MỤC LỤC
Mở đầu
1
Nội dung
I. Một số vẫn đề cơ bản về nhân cách.
3
II. Nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý.
4
1. Đặc điểm của nhân cách
4
2. Cấu trúc của nhân cách
5
3. Biểu hiện của nhân cách
7
4. Con đường hình thành và phát triển nhân cách người
cán bộ lãnh đạo quản lý
8
III. Thực trạng và phương hướng hoàn thiện nhân cách
người lónh đạo quản lý
9
1. Thực trạng
10
2. Phương hướng hồn thiện nhân cách người lónh đạo
quản lý
11
Kết luận
12
Tài liệu tham khảo
1
MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiêp hố, hiện đại
hố. Nhiệm vụ đó rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, địi hỏi Đảng ta phải xây
dựng một đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực hiện thành cơng nhiệm vụ
chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi
công việc", "Mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém".
Muốn quản lý được tốt, người lãnh đạo, quản lý cần phải "hiểu người, biết
mình và khéo dùng người". Vậy trước hết, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải
"tự hiểu rõ" mình.
Cơng tác của người cán bộ lãnh đạo, quản lý phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, nhưng một trong những yếu tố có vị trí hàng đầu, giữ vai trị quyết định đó
là nhân cách của họ. Là người đứng đầu và chỉ đạo mọi hoạt động giáo dục
trong trường học, nhân cách của người lãnh đạo quản lý có tác động mạnh mẽ
đến giáo viên và học sinh, đây là những chủ thể có nhân cách rất nhạy cảm. Vì
thế mà tương ứng với vị thế và vai trị của mình, người cán bộ lãnh đạo, quản lý
giáo dục phải có một nhân cách mẫu mực, hồn thiện, cao hơn những người
bình thường, có vai trị định hướng, gương mẫu, có ưu thế tác động nhiều mặt,
biết tổ chức, tập hợp, lôi cuốn và thúc đẩy mọi người cùng hồn thành nhiệm
vụ.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu, nắm được những yếu tố quy
định và những yêu cầu có tính đặc trưng về nhân cách người lãnh đạo, quản lý
có một ý nghĩa hết sức quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn, vừa có tính cơ
bản lâu dài, vừa là đòi hỏi bức xúc của của các trường học hiện nay.
2
3
NỘI DUNG
I. MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ NHÂN CÁCH :
Nhân cách là khái niệm cơ bản của Tâm lý học cũng như một số ngành
khoa học khác: Như giáo dục học, đạo đức học, xã hội học, triết học…
Có nhiều định nghĩa về nhân cách, theo tâm lý học có các định nghĩa
sau:
“Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lý cá nhân, quy
định giá trị xã hội và hành vi xã hội của họ”
“Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân, biểu
hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người ấy” (Phạm Minh Hạc)
“Nhân cách, đó là một tổ chức động của các hệ thống tâm - sinh lý
trong cá nhân, chúng quy định sự thích ứng trọn vẹn của cá nhân đối với môi
trường xung quanh” (G.Allport)
“Nhân cách là tổng hồ các phẩm chất tâm lý, nói lên đặc điểm của
từng người riêng biệt “(R.Meili)
“Nhân cách là con người với tư cách là kẻ mang toàn bộ thuộc tính và
phẩm chất tâm lý đang quy định hình thức hoạt động và những hành vi có ý
nghĩa xã hội” (E.V.Sôrôkhôva)
Dù khác nhau, nhưng qua các định nghĩa trên ta thấy rằng: Con người
trở thành một nhân cách khi đặt con người đó trong sự hoạt động, giao lưu với
xã hội. Khi bàn về vấn đề này, Mác cho rằng trong tính hiện thực của nó bản
chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, nhận định rất khái quát này
đã nói lên bản chất, cấu trúc nhân cách cũng như chỉ ra con đường hình thành
nhân cách, nhận định này đã là cơ sở lý luận cho Tâm lý học, Giáo dục học và
các ngành khoa học nghiên cứu về con người.
4
Từ những quan niệm về nhân cách, chúng ta thấy rằng cho đến nay vẫn
chưa có một trường phái nào giải quyết một cách thoả đáng toàn diện vấn đề
bản chất nhân cách.
Ở Việt Nam, tuy rằng chưa có một định nghĩa nhân cách nào một cách
chính thống, song cách hiểu của người Việt Nam về nhân cách có thể theo các
mặt sau đây:
- Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và
năng lực.
- Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người.
- Nhân cách được hiểu như các phẩm chất của con người mới: làm chủ,
yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần lao động.
- Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người của con
người.
Như vậy, khái niệm nhân cách thường gắn liền với khái niệm con
người (ít nói đến cá nhân). Những phẩm chất nhân cách đó là những phẩm chất
địi hỏi ở mỗi con người phải có.
