên vào tăng trƣởng
của Việt Nam trong 20 năm gần đây chúng ta có biểu đồ.
Biểu đồ đóng góp của các nhân tố tới tăng trƣởng kinh tế, 1991-2009
( đơn vị %)
Nguồn: Đề tài khoa học cấp Nhà nước “Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai
đoạn 2011-2020”, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và Đại học Kinh tế quốc dân, 2012.
Trong giai đoạn từ bắt đầu Đổi Mới đến nay, tăng trƣởng kinh tế Việt Nam dựa
đáng kể vào mở rộng các đầu vào, mà cụ thể là vốn và lao động. Từ năm 1991 tới năm
2009, đóng góp của nguốn vốn vào tăng trƣởng GDP tăng dần theo các năm và chiếm
4
5.8
19.2
20.9
24
27.9
32.4
51.3
52.6
39.1
41.1
44.5
46.3
45.2
43.5
47.3
66.1
83.2
84.1
35.5
22.6
22
19.3
17.2
16.9
18.9
25.8
31.1
31.3
29.6
27
25.6
24.1
21.7
21.3
18.5
25.1
28.5
60.5
71.6
58.8
59.8
58.8
55.2
48.7
22.9
16.3
29.6
29.3
28.5
28.1
30.7
34.8
31.4
15.4
-8.3
-12.6
-20
0
20
40
60
80
100
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
vốn
lao động
TFP
15
vai trò chủ đạo trong thúc đẩy tăng trƣởng từ những năm 1998-1999. Chẳng hạn, mức
đóng góp này đạt 50% vào các năm 1997-1999 trƣớc khi tăng trở lại lên 68,0% trong
thời kỳ 2000-2007, thậm chí còn lên tới gần 84,1% vào năm 2009 . Nhƣ vậy, tăng
trƣởng kinh tế vẫn tiếp tục dựa chủ yếu vào gia tăng số lƣợng vốn đầu tƣ và khai thác
tài nguyên và nguốn vốn vẫn đóng vai trò chủ đạo trong tăng trƣởng kinh tế Việt Nam
giai đoạn 2000-2011.
Mặc dù nguồn vốn đóng vai trò quan trọng trong tăng trƣởng kinh tế Việt Nam
giai đoạn 2000-2011, nhƣng xem xét biến động của chỉ số ICOR trong 10 năm trở lại
đây luôn ở mức trên 4, và trung bình ở mức 5.78. Chỉ số ICOR ở mức hiệu quả xấp xỉ
3 nhƣng có những năm 2008, chỉ số này gần gấp 3 lần mức hiệu quả, điều này không
đồng nghĩa với việc vai trò của nguồn vốn trong tăng trƣởng kinh tế bị giảm sút mà
đƣợc giải thích dựa vào sự đầu tƣ kém hiệu quả các khu vực kinh tế đặc biệt là khu vực
kinh tế nhà nƣớc.
Nguồn: Tổng cục thống kê
1
1
Trần Thọ Đạt, đánh giá tổng quan về chất lương tăng trưởng kinh tế Việt Nam và vai trò của TFP,2012
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Biểu đồ chỉ số ICOR Việt Nam 2001-2010
ICOR
16
Biểu đồ tăng trƣởng GDP và tỷ lệ vốn đầu tƣ so với GDP Việt Nam giai
đoạn 2000-2010 (đơn vị %, Tính theo giá so sánh 1994)
Nguồn: Viện kinh tế Việt Nam
Trong thời gian 2000-2009, nền kinh tế Việt Nam tăng trƣởng với nhịp độ khá
cao, tính bình quân mỗi năm GDP tăng 7,3%. Tốc độ tăng GDP hàng năm liên tục tăng
lên, từ 6,8% năm 2000 lên tới 8,5% năm 2007. Do ảnh hƣởng của khủng hoảng tài
chính toàn cầu, tốc độ tăng GDP giảmxuống mức 6,2% năm 2008 và 5,3% năm 2009.
