1
KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỂ HỌC VÀ LÂM SÀNG CỦA
BỆNH TRĨ Ở NGƯỜI TRÊN 50 TUỔI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Trần Thiện Hoà
*
, Phan Anh Tuấn
**
, Trần Thị Mai Trang
**
, Văn Tần
*
TÓM TẮT
Tổng quan và mục tiêu: Bệnh trĩ rất thường gặp, chủ yếu là ở người lớn tuổi. Đã có vài nghiên cứu
đề cập đến vấn đề này nhưng phần lớn chỉ giới hạn trong điều trị và những nghiên cứu trong cộng
đồng còn rất ít, nhất là tại TP.HCM. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Đặc điểm dịch tễ học
và lâm sàng của bệnh trĩ ở người 50 tuổi- Kết quả khảo sát tại 24 quận huyện ở thành phố Hồ Chí
Minh từ tháng 01/2006 đến tháng 07/2006” với mong muốn góp phần đưa ra một cái nhìn sơ bộ về
bệnh trĩ trong cộng đồng người 50 tuổi tại TP.HCM, xác định tỷ lệ hiện mắc bệnh trĩ trong cộng
đồng, qua đó khảo sát các đặc điểm dịch tễ học và lâm sàng của bệnh trĩ.
Phương pháp và đối tượng: Là nghiên cứu mô tả cắt ngang, phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên
phân tầng có tỷ lệ. Đối tượng nghiên cứu là những người ≥ 50 tuổi ở 24 quận huyện tại thành phố
Hồ Chí Minh. Qua sàng lọc, chúng tôi chọn được 3355 người thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu (nam:
1895, nữ: 1460) được phỏng vấn và thăm khám trực tiếp.
Kết quả và bàn luận: Tuổi trung bình của mẫu khảo sát là 65,96 ± 9,54. Tỷ lệ hiện mắc bệnh trĩ
trong cộng đồng là 25,13%, nam có nguy cơ mắc bệnh cao gấp 1,36 lần so với nữ. Nhóm tuổi mắc
trĩ cao nhất trong mẫu nghiên cứu là 65-69 tuổi và có sự giảm nhẹ tỷ lệ sau tuổi 75. Các yếu tố nguy
cơ có tương quan với bệnh trĩ: táo bón (OR = 1,80, khoảng tin cậy 95%) và bệnh hô hấp mạn tính
gây ho nhiều (OR = 1,40, khoảng tin cậy 95%). Triệu chứng cơ năng thường gặp: sa trĩ (53,38%), đi
cầu ra máu (17,55%), đau vùng hậu môn (6,05%). Trĩ nội chiếm 54,21%, trĩ ngoại 45,79%, trĩ hỗn
hợp 11,74%; thường gặp nhất ở 04 vị trí 1-2h, 3h, 7-8h, 10-11h. Trĩ độ 1 (21,23%), độ 2 (59,96%),
độ 3 (16,85%), độ 4 (1,96%).
Kết luận: Tỷ lệ hiện mắc bệnh trĩ ở nhóm người 50 tuổi trong cộng đồng vẫn còn khá cao. Do vậy
cần phải tích cực tuyên truyền và giáo dục trong cộng đồng để mọi người có một cái nhìn đúng đắn
hơn về phòng và điều trị bệnh trĩ.
Từ khoá: Điều tra cơ bản trĩ
PILES'S EPIDEMIOLOGICAL AND CLINICAL FEATURES IN ≥ 50 YEARS
OLD PERSONS-SURVEY’S RESULTS IN 24 SUBURBAN/URBAN
DISTRICTS AT HO CHI MINH CITY
ABSTRACT
Background and Objective: Hemorrhoids are popular, especially in the olders. Although there were
many researches touching on this condition but mostly they are only limited in hospitalisation and
being fews in community. So, we carried out research “Piles's epidemiological and clinical features
in ≥ 50 years old persons-Survey’s results in 24 suburban/urban districts at Ho Chi Minh city from
January 2006 to July 2006” with a desire contributing a preliminary look about hemorrhoids in
older community at Ho Chi Minh city.
Methods and Materials: This is a cross-sectional study, stratified random sampling method.
Randomly choosing was carried on ≥ 50 years old persons in 24 urban/suburban districts at Ho Chi
Minh City. After excluding the cases which are not suitable with sampling criteria, we have 3355
persons in the sample (male = 1895; female = 1460) who were interviewed and examined directly.
Results and Discussion: The mean (± SD) age of the people was 65.96 ± 9.54 years. Community
hemorrhoids proprotion is 25.13% and the risk of having hemorrhoids in male is 1.36 times higher
than its in female. In the sample, the group of age which has a highest frequence is 65-69 and
there’s a subsequent decrease after age 75. The risk factors of hemorrhoids are constipation (OR=
1.80, 95% CI) and chronic respiratory diseases (OR= 1.40, 95% CI). The common symptoms are
prolapsing (53.38%), bleeding (17.55%), and pain (6.05%). Internal hemorrhoids (54.21%),
*
Bệnh viện Bình Dân
**
Bộ môn Ngoại Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Địa chỉ liên lạc: ThS.BS.Trần Thiện Hòa ĐT: 0903749415 Email:
2
external hemorrhoids (45.79%) and mixed hemorrhoids (11.74%). The most common positions of
piles are 1-2h, 3h, 7-8h, 10-11h. The first-grade hemorrhoids is 21.23%, the second 59.96%, the
third 16.85% and the fourth 1.96%.
Conclusions: Prevalence of hemorrhoids is high in ≥ 50 years old persons. Consequently, it needs
to be diligently agitated and educated in community for a better look about hemorrhoids.