Do đó, có thể hiểu: Nhân cách là hệ thống những phẩm giá xã hội của
cá nhân thể hiện những phẩm chất bên trong của cá nhân, mối quan hệ qua lại
của cá nhân với các cá nhân khác, với tập thể, xã hội, với thế giới xung quanh
và mối quan hệ của cá nhân với công việc trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
II. NHÂN CÁCH NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ.
1. Đặc điểm của nhân cách:
- Tính thống nhất: Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa phẩm
chất và năng lực, giữa đức và tài, giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, giữa cái
bên trong và cái bên ngoài, giữa cá nhân với xã hội. Đức và tài có mối quan hệ
chặt chẽ biện chứng với nhau. Trong cái đức có cái tài, trong cái tài có cái đức,
5
trong phẩm chất và năng lực của một cá nhân con người phải ln thống nhất
với nhau.
- Tính ổn định của nhân cách: Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm
lý tương đối ổn định, tiềm tàng trong mỗi cá nhân. Vì thế, nhân cách là cái sinh
thành và phát triển trong suốt cuộc đời của mỗi con người, do đó nhân cách có
tính ổn định tương đối của nó. Tính ổn định của nhân cách cao hay thấp là tùy
thuộc vào mức độ hoàn thiện nhân cách của người đó. Các đặc điểm nhân cách,
các phẩm chất nhân cách tương đối khó hình thành và cũng khó mất đi. Trong
thực tế từng nét nhân cách có thể bị thay đổi do cuộc sống, nhưng nhìn một
cách tổng thể thì chúng vẫn tạo thành một cấu trúc trọn vẹn, tương đối ổn định.
- Tính tích cực của nhân cách: Nhân cách vừa là chủ thể của hoạt
động, vừa là sản phẩm của chính hoạt động giao tiếp, nghĩa là nó có tính tích
cực của mình. Tính tích cực của nhân cách được thể hiện ở những hoạt động
muôn màu, mn vẻ và đa dạng, song đều tác động tích cực vào sự phát triển
của xã hội. Do vậy, tính tích cực của nhân cách được quy định bởi hệ thống
nhu cầu của cá nhân.
- Tính giao lưu của cá nhân: Nhân cách chỉ có thể được hình thành và
phát triển trên cơ sở giao lưu và hoạt động. Bởi lẽ trên cơ sở giao lưu, cá nhân
mới có điều kiện để lĩnh hội, học hỏi để tiếp nhận các giá trị của xã hội, các
chuẩn mực đạo đức, từ đó mà hồn thiện nhân cách của mình, mới có điều kiện
đóng góp những giá trị của cá nhân trong sự phát triển của cộng đồng, của xã
hội. Từ đó mà mỗi cá nhân được đánh giá, được nhìn nhận, được thẩm định
theo quan điểm của xã hội.
2. Cấu trúc của nhân cách.
Nói đến cấu trúc nhân cách, chính là nói tới các thành phần của nhân
cách. Xét về mặt tâm lý, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cấu trúc tổng qt của
nhân cách có hai thành phần chính: Đức và tài, trong đó đức là nền tảng. Đức
thể hiện phẩm chất và tài thể hiện năng lực của con người. Có bốn nhóm: Xu
6
hướng, tính cách, khí chất, năng lực đan xen trong phẩm chất đức và tài. Chính
đức và tài cấu thành phẩm chất trên. Nhân cách của người lãnh đạo nói chung
và cán bộ quản lý trong ngành giáo dục nói riêng:
*Phẩm chất chính trị tư tưởng.
Đó là khuynh hướng hoạt động chính trị xã hội và lập trường chính trị
của người quản lý, được biểu hiện cụ thể trong ý thức chính trị trong cơng việc
thường ngày, người quản lý ln ý thức được hậu quả về mặt chính trị của hoạt
động quản lý của mình. Nhạy bén trong việc vận dụng đường lối, chính sách,
nghị quyết của Đảng và Nhà nước vào cơng việc của mình và biết đánh giá con
người theo những tiêu chuẩn chính trị.
*Phẩm chất tâm lý đạo đức.
Đó là trình độ trưởng thành về ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và lập
trường đạo đức của người quản lý. Một số phẩm chất tâm lý cụ thể gồm lịng
say mê cơng việc, lịng nhân ái, sự cơng bằng, tính tự chủ, sự cân xứng hài hoà
giữa lý luận và thực tiễn, giữa nghị lực và trí tuệ, giữa nói và làm.
Người quản lý phải làm gì để tạo niềm tin và là chỗ dựa vững chắc cho
quần chúng. Ở người quản lý, nói ít làm nhiều cũng chưa hẳn là tốt mà lời nói
phải đi đơi với việc làm; có như vậy mới thể hiện được vai trị giải thích, tun
truyền, vận động, thuyết phục quần chúng của người quản lý.
*Năng lực quản lý, tổ chức chun mơn.
Đó là khả năng tổ chức hoạt động giảng dạy, đào tạo, nghiên cứu khoa
học có hiệu quả. Muốn vậy, người quản lý giáo dục - đào tạo phải có trình độ
học vấn cao, trình độ văn hố sâu sắc, phải có kinh nghiệm phong phú trong
lĩnh vực đào tạo, trong hoạt động dạy học và có năng lực tổ chức. Phải tinh
nhạy về mặt tâm lý, tình cảm và có đầu óc tâm lý thực tế.