Sự tăng trƣởng kinh tế cao và liên tục trong thời gian khá dài đó chủ yếu nhờ có tỷ lệ
tích lũy và đầu tƣ lớn. Nhìn vào số liệu tổng quát về cơ cấu phân bổ GDP, có thể thấy
tỷ trọng của đầu tƣ (tổng tích lũy tài sản) bắt đầu tăng mạnh trong 5 năm 2001-2005 (từ
24.48% năm 2000 lên tới 29.3% năm 2005) và tăng đột biến vào năm 2009.
0
5
10
15
20
25
30
35
40
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Tăng trưởng GDP Tỉ lệ đầu tư so với GDP
17
2. Vai trò của vốn đối với tăng trƣởng kinh tế phân theo thành phần
kinh tế
2.1. Vai trò của nguồn vốn khu vực kinh tế nhà nƣớc
Xét theo nguồn hình thành, vốn đầu tƣ khu vực nhà nƣớc (NN)có thể chia thành 3
nguồn chính: vốn ngân sách nhà nƣớc, vốn tín dụng đầu tƣ phát triển, vốn của doanh
nghiệp nhà nƣớc và nguồn vốn khác. Trong đó:
Vốn ngân sách nhà nƣớc (NSNN) là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao (45 -
55%), gữi vai trò chủ đạo trong khu vực này, có vai trò vô cùng quan trọng
trong chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia;
Vốn tín dụng đầu tƣ phát triển ngày càng khẳng định đƣợc vai trò quan
trọng của mình, tỷ trọng trong những năm gần đây cũng khá cao (trên dƣới
30%) tuy nhiên vẫn bị đánh giá là chƣa đáp ứng đủ nhu cầu cho sự phát
triển;
Nguồn vốn doanh nghiệp và nguồn vốn khác chiếm tỷ trọng không cao
(khoảng 25%) thể hiện tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp.
Những số liệu đƣợc tính trên cơ sở giá so sánh với năm 1994, có sự chênh lệch
khá lớn với giá thực tế qua từng năm, tuy nhiên phản ánh chính xác hơn vai trò cũng
nhƣ hiệu quả của nguồn vốn này tới việc phát triển kinh tế.
Thứ nhất, vốn khu vực NN luôn giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu tổng nguồn
vốn. Tỷ lệ này luôn giữ ở mức cao trên 50% trong giai đoạn 2000 – 2006 trƣớc khi đột
ngột giảm xuống 42.67% trong năm 2007 và duy trì ở mức trung bình 41.97% trong
những năm sau đó. Đây là điều dễ hiểu, vì vốn khu vực NN có vai trò rất quan trọng
trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, phát
triển và quy hoạch đô thị và nông thôn. Những ngành này cần nguồn vốn lớn nhƣng lợi
18
nhuận đem lại không cao và khó lƣợng hóa, nên luồng tiền đầu tƣ từ vốn khu vực NN
là vô cùng cần thiết.
Bảng thống kê vốn đầu tƣ và đóng góp của khu vực kinh tế nhà nƣớc giai đoạn
2000-2011
(Giá tính theo giá so sánh năm 1994)
Năm
Vốn đầu
tƣ
(nghìn tỷ
đồng)
Đóng góp
vào GDP
(nghìn tỷ
đồng)
Cơ cấu
vốn
(%)
Cơ cấu
GDP
(%)
Tỷ lệ
vốn/GDP
đóng góp
Tỷ lệ cơ
cấu
vốn/cơ
cấu GDP
2000
68.1
111.5
59.15
40.75
0.61
1.45
2001
77.4
119.8
59.8
40.96
0.65
1.46
2002
86.7
128.3
58.57
40.97
0.68
1.43
2003
95.5
138.2
57.23
41.09
0.69
1.39
2004
105.1
148.9
55.51
41.07
0.71
1.35
2005
115.2
159.8
53.85
40.67
0.72
1.32
2006
126.6
169.7
52.03
39.89
0.75
1.3
2007
131.9
179.7
42.67
38.96
0.73
1.1
2008
128.6
187.6
38.59
38.25
0.69
1.01
2009
173.1
195.1
46.62
37.77
0.89
1.23
2010
167.8
204.1
41.93
37
0.82
1.13
2011
145.2
213.2
40.03
36.5
0.68
1.1
Nguồn: tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống Kê
Thứ hai, vốn nhà nƣớc đóng góp một phần không nhỏ vào cơ cấu GDP theo
nguồn vốn. Với vai trò to lớn của mình, dễ hiểu khi khu vực NN luôn chiếm từ 35-
40% cơ cấu GDP trong giai đoan 2000 – 2011. Mặc dù đang chiếm tỉ trọng lớn trong
19
tổng nguồn vốn nhƣng lại đang có tỷ trọng đóng góp vào GDP giảm dần, khu vực kinh
tế nhà nƣớc đang giảm dần vai trò của mình trong tăng trƣởng kinh tế, một phần lớn là
do sự quản lý nguồn vốn đầu tƣ chƣa hiệu quả, chƣa thể hiện đƣợc hết vai trò đầu tàu
trong tăng trƣởng kinh tế Việt Nam.