Key words: Hemorrhoids screening
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trĩ là một bệnh rất thường gặp. Tuy không gây tử vong và ít khi có biến chứng nặng nề
nhưng lại trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Đứng đầu trong các bệnh
lý hậu môn – trực tràng, bệnh trĩ rất phổ biến trên thế giới với số người mắc bệnh khá cao. Theo
Cục thống kê Sức khỏe Quốc gia của Mỹ (NCHS, 2004) thì số người mắc bệnh trĩ tại Mỹ là 10 triệu
người
(2,9)
. Tác giả Goligher J.C. (1984) thống kê cho thấy 50% người trên 50 tuổi mắc bệnh trĩ
(5)
. Ở
Việt Nam, người xưa có câu “thập nhân cửu trĩ” chứng tỏ có rất nhiều người mắc bệnh trĩ. Tuy
nhiên, do bệnh trĩ là bệnh ở vị trí đặc biệt và không gây ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống nên bệnh
nhân đành chấp nhận, thường đi khám và chữa bệnh rất muộn. Vì vậy, những số liệu thống kê ở các
bệnh viện, phòng khám chưa cho thấy được tỷ lệ mắc bệnh trĩ thực sự trong cộng đồng. Tác giả
Trần Khương Kiều lần đầu tiên điều tra bằng phương pháp dịch tễ học cho kết quả tỷ lệ mắc bệnh
trĩ ở một số vùng của nước ta (Hà Nội, Nam Định, TP.HCM) là 76,97 ± 0,30%
(17)
. Theo nghiên cứu
gần đây nhất của tác giả Nguyễn Mạnh Nhâm về bệnh trĩ ở các tỉnh phía Bắc thì tỷ lệ bệnh trĩ là
55%
(16)
. Tại thành phố Hồ Chí Minh, mặc dù đã có rất nhiều nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng và
điều trị bệnh trĩ nhưng từ sau điều tra của tác giả Trần Khương Kiều năm 1992 đến nay, vẫn chưa
có một nghiên cứu dịch tễ học nào về tỷ lệ mắc bệnh trĩ trong cộng đồng.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu trước đây tuy đưa ra các độ tuổi có tỷ lệ mắc bệnh trĩ cao khác
nhau (Goligher lưu ý độ tuổi trên 50 có tỷ lệ bệnh cao, theo Johanson J. F. và Sonnenberg A. độ
tuổi này là 45-65 tuổi, tác giả Nguyễn Mạnh Nhâm đưa ra độ tuổi 30-50) nhưng đều thống nhất đây
là bệnh gặp nhiều ở người lớn tuổi
(5,9,12,13,16)
.
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu ”Đặc điểm dịch tễ học và lâm sàng của bệnh trĩ ở
người 50 tuổi-Kết quả khảo sát tại 24 quận huyện ở thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 01/2006 đến
tháng 07/2006” với mong muốn góp phần đưa ra một cái nhìn sơ bộ về bệnh trĩ trong cộng đồng
người 50 tuổi tại TP.HCM, xác định tỷ lệ mắc bệnh trĩ trong cộng đồng, qua đó khảo sát một số
đặc điểm dịch tễ học và lâm sàng của bệnh trĩ.
Mục tiêu nghiên cứu
2.1 Mục tiêu tổng quát
Khảo sát đặc điểm dịch tễ học và lâm sàng của bệnh trĩ ở người 50 tuổi tại TP.HCM từ tháng
01/2006 đến tháng 07/2006.
2.2. Mục tiêu chuyên biệt
2.2.1. Xác định tỷ lệ hiện mắc bệnh trĩ ở người 50 tuổi tại TP.HCM từ tháng 01/2006 đến
tháng 07/2006.
2.2.2. Khảo sát mối tương quan giữa các đặc điểm dịch tễ về tuổi, giới, yếu tố nguy cơ với
bệnh trĩ ở người 50 tuổi tại TP.HCM từ tháng 01/2006 đến tháng 07/2006.
2.2.3. Mô tả đặc điểm lâm sàng của bệnh trĩ ở người 50 tuổi tại TP.HCM từ tháng 01/2006
đến tháng 07/2006.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả, cắt ngang.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
2.2.1. Dân số đích: Tất cả người dân 50 tuổi ở 24 quận huyện tại TP.HCM.
2.2.2. Dân số chọn mẫu: Tất cả người dân 50 tuổi ở 24 phường xã được chọn ngẫu nhiên
từ 24 quận huyện tại TP.HCM.
2.2.3. Cỡ mẫu: Vì quần thể nghiên cứu trường hợp này là vô hạn nên chúng tôi áp dụng
công thức
(11,22)
:
3
2
2
)2/1(
d
pq
zn
Trong đó:
o
n
: cỡ mẫu tối thiểu phải có
o
2
)2/1(
z
: hệ số tin cậy,
2
)2/1(
z
= 1,96
2
ở khoảng tin cậy 95%
o
p
: tỷ lệ mắc; theo nghiên cứu của Goligher J.C
(5)
. hơn 50% người trên 50 tuổi có bệnh
trĩ
(5)
nên chúng tôi chọn p = 0,5.
o
q
: 1 – p q = 0,5
o d : sai số chọn mẫu mong muốn, chúng tôi chọn d = 0,02
2401
02,0
5,05,0
96,1
2
2
n
Vậy cỡ mẫu tối thiểu phải có là n = 2401.
2.3. Chọn mẫu
Vì sự phân bố dân cư ở các quận huyện không đồng đều nên chúng tôi sử dụng phương pháp
chọn mẫu từng cụm theo 3 bậc.
Xác định số người 50 tuổi cần khám ở mỗi quận huyện dựa vào tỷ lệ giữa tổng dân số
của quận/huyện đó so với tổng dân số của Thành phố Hồ Chí Minh (do không có số liệu
thống kê số người 50 tuổi của từng quận huyện).
Bậc 1: Chọn phường/xã đại diện cho quận/huyện.
Dựa vào danh sách các phường/xã của từng quận/huyện, bốc thăm ngẫu nhiên để xác
định phường/xã đại diện cho từng quận/huyện.
Bậc 2: Chọn người 50 tuổi ở từng phường/xã đại diện.
Liên hệ Trạm Y tế ở các phường/xã đại diện đã chọn, bốc thăm ngẫu nhiên một tổ dân
phố/ấp.
Dựa vào danh sách người 50 tuổi do nhân viên sức khỏe cộng đồng phụ trách tổ dân
phố/ấp đó cung cấp để viết thư mời: chọn lần lượt từng người theo thứ tự của danh
sách; nếu đã chọn hết trong danh sách nhưng vẫn chưa đủ số người cần thiết (đại diện
cho từng quận/huyện), chúng tôi tiếp tục bốc thăm ngẫu nhiên tổ dân phố/ấp khác và
viết thư mời theo thứ tự trong danh sách cho đến khi đủ số (số người được mời nhiều
hơn khoảng 50 người so với số người 50 tuổi cần khám ở mỗi quận/huyện).
a) Tiêu chuẩn đưa vào
- Người 50 tuổi, cư ngụ tại TP.HCM (theo danh sách quản lý dân số tại các quận huyện).