Đầu tiên là tỷ lệ vốn/GDP đóng góp. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ hiệu quả đầu
tƣ càng thấp. Trong giai đoạn 2000 – 2006, khi vốn khu vực NN chiếm tỷ trọng rất cao
thì tỷ lệ vốn/GDP đóng góp của Việt Nam cũng rất cao, trung bình 0.68 và tăng theo
từng năm, đạt 0.75 năm 2006. Tuy nhiên ngay sau đó tỷ trọng của nguồn vốn này giảm
thì tỷ lệ này cũng giảm theo tƣơng ứng, xuống còn 0.69 năm 2008. Mức giảm của tỷ
trọng nguồn vốn đi kèm với mức giảm của tỷ trọng GDP đóng góp, nhƣng mức giảm ít
cho thấy trong giai đoạn này tính hiệu quả đƣợc cải thiện đáng kể. Trong giai đoạn
tiếp theo từ 2009 – 2011, nguồn vốn liên tục đƣợc điều chỉnh giảm đi kèm với sự gia
tăng GDP kéo theo tỷ lệ trên giảm từ 0.89 xuống 0.68, cho thấy mặc dù chịu nhiều ảnh
hƣởng nhƣng nguồn vốn khu vực NN vẫn chiếm vai trò quan trọng tới toàn bộ nền
kinh tế.
Tiếp theo là tỷ lệ cơ cấu vốn/cơ cấu GDP đóng góp. Tƣơng tự, tỷ lệ này càng
thấp cho thấy hiệu quả sử dụng nguồn vốn càng cao. Khác với tỷ lệ vốn/GDP đóng
góp, , trong giai đoạn 2000 – 2011 tỷ lệ cơ cấu vốn/cơ cấu GDP đóng góp có xu hƣớng
giảm, nhƣng cũng có thể chia làm 3 giai đoạn. Từ năm 2000 – 2006, tỷ lệ này khá cao,
cho thấy hiệu quả đầu tƣ vốn không tƣơng xứng với hiệu quả đem lại cho GDP khi
trung bình cần tới 1.39 đồng vốn để cho 1 đồng GDP. Tuy nhiên đến giai đoạn 2007 –
2008, con số này giảm xuống chỉ còn tƣơng ứng 1.1 và 1.01, và tuy tăng cao trong 2
năm tiếp theo nhƣng lại trở về mức thấp 1.1. Điều này cho thấy cho dù hiệu quả sử
dụng vốn NN không đƣợc cao nhƣng với việc Chính phủ luôn cố gắng giữ tỷ lệ này ở
mức thấp cho thấy Chính phủ vẫn rất coi trọng nguồn vốn khu vực NN, vì xét cho
cùng thì để thu hút đầu tƣ và mở rộng quy mô nguồn vốn, tạo điều kiện phát triển kinh
20
tế theo cả bề rộng và bề sâu, nâng tổng mức đầu tƣ toàn xã hội lên cao, bàn tay của
Nhà nƣớc là một công cụ không thể thiếu
2.2. Vai trò của nguồn vốn ngoài nhà nƣớc
Nguồn vốn ngoài nhà nƣớc (hay nguồn vốn hộ gia đình và doanh nghiệp dân
doanh) là một trong ba bộ phận cấu thành trong tổng nguồn vốn đầu tƣ của toàn xã hội.
Nguồn vốn này đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của nền kinh
tế. Cụ thể nhƣ sau:
Thành phần hộ gia đình: là thành phần phát triển nhanh, năng động, giải
quyết nạn thất nghiệp, tạo ra công ăn việc làm cho xã hội, huy động
nhiều nguồn lực xã hội tập trung đầu tƣ, sản xuất kinh doanh, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thành phần doanh nghiệp dân doanh: phần tích lũy có đóng góp lớn vào
tổng quy mô vốn của toàn xã hội
Vai trò của nguồn vốn ngoài nhà nƣớc đƣợc thể hiện rõ hơn qua việc đánh giá 3 tiêu
chí sau đây:
Tỉ lệ vốn đầu tƣ/ đóng góp vào GDP (đơn vị: nghìn tỉ đồng)
Tƣơng quan tỉ trọng vốn đầu tƣ và tỷ trọng đóng góp vào GDP
Tƣơng quan tỷ lệ tăng trƣởng vốn đầu tƣ và tỷ lệ tăng trƣởng đóng góp vào
GDP (đơn vị %)
21
Bảng thống kê nguồn vốn và đóng góp GDP khu vực ngoài nhà nƣớc 2000-2011
(Giá tính theo giá so sánh năm 1994)
Năm
Vốn
đầu tƣ
(nghìn
tỷ)
g
(vốn
đầu
tƣ)
Gtri đóng
góp vào
GDP
(nghìn tỉ)
g(GDP)
Cơ cấu
vốn(%)
Cơ cấu
trong
GDP
(%)
Vốn/giá
trị đóng
góp vào
GDP
Cơ cấu
vốn/cơ
cấu GDP
2000
26,3
9,6
132,5
22,9
48,4
0,2
0,47
2001
29,2
11,0
141
6,4
22,5
48,2
0,21
0,47
2002
35,1
20,2
150,9
7,0
23,7
48,2
0,23
0,49
2003
42,8
21,9
160,5
6,4
25,7
47,7
0,27
0,54
2004
53,5
25
171,7
7,0
28,3
47,4
0,31
0,6
2005
62,8
17,4
185,7
8,2
29,4
47,3
0,34
0,62
2006
72,9
16,1
201,4
8,4
30
47,4
0,36
0,63
2007
92,5
26,9
220,3
9,4
29,9
47,8
0,42
0,63
2008
89,3
-3,5
236,8
7,5
26,8
48,3
0,28
0,55
2009
92,8
3,9
252,2
6,5
25
48,8
0,37
0,51
2010
128,6
38,6
272,6
8,1
32,1
49,4
0,47
0,65
2011
122,4
-4,8
291,3
6,9
33,7
49,9
0,42
0,68
Nguồn :Tính toán theo số liệu của Tổng cục thống kê(2012)
2.2.1. Tỉ lệ vốn đầu tƣ/ đóng góp vào GDP (đơn vị: nghìn tỉ đồng)
Bình quân giai đoạn 2000 – 2011, để tạo một đồng GDP cần 0,35 đồng từ thành
phần kinh tế ngoài nhà nƣớc. Bảng số liệu và con số 0,35 chứng tỏ rằng hiệu quả đầu
tƣ của thành phần ngoài nhà nƣớc là tƣơng đối cao, lớn nhất trong 3 bộ phận cấu thành
22
trong tổng nguồn vốn đầu tƣ của toàn xã hội (bao gồm: thành phần nhà nước, thành
phần ngoài nhà nước và thành phần đầu tư nước ngoài)
2.2.2. Tƣơng quan tỉ trọng vốn đầu tƣ và tỷ trọng đóng góp vào GDP
Mặc dù về cơ cấu nguồn vốn thì vốn của thành phần ngoài nhà nƣớc chiếm tỷ
trọng thứ hai trong tổng vốn đầu tƣ toàn xã hội, sau thành phần nhà nƣớc nhƣng thành
phần này lại đóng góp tỷ trọng lớn nhất trong GDP của nền kinh tế. Dễ thấy, trong giai
đoạn 2000 – 2011, 1% GDP đƣợc tạo ra ở thành phần kinh tế ngoài nhà nƣớc cần đầu
tƣ ít hơn 1 %, tức là để tạo ra 1% GDP chỉ cần một mức đầu tƣ thấp hơn so với thành
phần khác. Điều này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tƣ của thành phần kinh tế
ngoài nhà nƣớc là tốt hơn so với thành phần nhà nƣớc và thành phần có vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài.