- Có đến khám tổng quát theo thư mời.
b) Tiêu chuẩn loại trừ
- Không đồng ý khám hậu môn – trực tràng.
- Không có khả năng hiểu và trả lời câu hỏi.
2.4. Phương pháp thu thập số liệu
2.4.1. Phương tiện thu thập số liệu
Phiếu điều tra soạn sẵn: gồm các phần chính:
Phần thông tin cá nhân bao gồm họ tên, tuổi, giới, nghề nghiệp, chiều cao, cân
nặng
Phần tiền căn bao gồm thói quen vận động, bất thường về đi cầu, các bệnh lý nội
ngoại khoa đi kèm.
Phần khảo sát các triệu chứng cơ năng của trĩ.
Phần khám hậu môn – trực tràng.
Dụng cụ khám hậu môn – trực tràng: bàn khám trong phòng kín đáo, đèn, găng, ống
soi hậu môn (Kelly), chất bôi trơn (vaseline), chất khử trùng dụng cụ (Povidine 10%).
4
2.4.2. Cách thức thu thập số liệu
Thư mời tham gia khám được gửi tận hộ gia đình bởi Trạm Y tế.
Tổ chức buổi khám tổng quát theo thời gian đã ghi trong thư mời (buổi sáng hoặc
chiều của các ngày thứ 7 trong tuần). Buổi khám tổng quát khảo sát một số bệnh lý
khác bên cạnh bệnh trĩ (phình động mạch chủ bụng, dãn tĩnh mạch chi dưới, sỏi
đường mật, …) nên được chia làm nhiều khâu: tiếp nhận người đến khám, cân và đo
chiều cao, đo huyết áp, hỏi các phần trong phiếu điều tra chung và khám tổng quát,
khám hậu môn – trực tràng, siêu âm.
Tại phòng khám hậu môn – trực tràng:
Ghi nhận các yếu tố thuận lợi và triệu chứng cơ năng liên quan đến bệnh trĩ.
Khám hậu môn – trực tràng theo các bước: giải thích, chuẩn bị tư thế, nhìn, sờ,
thăm hậu môn – trực tràng và soi hậu môn. Ghi nhận vào phần khám hậu môn –
trực tràng trong phiếu điều tra.
Ghi nhận các trường hợp có trĩ ở thời điểm khám.
Ghi nhận và phân loại trĩ như sau:
Phân loại
1. Trĩ nội
Trĩ nội được hình thành do giãn quá mức đám rối tĩnh mạch trĩ trong, xuất phát bên
trên đường lược, có bề mặt là lớp niêm mạc của ống hậu môn và không có thần kinh cảm
giác.
Lúc đầu búi trĩ còn nhỏ, nằm trên đường lược, sau dần dần to ra, mô nâng đỡ và dây
chằng Parks chùng ra, trĩ sa xuống. Tùy theo kích thước và độ sa, trĩ nội được chia ra làm
4 độ:
Độ 1: búi trĩ nằm hoàn toàn trong ống hậu môn, bệnh nhân không cảm thấy đau, chỉ
có chảy máu là triệu chứng chính.
Độ 2: búi trĩ sa ra ngoài khi đi tiêu, nhưng tự lên được.
Độ 3: búi trĩ sa ra ngoài khi đi tiêu, phải đẩy mới lên được.
Độ 4: búi trĩ thường xuyên nằm ngoài ống hậu môn, không thuyên giảm.
Hình 16. Ống soi hậu môn
(Kelly)
Hình 8
(
1
5]
5
2. Trĩ ngoại
Trĩ ngoại được hình thành do giãn quá mức đám rối tĩnh mạch trĩ ngoài, xuất phát bên dưới
đường lược, lúc nào cũng nằm ngoài ống hậu môn, có bề mặt là lớp da quanh hậu môn và
có thần kinh cảm giác.
3. Trĩ hỗn hợp
Lúc đầu trĩ nội nằm trong ống hậu môn, trên đường lược và trĩ ngoại nằm ngoài ống hậu môn, phân
cách giữa chúng là vùng lược, ở đây có dây chằng Parks, dây chằng Parks làm cho niêm mạc dính
chặt vào mặt trong cơ thắt. Khi dây chằng Parks chùng, trĩ nội và trĩ ngoại liên kết nhau tạo thành trĩ
hỗn hợp
2.4.3. Người khám và thu thập số liệu
Các bác sĩ Trần Thiện Hòa, Phan Anh Tuấn, Trần Thị Mai Trang cùng các bác sĩ khác
ở Bệnh viện Bình Dân và Trung tâm chẩn đoán y khoa Medic, nhân viên Trạm Y tế,
các sinh viên Y6 Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch tại các khâu của buổi khám tổng quát
tùy theo sự phân công của người phụ trách chung buổi khám.
2.4.4. Thời gian thu thập số liệu
từ tháng 01/2006 đến tháng 07/2006.
2.5. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
Các số liệu được nhập vào cuối mỗi ngày khám.
Phân tích và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 13.0, MS Excel XP và trình bày kết
quả bằng phần mềm MS Word XP dưới dạng bảng, biểu.
KẾT QUẢ
4.1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Tổng số người đến khám bệnh là 4905 người. Số người thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu là
4843 người, trong đó có 2543 nam (52,50%) và 2300 nữ (47,50%).
Nhận xét: Nam chiếm tỷ lệ cao hơn nữ trong mẫu nghiên cứu, tỷ lệ nam: nữ là 1,1: 1.
Hình 12. Tró ngoaïi
(
7
]
6
Tuổi:
Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 66,07 9,61. Tuổi thấp nhất là 50, tuổi cao nhất là
101.
Nghề nghiệp:
Bảng 2: Phân bố theo nghề nghiệp của mẫu nghiên cứu
Nghề nghiệp Số người
Tỷ lệ (%)
Buôn bán 345 7,12
Công nhân 185 3,82
Công nhân viên 387 7,99
Nông
dân 496 10,24
Lao động phổ thông 740 15,28
Hưu 2050 42,33
Khác
(*)
640 13,21
Tổng 4843 100,00
(*)
khác: bao gồm nội trợ, quân nhân, tu sĩ, nghệ sĩ, …
Nhận xét: Trong mẫu nghiên cứu, số người về hưu chiếm đa số (42,33%).
4.2. Các trường hợp bệnh trĩ
Khám thấy có trĩ ở 2198 người, chiếm tỷ lệ 45,39%, trong đó 1289 trường hợp trĩ nội độ 1
không triệu chứng. Vậy số người mắc bệnh trĩ là 909 người, chiếm tỷ lệ 18,77%.
4.2.1. Đặc điểm chung
Giới tính:
Nam: 501 người (55,12%)
Nữ: 408 người (44,88%)
Tuổi: Tuổi trung bình của các trường hợp có bệnh trĩ là 65,57 9,49. Tuổi thấp nhất
là 50, cao nhất là 90.
Nhận xét:
- Số người mắc bệnh trĩ giảm đi từ sau 75 tuổi.
- So sánh tỷ lệ mắc bệnh trĩ giữa các lớp tuổi:
2
= 5,01, p = 0,54. Vậy, không tìm thấy
sự khác biệt về phân bố tuổi giữa hai nhóm có và không có bệnh trĩ (p > 0,05).
Chỉ số BMI:
Bảng 4: Phân độ BMI của các trường hợp bệnh trĩ
Phân độ BMI
(*)
Số người
Tỷ lệ (%) so với
các trường hợp bệnh
trĩ
Gầy
132
14,52
81
59
63
61
80
46
99
52
93
49
55
32
52
21
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Số người
50-54 tuổi 55-59 tuổi 60-64 tuổi 65-69 tuổi 70-74 tuổi 75-79 tuổi >=80 tuổi
Lớp tuổi
Nam
Nữ
7
Bình thường
585
64,35
Thừa cân
164
18,04
Béo phì nhóm I
25
2,75
Béo phì nhóm
II
3
0,34
Béo phì nhóm
III
0
0,00
Tổng
909
100.00
(*)
Dựa trên chỉ số BMI:
BMI = cân nặng (kg) /
(
chiều cao (m)
)2
Gầy: <18,5 kg/m
2
Bình thường: 18,5 – 24,9 kg/m
2
Thừa cân: 25 – 29,9 kg/m
2
Béo phì nhóm I: 30 – 34,9 kg/m2
Béo phì nhóm II: 35 – 39,9 kg/m2
Béo phì nhóm III: 40 kg/m2
Nhận xét: Số người có chỉ số BMI bình thường chiếm tỷ lệ cao nhất trong các trường hợp bệnh trĩ
(64,35%).
4.2.2. Các yếu tố nguy cơ của bệnh trĩ
Qua xử lý số liệu, chúng tôi nhận thấy tăng huyết áp là bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất
trong các bệnh thường gặp ở mẫu nghiên cứu (40,71%). Vì vậy, bên cạnh các yếu tố thuận
lợi khác, chúng tôi muốn xác định có hay không mối tương quan giữa tăng huyết áp và
bệnh trĩ ở người 50 tuổi.
Bảng 5: Các yếu tố nguy cơ của bệnh trĩ
Tỷ lệ (%)
Yếu tố
Có
bệnh
(n =
909)
Khôn
g
bệnh
(n =
3934)
p
Ghi chú
Béo phì
(*)
3,08 2,92
0,
8
0
Táo bón
(**)
18,26 9,76
0,
0
0
Tương quan
,
OR = 2,07
THÓI QUEN VẬN ĐỘNG
Ng
ồi nhiều
38,50 35,87
0,
1
4
Đứng nhiều
37,62 35,02
0,
1
4
Khuân vác nặng
3,85 4,21
0,
6
2
BỆNH LÝ ĐI KÈM
Tăng huyết áp
40,81 40,69
0,
9
5
Bệnh lý hô hấp
mạn tính
(***)
7,70 8,06
0,
7
2
U xơ tiền liệt
tuyến
1,87
(
****)
1,75
(*
***)
0,
8
1
Viêm đại tràng 1,10 0,67
0,
2
8
mạn tính
0
Suy tim
0,88 1,14
0,
4
9
Xơ gan
0
0,18
0,
2
0
2
có hiệu
chỉnh Yates
(*)
Bao gồm những trường hợp có BMI 30 kg/m
2
(**)
Bao gồm những trường hợp có trên 2 trong 4 triệu chứng sau:
o Đi cầu khó (chiếm 20,76% các trường hợp bệnh trĩ)
o Phân khô, vón cục (chiếm 18,74% các trường hợp bệnh trĩ)
o Cảm giác đi cầu chưa hết (chiếm 4,27% các trường hợp bệnh trĩ)
o Đi cầu dưới 3 lần/tuần (chiếm 8,90% các trường hợp bệnh trĩ)
(ROME I, theo Thompson W.G, Longstrength G.F., Drossman D.A. et al)
(22)
(***)
Những bệnh lý hô hấp mạn tính gây ho nhiều như giãn phế quản, viêm phế quản mạn
tính, COPD…
(****)
Tỷ lệ (%) so với tổng số nam có và không có bệnh trĩ.
Nhận xét:
- Trong số các thói quen vận động được xem là yếu tố nguy cơ của bệnh trĩ, ngồi nhiều
chiếm tỷ lệ cao nhất (38,50%) trong nhóm những người mắc bệnh trĩ.
- Trong số các bệnh lý đi kèm với bệnh trĩ, tăng huyết áp chiếm tỷ lệ cao nhất
(40,81%).
- Táo bón có liên quan đến bệnh trĩ (p < 0,05). Nhóm thường hay bị táo bón có nguy cơ
mắc bệnh trĩ cao gấp 1,80 lần so với nhóm không bị táo bón.