2.2.3. Tƣơng quan tỷ lệ tăng trƣởng vốn đầu tƣ và tỷ lệ tăng trƣởng đóng góp vào
GDP (đơn vị %)
Trong giai đoạn 2001 – 2011, vai trò của vốn đầu tƣ thành phần ngoài nhà nƣớc
đối với tăng trƣởng kinh tế đƣợc thể hiện ở tỉ lệ tăng trƣởng đóng góp vào GDP, góp
phần trực tiếp tạo ra tăng trƣởng kinh tế của cả nƣớc.
Tốc độ tăng GDP thành phần ngoài nhà nƣớc tăng liên tục và ổn định ở mức
trên 6,4 % qua các năm cùng với sự gia tăng tƣơng ứng của vốn đầu tƣ. Năm 2001 đạt
6,4%, năm 2004 là 7,0%, đến năm 2007 tăng vọt lên 9,4%. Xem xét mức độ tăng của
GDP và vốn đầu tƣ thành phần ngoài nhà nƣớc ta cũng thấy rằng mức độ gia tăng của
vốn đầu tƣ là cao hơn (ngoại trừ năm 2008, 2009 và 2011 do ảnh hƣởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới từ năm 2008) phản ánh để tạo ra 1% tăng trƣởng trong
thành phần ngoài nhà nƣớc cần gia tăng vốn đầu tƣ lớn hơn 1%.
23
Biểu đồ tỷ lệ tăng trƣởng vốn đầu tƣ và tỷ lệ tăng trƣởng đóng góp GDP
Nguồn:tự tổng hợp (2012)
2.3. Vai trò của nguồn vốn nƣớc ngoài
Nguồn vốn FDI là nguồn vốn đầu tƣ của tƣ nhân nƣớc ngoài để đầu tƣ cho sản
xuất, kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây là nguồn vốn lớn có ý
nghĩa quan trọng trong tăng trƣởng kinh tế ở các nƣớc đang phát triển.
FDI giải quyết vấn đề thiếu vốn, giúp các nƣớc này thoát khỏi cái vòng luẩn
quẩn của sự đói nghèo. Cùng với việc cung cấp vốn, thông qua FDI các công ty nƣớc
ngoài đã chuyển giao công nghệ từ nƣớc mình hoặc nƣớc khác sang nƣớc tiếp nhận
công nghệ . Đầu tƣ FDI làm cho các hoạt động đầu tƣ trong nƣớc phát triển, thúc đẩy
tính năng động và khả năng cạnh tranh trong nƣớc, tạo điều kiện khai thác hiệu quả các
tiềm năng của đất nƣớc. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hƣớng tích cực
-10
-5
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Tỉ lệ tăng trƣởng vốn đầu tƣ (%)
Tỉ lệ tăng trƣởng đóng góp vào GDP (%)
24
Việc tiếp nhận FDI, không đẩy các nƣớc vào tình trạng nợ nần, không chịu
những ràng buộc vào chính trị, xã hội.