4.2.3. Đặc điểm lâm sàng
Triệu chứng cơ năng:
Bảng 6: Các triệu chứng cơ năng của bệnh trĩ
Triệu chứng
Số
người
Tỷ lệ (%) so
với
các trường hợp
bệnh trĩ
Trong phân
95
10,45
Đi cầu
ra máu
Nh
ỏ giọt hoặc
thành tia
89
9,79
Sa trĩ
450
49,50
Tự nhiên
15
1,65
Đau
vùng
hậu
môn
Khi đi tiêu
26
2,86
Ng
ứa hậu môn và
quanh hậu môn
36
3,96
Nhận xét: Trong các triệu chứng cơ năng ở những trường hợp bệnh trĩ, sa trĩ chiếm tỷ lệ
cao nhất (49,50%).
9
Phân loại trĩ:
41.14%
37.95%
11.22%
0
10
20
30
40
50
T
ỷ
l
ệ
(%) so v
ớ
i s
ố
ng
ườ
i b
ị
b
ệ
nh tr
ĩ
Tr
ĩ
n
ộ
i Tr
ĩ
ngo
ạ
i Tr
ĩ
h
ỗ
n
h
ợ
p
LO
Ạ
I TR
Ĩ
Nữ
Nam
Hình 20: Phân loại trĩ
Nhận xét: Trong các loại trĩ, trĩ nội chiếm tỷ lệ cao nhất (41,14%).
Trong số đó:
o 4 người có cả 3 loại trĩ
o 111 người có cả trĩ nội và trĩ ngoại
o 12 người có cả trĩ nội và trĩ hỗn hợp
o 12 người có cả trĩ ngoại và trĩ hỗn hợp
44,69%
0,44%
1,31%
8,54%
1,31%
23,88%
12,16%
Không có trĩ búi Cả 3 loại trĩ Chỉ có trĩ nội
Trĩ nội + ngoại Trĩ nội + hỗn hợp Chỉ có trĩ ngoại
Trĩ ngoại + hỗn hợp Chỉ có trĩ hỗn hợp
Hình 21: Phân bố theo các loại trĩ
Phân bố vị trí các búi trĩ:
Một người có thể có nhiều búi trĩ ở nhiều vị trí khác nhau. Trong nghiên cứu của
chúng tôi:
o Trĩ nội: 182 ca chỉ có một búi trĩ và 353 ca có từ hai búi trĩ trở lên (có tối đa là 4
búi trĩ).
o Trĩ ngoại: 202 ca chỉ có một búi trĩ và 106 ca có từ hai búi trĩ trở lên (có tối đa là 4
búi trĩ).
o Trĩ hỗn hợp: 52 ca chỉ có một búi trĩ và 16 ca có từ hai búi trĩ trở lên (có tối đa là 4
búi trĩ).
Bảng 7: Phân bố vị trí các búi trĩ
Tỷ lệ (%)
Vị trí
Trĩ nội
(n=535)
Trĩ ngoại
(n=345)
Trĩ hỗn hợp
(n=102)
1-2 giờ 37,38
18,55
11,76
3 giờ 52,15
21,45
14,70
4-5 giờ 3,93
6,38
1,96
6 giờ 5,98
8,41
3,92
7-8 giờ 56,64
21,74
14,71
9 giờ 4,30
11,01
3,92
10-11 giờ
64,11
23,19
23,53
10
12 giờ 7,66
15,65
5,88
Trĩ vòng 3,93
10,14
37,25
Nhận xét:
- Các búi trĩ nội phân bố nhiều ở 4 vị trí 1-2 giờ, 3 giờ, 7-8 giờ và 10-11 giờ.
- Các búi trĩ ngoại phân bố nhiều ở 3 vị trí 3 giờ, 7-8 giờ và 10-11 giờ.
- Trĩ hỗn hợp đa số là trĩ vòng. Trong số trĩ búi còn lại, phân bố nhiều ở 4 vị trí 3 giờ, 4-
5 giờ, 7-8 giờ và 10-11 giờ.
Phân độ trĩ nội:
9.35
43.34
10.12
0.99
0
5
10
15
20
25
30
35
40
Tỷ lệ (%)
Độ
1
Độ
2
Độ
3
Độ
4
Độ trĩ nộiNam Nữ
Hình 22: Phân độ trĩ nội
Nhận xét: Trĩ nội độ 2 chiếm tỷ lệ cao nhất trong các độ của trĩ nội (43,34%).
Các tổn thương hậu môn – trực tràng khác đi kèm:
Bảng 8: Các tổn thương hậu môn – trực tràng đi kèm
Tổn thương Số ca
Tỷ lệ (%) so với
các trường hợp
bệnh trĩ
N
ứt hậu môn 41 4,51
Polyp 10 1,10
Loét hậu môn 05 0,55
Viêm tấy quanh lỗ
hậu môn
01 0,11
Dò hậu môn 00 00,00
Khối u hậu môn 00 00,00
Nhận xét: Trong các tổn thương hậu môn – trực tràng đi kèm, nứt hậu môn chiếm tỷ lệ
cao nhất (4,51%).
BÀN LUẬN
Bệnh trĩ là một bệnh thường gặp nhưng rất ít được quan tâm vì một số lý do tế nhị và phong
tục tập quán của người Đông Phương. Do vậy, việc thu thập số liệu cũng gặp không ít khó khăn:
Số người thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu là 4843 người (chiếm 98,74% số người đến khám).
Tuy nhiên, do đã có dự phòng từ trước (mời thêm 50 người ở mỗi quận huyện) nên
không ảnh hưởng đến cỡ mẫu tối thiểu cần có.
Nam chiếm tỷ lệ nhiều hơn nữ trong mẫu nghiên cứu (tỷ lệ nam: nữ là 1,1: 1 so với tỷ lệ
của TP.HCM là 0,9: 1).
4.3. Đặc điểm dịch tễ học
4.3.1. Tỷ lệ hiện mắc bệnh trĩ
Qua thăm khám thu thập số liệu, chúng tôi xác định được tỷ lệ có trĩ trong cộng đồng
TP.HCM là 45,39%, tỷ lệ hiện mắc bệnh trĩ là 18,77% (khoảng tin cậy 95%). So sánh với
kết quả của những nghiên cứu trong và ngoài nước trước đây theo thứ tự thời gian:
Tác giả Tỷ lệ (%)
Trần Khương Kiều (1982)
76,970,3
11
Goligher J,C, (1984) 50
Johanson, J, F và Sonnenberg
,
A, (1990)
4,4
Nguy
ễn Mạnh Nhâm (1999) 35
Nguy
ễn Mạnh Nhâm (2004) 55
Chúng tôi (2006) 45,39
Tác giả Trần Khương Kiều thực hiện nghiên cứu cách đây 24 năm cho kết qua khá
cao 76,97 ± 0,30%, có thể do quan điểm khám có khác biệt so với hiện nay, cũng có thể
do tỷ lệ bệnh trĩ đang giảm dần.
Số liệu do Johanson, J. F và Sonnenberg, A. (1990)
(8)
thu thập là từ các nguồn National
Health Interview Survey, National Hospital Discharge Survey, và National Disease and
Therapeutic Index ở Mỹ; Morbidity Statistics from General Practice ở Anh và xứ Wales,
vì vậy tỷ lệ này chỉ bao gồm những người đã từng được khám và điều trị bệnh trĩ chứ
không phải là tỷ lệ những người có trĩ trong cộng đồng. (Loder et al 1994)
Kết quả chúng tôi tìm được phù hợp với những nghiên cứu còn lại.
4.3.2. Tuổi
Tuổi trung bình của bệnh nhân mắc trĩ trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi là 65,57 ±
9.49, độ tuổi có bệnh nhiều nhất là 65-69 tuổi (17,91%). Chúng tôi ghi nhận có sự giảm
nhẹ tỷ lệ người bệnh trĩ từ 75 tuổi trở đi, tuổi được ghi nhận ở các nghiên cứu khác là 65
tuổi (Johanson, J. F và Sonnenberg, A.)
(8)
.
Tuy nhiên, do khảo sát của chúng tôi chỉ được thực hiện trên những người 50 tuổi
nên không thể đưa ra kết luận về phân bố tuổi của bệnh trĩ, để làm được điều này, cần một
nghiên cứu khác rộng hơn trên tất cả các lớp tuổi.
4.3.3. Giới tính
Tỷ lệ có bệnh trĩ ở nam là 55,12%, cao gấp 1,1 lần so với nữ. Chúng tôi cũng tìm
được mối tương quan giữa giới tính nam và bệnh trĩ. Tuy nhiên, do đây chỉ là nghiên cứu
cắt ngang, PRR thấp và tính đại diện về giới của mẫu nghiên cứu không cao nên không
thể đưa đến kết luận nam dễ mắc bệnh trĩ hơn nữ.
4.3.4. Yếu tố thuận lợi
Trong các yếu tố thuận lợi về thói quen vận động, thói quen ngồi nhiều chiếm tỷ lệ
cao hơn so với đứng nhiều và khuân vác nặng. Điều này có thể được giải thích là do
nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện trên những người 50 tuổi với tỷ lệ hưu trí
chiếm đa số (35,75%), nên thường ngồi nhiều hơn và không phải lao động nặng so với
những độ tuổi khác. Các thói quen vận động này từ lâu được coi là yếu tố thuận lợi
của bệnh trĩ nhưng vẫn chưa có nghiên cứu nào chứng minh được điều đó. Chúng tôi
cũng không tìm được tương quan giữa chúng với bệnh trĩ trong nghiên cứu này.
Tỷ lệ bệnh nhân bị táo bón trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Nhâm (2004)
(16)
(18,26% so với 80%), có thể do khác
nhau về định nghĩa táo bón. Tổng số bệnh nhân có một trong bốn triệu chứng của
ROME I là 821 người (97,39%), nhưng để được xác định là táo bón theo Thompson
W.G, Longstrength G.F., Drossman D.A. et al
(21)
chỉ còn 149 người. Dù vậy, chúng tôi
vẫn tìm được mối tương quan giữa táo bón với bệnh trĩ (PRR = 1,51). Trong phạm vi
một nghiên cứu cắt ngang, tương quan trên không đưa ra được kết luận về quan hệ
nhân quả giữa táo bón và bệnh trĩ nhưng là một kết quả phù hợp với quan điểm cho
rằng táo bón là một trong những yếu tố nguy cơ của bệnh trĩ từ trước đến nay.
Trong các bệnh lý được coi là yếu tố nguy cơ của bệnh trĩ, bệnh lý hô hấp mạn tính
gây ho nhiều chiếm tỷ lệ cao nhất, có lẽ do nghiên cứu được thực hiện trên những
người lớn tuổi. Chúng tôi tìm được tương quan giữa bệnh trĩ với nhóm bệnh này. U
bướu vùng chậu chiếm tỷ lệ thấp hơn, nhưng cũng có mối tương quan có ý nghĩa
thống kê với bệnh trĩ. Đối với viêm đại tràng mạn tính, giá trị
2
không cho phép kết
luận mối tương quan. Ở nhóm bệnh này, chúng tôi xác định một đối tượng nghiên cứu
12
có bệnh dựa vào câu trả lời của người đó về những chẩn đoán đã được bác sĩ đưa ra
trước đây. Như vậy, thói quen tự mua thuốc uống cầm tiêu chảy ở người Việt Nam,
đặc biệt là những người lớn tuổi, sẽ làm giảm khả năng được chẩn đoán khi có bệnh,
ảnh hưởng đến sự chính xác của tỷ lệ viêm đại tràng mạn tính. Điều này giải thích
được cho sự khác biệt với kết quả của tác giả Nguyễn Mạnh Nhâm (2004) trên những
người > 15 tuổi: bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất trong các bệnh nội khoa mạn tính đi kèm
bệnh trĩ là viêm đại tràng mạn tính.
4.4. Đặc điểm lâm sàng
4.4.1. Triệu chứng cơ năng
Đi cầu ra máu thường gặp nhất trong các triệu chứng cơ năng của bệnh trĩ, điều này
cũng phù hợp với tác giả Nguyễn Đình Hối (1982) (94%) và Nguyễn Mạnh Nhâm (2004)
(69,4%). Nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ này là 20,24% và sa trĩ là triệu
chứng gặp nhiều nhất (49,50%). Chúng tôi cho rằng do đối tượng nghiên cứu của tác giả
Nguyễn Mạnh Nhâm chủ yếu là thanh niên và trung niên (tuổi trung bình 44,84 15,10,
thấp nhất 15 tuổi) nên có chú ý đến sức khỏe, đồng thời khả năng quan sát tốt, vì vậy phát
hiện được triệu chứng đi cầu ra máu kín đáo (lượng ít theo phân hay dính ở giấy vệ sinh).