Bảng thống kê tình hình nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ở Việt Nam từ 2000-2011
(Giá tính theo giá so sánh năm 1994)
Năm
Vốn
(Nghìn
tỷ
đồng)
Đóng góp
vào GDP
(Nghìn tỷ
đồng)
Cơ cấu
trong
tổng vốn
(%)
Cơ cấu
trong
GDP
(%)
Vốn /
đóng góp
GDP
Cơ cấu
vốn /
Cơ cấu
GDP
Tỉ lệ tăng
vốn / tỉ lệ
tăng đóng
góp GDP
2000
20.7
29.6
17.97
10.82
0.7
1.66
1.74
2001
22.8
31.7
17.61
10.85
0.72
1.62
1.43
2002
26.2
34
17.69
10.86
0.77
1.63
2.06
2003
28.5
37.6
17.08
11.18
0.76
1.53
0.83
2004
30.7
41.9
16.22
11.56
0.73
1.4
0.67
2005
35.9
47.5
16.78
12.07
0.76
1.39
1.27
2006
43.8
54.3
18
12.75
0.81
1.41
1.54
2007
84.7
61.3
27.4
13.29
1.38
2.06
7.24
2008
115.3
66.1
34.6
13.48
1.74
2.57
4.61
2009
105.4
69.3
28.39
13.41
1.52
2.12
-1.77
2010
103.8
74.9
25.94
13.58
1.39
1.91
-0.19
2011
95.2
79.6
26.25
13.63
1.2
1.93
-1.32
Nguồn: tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê(2012)
2.3.1. Tỷ lệ vốn đầu tƣ trên đóng góp vào GDP
Tỉ lệ vốn đầu tƣ / đóng góp vào GDP ở khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài dao
động quanh giá trị 1 thể hiện sự đóng góp vào GDP của khu vực tƣơng ứng với vốn
đầu tƣ. Đây là sự khác biệt với 2 khu vực Kinh tế Nhà nƣớc và Kinh tế ngoài nhà nƣớc.
Kết quả này cũng nói lên tầm quan trọng của việc tăng cƣờng thu hút vốn đầu tƣ nƣớc
ngoài vào Việt Nam nhằm tăng trƣởng kinh tế.
25
Tỷ lệ này luôn tăng trong giai đoạn 2000 – 2008 (0.7 lên 1.74) nhƣng có xu
hƣớng giảm trong giai đoạn 2008 – 2011 (1.74 xuống 1.2) Nguyên nhân của xu hƣớng
giảm này đó là ảnh hƣởng của suy thoái kinh tế khiến cho vốn đầu tƣ giảm.
2.3.2. Cơ cấu vốn /Cơ cấu GDP
Tỷ lệ này càng cao càng thể hiện sự kém hiệu quả trong đầu tƣ khi 1% tổng vốn
đầu tƣ không đóng góp đƣợc 1% trong tổng GDP. Trong giai đoạn 2000 – 2011, tỷ lệ
cơ cấu vốn / cơ cấu GDP luôn lớn hơn 1 và biến động thất thƣờng. Năm 2008 là năm
bắt đầu xảy ra khủng hoảng kinh tế thế giới khiến cho tỷ lệ này đạt đỉnh ở mức 2.57.
So sánh với 2 khu vực còn lại thì khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài kém hiệu quả hơn
so với khu vực ngoài nhà nƣớc nhƣng vẫn hiệu quả hơn nhiều so với khu vực kinh tế
nhà nƣớc. Trong suốt giai đoạn, việc tăng trƣởng của đóng góp vào GDP hay cơ cấu
GDP chịu ảnh hƣởng nhiều từ sự tăng trƣởng của dòng vốn FDI, tuy nhiên vẫn còn khá
khiêm tốn khi vốn FDI tăng nhanh nhƣng đóng góp vào GDP lại tăng chậm nhiều .
2.3.3. Tỉ lệ tăng trƣởng vốn / tỉ lệ tăng trƣởng đóng góp GDP
Đây là tỷ lệ quan trọng nhằm xác định hiệu quả của việc tăng trƣởng vốn là bao
nhiêu. Trong giai đoạn 2000 – 2011, tỷ lệ này biến động rất mạnh và gần nhƣ không
xoay quanh một giá trị xác định nào cả. Điển hình đó là năm 2007 và giai đoạn 2009 –
2011. Năm 2007 ghi nhận tỷ lệ này đạt đỉnh ở mức 7.24. Đây là kết quả của việc lƣợng
vốn đầu tƣ ồ ạt tăng gần gấp đôi (43.8 lên 84.7) trong khi lƣợng đóng góp vào GDP
tăng không nhiều (54.3 lên 61.3). Nguyên nhân đó là do sự thiếu hiệu quả trong đầu tƣ
nƣớc ngoài và sự suy thoái của kinh tế toàn cầu. Từ 2009 tới 2011, lƣợng vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài vào Việt Nam giảm đi, tuy nhiên lƣợng đóng góp vào GDP vẫn tăng do
hiệu quả từ các dự án đã triển khai mấy năm trƣớc đó và làm cho tỷ lệ này âm.