Đối với tác giả Nguyễn Đình Hối, vì nghiên cứu trên những trường hợp nhập viện –
thường đến khám vì những triệu chứng rầm rộ như tiêu máu, nên triệu chứng này mới có
ở hầu hết các đối tượng nghiên cứu. Ngược lại với 2 nghiên cứu nêu trên, nghiên cứu của
chúng tôi được tiến hành trên cộng đồng dân cư, lại là những người lớn tuổi (tuổi trung
bình 65,96, thấp nhất 50 tuổi) – thường ít quan tâm đến những bất thường của cơ thể – sẽ
không chú ý nếu đi cầu ra máu kín đáo hoặc không cho là bất thường nếu chỉ thỉnh thoảng
đi cầu ra máu khi có táo bón.
4.4.2. Phân loại trĩ
Trĩ nội chiếm tỷ lệ cao nhất trong các loại trĩ, phù hợp với nghiên cứu về bệnh trĩ ở
các tỉnh phía Bắc (Nguyễn Mạnh Nhâm)
(16)
. Tuy nhiên, so với nghiên cứu này, kết quả
của chúng tôi vẫn khác biệt về con số tỷ lệ từng loại trĩ:
41.14%
37.95%
11.22%
82.98%
3.40%
13.62%
0
50
100
Tr
ĩ
n
ộ
i Tr
ĩ
ngo
ạ
i Tr
ĩ
h
ỗ
n h
ợ
p
Nguyễn Mạnh Nhâm Chúng tôi
Chúng tôi nhận thấy nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Nhâm không có các trường hợp có
cùng lúc hơn một loại trĩ, có lẽ do quy ước về cách ghi nhận khác nhau (nếu bệnh nhân đã
có trĩ hỗn hợp thì không ghi nhận trĩ loại khác ở các vị trí khác, hoặc trĩ ngoại bắt đầu
thoái hóa được ghi nhận là da thừa,… chẳng hạn – đây chỉ là giả thiết của chúng tôi vì
trong nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Nhâm không có mô tả rõ ràng về cách ghi nhận).
Điều này giải thích được một phần cho tỷ lệ trĩ ngoại cao hơn ở nghiên cứu của chúng tôi.
Nhưng với sự chênh lệch lớn về tỷ lệ trĩ ngoại trong tổng số các trường hợp bệnh trĩ giữa
hai nghiên cứu như vậy, phải chăng trĩ ngoại xuất hiện nhiều hơn ở người lớn tuổi?
Chúng tôi nghĩ cần có nghiên cứu rộng hơn ở tất cả các độ tuổi để kiểm tra lại giả thiết
này.
4.4.3. Phân bố vị trí các búi trĩ
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy các búi trĩ xuất hiện nhiều ở 4 vị trí: 1-2 giờ, 3 giờ,
7-8 giờ và 10-11 giờ. Như vậy, bên cạnh 3 vị trí thường gặp đã được đề cập đến ở các
13
nghiên cứu trước đây, trong nghiên cứu của chúng tôi còn xuất hiện thêm vị trí 1-2 giờ
với tần số xuất hiện của các búi trĩ gần tương đương. Có lẽ do có sự khác biệt về phân bố
vị trí giải phẫu các đám rối tĩnh mạch trĩ trên các cá thể khác nhau.
4.4.4. Phân độ trĩ nội
Trong các bệnh nhân có trĩ nội, số người bị trĩ nội độ 2 chiếm tỷ lệ cao nhất, độ 4
chiếm tỷ lệ thấp nhất, phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Nhâm (2004).
Tuy nhiên, cũng trong một nghiên cứu khác của tác giả này vào năm 1999, trĩ nội độ 1
chiếm tỷ lệ cao nhất, điều này có thể được lý giải là do ông đã tính cả trĩ sinh lý vào nhóm
trĩ nội độ 1.
Điểm khác biệt giữa nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Nhâm (2004) và nghiên cứu của
chúng tôi là trong nghiên cứu của ông, tỷ lệ trĩ nội độ 3 cao hơn độ 1. Chúng tôi cho rằng
do TP.HCM là trung tâm kinh tế của cả nước, mức sống của đa số người dân và chất
lượng dịch vụ y tế sẽ cao hơn, người dân dễ dàng tìm đến khám chữa bệnh khi có các biểu
hiện nặng hơn của trĩ (độ 3), vì vậy tỷ lệ trĩ nội độ 3 gặp ít hơn trĩ nội độ 1.
4.4.5. Các tổn thương hậu môn – trực tràng khác đi kèm
Chúng tôi ghi nhận được các tổn thương hậu môn – trực tràng khác ở nhóm người
bệnh trĩ gồm có nứt hậu môn, polyp, loét và viêm tấy quanh lỗ hậu môn, trong đó nứt hậu
môn chiếm tỷ lệ cao nhất, phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Nhâm
(2004) cũng như ghi nhận từ trước đến nay về tổn thương thường đi kèm trĩ.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu trên quần thể 4843 người đại diện cho cộng đồng người ≥ 50 tuổi tại thành phố
Hồ Chí Minh từ tháng 01/2006 đến tháng 07/2006 chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
1. Tỷ lệ hiện mắc bệnh trĩ trong cộng đồng là 18,77%.
2. Độ tuổi mắc bệnh trĩ nhiều nhất trong mẫu nghiên cứu là 65-69 tuổi (chiếm 17,91%) và có
sự giảm nhẹ tỷ lệ mắc bệnh trĩ từ sau độ tuổi 75.
3. Tỷ lệ mắc bệnh trĩ của nam cao hơn nữ 1,1 lần.
4. Các yếu tố thuận lợi: Chúng tôi thấy có mối tương quan giữa bệnh trĩ với táo bón, nhưng
chưa thể chứng minh được mối quan hệ nhân quả. Các bệnh lý hô hấp mạn được xem là yếu
tố nguy cơ chiếm tỷ lệ cao nhất trong nghiên cứu này (7,70%).
5. Đặc điểm lâm sàng của bệnh trĩ:
- Các triệu chứng cơ năng thường gặp của bệnh trĩ: Sa trĩ (49,50%), táo bón (18,26%), tiêu máu
(20,24%), đau hậu môn (4,51%).
- Trĩ nội chiếm 41,14%, trĩ ngoại 37,95%, trĩ hỗn hợp 11,22%.
6. Thường gặp nhất ở 4 vị trí 1-2h, 3h, 7-8h, 10-11h. Trĩ nội độ1(9,35%), độ 2 (43,34%), độ 3
(10,12%), độ4 (0,99%).
7. Các thương tổn khác đi kèm thường gặp: Nứt hậu môn (4,51%), polyp (1,10%).
Để giảm tỷ lệ hiện mắc trong cộng đồng, chúng tôi đề nghị một số giải pháp sau:
- Tuyên truyền rộng rãi bệnh trĩ trong cộng đồng: Bệnh trĩ là bệnh rất phổ biến, thường gặp nhất
ở người lớn tuổi, gặp ỡ nam nhiều hơn ở nữ; có liên quan đến thói quen vận động và tình
trạng táo bón; nguy cơ cao ở những người có bệnh hô hấp mạn tính; cần phải được phát hiện
sớm để có kế hoạch điều trị hợp lý.
- Giáo dục sức khỏe về các dấu hiệu nhận biết bệnh trĩ.
- Đào tạo đội ngũ bác sĩ chuyên khoa để bệnh được phát hiện sớm và điều trị đúng chỉ định, kỹ
thuật bảo đảm an toàn, hiệu quả cao.
Cuối cùng, mặc dù nghiên cứu vẫn còn những hạn chế nhưng chúng tôi hy vọng rằng những kết
quả thu được sẽ giúp các bác sĩ có cái nhìn nghiêm túc hơn về bệnh trĩ và đây cũng sẽ là tài
liệu hữu ích cho những nghiên cứu khác quy mô lớn hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Carolyn Jarvis (2003), “Examing the anus, rectum and prostate”, Physical Examination &
Health Assessement, 4
th
edition, W.B. Saunders company, pp.759-761.
2. Davies R. Justin (2006), Hemorrhoids (new), BMJ Publishing Group, .
14
3. Dozois Roger R. (1997), “Disorder of the anal canal”, Sabiston, 15
th
edition, W.B. Saunders
company, pp. 1032-1037.
4. G.Accarpio, F.Ballari, R.Puglisi et al (2004), “Reinterventions after complicated or failed
stapled hemorrhoidopexy”, Dis Colon Rectum volume 47, pp.1846-1851.
5. Goligher J.C. (1984), “Haemorrhoids or piles”, Surgery of the Anus Rectum and Colon,
London: Bailliere Tindall, pp.69-85.
6. Haas P.A (1983), “The prevalence of hemorrhoids”, Dis Colon Rectum, pp.435-439, .
7. Hippocrates
(
400 BC, translated by Françis Adams (1849)
)
, “History of hemorrhoids
surgery”, On hemorrhoids, London.
8. Johanson J.F., Sonnenberg A. (1990), “Constipation is not a risk factor for hemorrhoids: a
case-control study of potential etiological agents”, Gastroenterology, pp.1981-1986.
9. Johanson J.F., Sonnenberg A. (1990), “The prevalence of hemorrhoids and constipation. An
epidemiologic study”, Gastroenterology, pp.380-386.
10. Lê Quang Nghĩa (2001), Bệnh trĩ, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản
Y học.
11. Lê Trường Giang (2002), “Phương pháp chọn mẫu”, Thống kê y học, Nhà xuất bản y học,
tr.132-133.
12. Michael R.B, Keighley (1999), “Hemorrhoids”, Surgery of the Anus, Rectum and Colon,
1999, Bailliere Tindall:London, pp.352-427.
13. Nguyễn Đình Hối (1982), “Điều trị trĩ bằng phẫu thuật cắt bỏ riêng lẻ từng búi”, Tạp chí
Ngoại khoa số IX, tập 2, tr.38-43.
14. Nguyễn Đình Hối (2002), Hậu môn trực tràng học, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí
Minh, Nhà xuất bản Y học.
15. Nguyễn Đình Hối, Nguyễn Mậu Anh, Dương Phước Hưng (2003), “Bệnh trĩ”, Bệnh học
ngoại khoa tiêu hóa, Nhà xuất bản Y học, tr.259-265.
16. Nguyễn Mạnh Nhâm (2004), “Nghiên cứu bệnh trĩ ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam và các biện
pháp phòng bệnh-điều trị”, Tạp chí Hậu Môn Trực Tràng IV, tr.3-15.
17. Nguyễn Thị Hồng Ngọc và Hồ Tấn Thông, “Đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật Longo cải
tiến trong điều trị bệnh trĩ trên những bệnh nhân điều trị tại bệnh viện Triều An từ
01/01/2002 đến 30/04/2003”, luận văn tốt nghiệp bác sĩ Y khoa khóa IX, Trung tâm Đào tạo
Bồi dưỡng Cán Bộ Y tế TP.HCM.
18. Nguyễn Văn Hậu (2004), “Thắt động mạch trĩ với siêu âm hướng dẫn và khâu xếp nếp niêm
mạc trực tràng trong điều trị trĩ”, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
19. Pigot F., Siproudhis L., Allaert F. A. (2005), “Risk factors associated with hemorrhoidal
symptoms in specialized consultation”, Gastroenterol Clin Biol, pp.1270-1274.
20. Seidell J. C., de Groot L. C., van Sonsbeek J. L., Deurenberg P., Hautvast J. G. (1986),
“Associations of moderate and severe overweight with self-reported illness and medical care
in Dutch adults”, American Journal of Public Health volume 76, pp.264-269.
21. Thompson W.G., Longstreth G.F., Drossman D.A. et all (1999), “Functional bowel
disorders and functional abdominal pain”, Gut volume 45, pp.43-47.
22. Trần Bình Giang (2003), Phương pháp trình bày công trình nghiên cứu trong y hoc, Đại học
Y Hà Nội, Nhà xuất bản Y học.