Đặc trưng nổi bật của người quản lý giáo dục là năng lực lan truyền
nghị lực và ý chí khơi dậy ở mọi người tính tích cực lao động. Người lãnh đạo
7
phải kiên quyết, phê và tự phê đúng mức, biết khai thác tài năng, trí tuệ tồn bộ
đội ngũ trí thức, những nhà giáo. Họ phải có tính năng động về trí tuệ, tốc độ
suy nghĩ nhanh, linh hoạt, nhạy bén, có tinh thần phê phán khoa học mọi hiện
tượng, mọi q trình.
Có năng lực dự báo tình huống trong lãnh đạo, quản lý ngành, trường
học… Cuối cùng, cán bộ lãnh đạo quản lý phải thường xuyên học tập, tu dưỡng
phẩm chất đạo đức để nâng cao uy tín cá nhân kết hợp với uy tín, quyền lực,
chức vụ trong xã hội, ngành giao cho để hoạt động lãnh đạo, quản lý được
thuận lợi, có hiệu quả. Người lãnh đạo, quản lý giáo dục phải thực sự là “tấm
gương sáng” cho cán bộ, giáo viên và học sinh noi theo.
Người quản lý phải biết tổ chức hoạt động, sử dụng đúng người đúng
việc. Phải có trình độ chun mơn, trình độ văn hóa và kinh nghiệm lãnh đạo
quản lý. Người quản lý bao giờ cũng là người “biết trước, nghe hết và nói sau
cùng”.
3. Biểu hiện của nhân cách:
Người cán bộ lãnh đạo, quản lý giáo dục phải hội đủ ba năng lực đặc
biệt để có thể hồn thành được nhiệm vụ của mình, đó là:
*Năng lực tổ chức cơng việc:
Hoạt động của một trường học là hoạt động tập thể chứ khơng phải là
của cá nhân riêng lẻ. Có nhiều người khi làm việc chỉ riêng mình đạt hiệu quả
rất cao nhưng khơng có khả năng tổ chức cho nhiều người cùng thực hiện. Vì
vậy năng lực tổ chức công việc tập thể là yếu tố rất quan trọng của người cán
bộ quản lý trong các trường học.
*Năng lực sư phạm:
Khác với cơng tác giảng dạy, đây chính là khả năng lan truyền nghị lực
và ý chí của người cán bộ quản lý đối với tập thể, từ đó khơi dậy ở mọi người
tính tích cực hoạt động và lao động một cách tự giác. Mác và Lê-nin đều cho
8
rằng chỉ có lao động tự giác mới có khả năng sáng tạo. Rõ ràng trong điều kiện
ngày nay, trong sự yêu cầu khắt khe của xã hội, trong thời đại phát triển ứng
dụng khoa học công nghệ và ứng dụng xử lý thông tin, để lĩnh vực đào tạo
thành cơng thì yếu tố sáng tạo trong mọi hình thức hoạt động của trường học là
vô cùng quan trọng. Về năng lực sư phạm, đòi hỏi người quản lý phải có tính
kiên quyết, có phê bình và tự phê bình một cách đúng mức, có khả năng khai
thác trí tuệ của người khác, có tính tự chủ, có trình độ văn hố cao và có cái
tâm trong sáng.
*Tính năng động về trí tuệ:
Thể hiện ở cấp độ suy nghĩ nhanh, linh hoạt nhạy bén với cái mới, có
tinh thần phê phán khoa học đối với mọi sự vật hiện tượng và q trình, có
năng lực dự báo sự phát triển của các sự vật hiện tượng trong thực tế.
4. Con đường hình thành và phát triển nhân cách người cán bộ
lãnh đạo quản lý:
Nhân cách không phải tự nhiên mà có mà mỗi cá nhân phải trải qua q
trình rèn luyện lâu dài. Tâm lý học đã chỉ ra các yếu tố quy định sự hình thành
nhân cách:
*Giáo dục:
Khơng ai sinh ra đã là người lãnh đạo. Muốn trở thành người lãnh đạo
trước tiên phải được giáo dục, đào tạo trở thành con người với tư cách là thành
viên của xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người thực tế là
quá trình hoạt động của cá nhân để lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội.
Quá trình này được thực hiện nhờ hệ thống giáo dục và đào tạo. Giáo dục được
coi là một hoạt động chuyên môn của xã hội, nhằm tác động một cách có mục
đích đến cá nhân để hình thành ở cá nhân đó hệ thống những phẩm chất tâm lý
phù hợp với mục tiêu đào tạo của xã hội đặt ra.
9
Đối với người cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay cần phải được giáo
dục, đào tạo, bồi dưỡng nắm vững những hệ thống những tri thức khoa học,
những tri thức về đạo đức, những kỹ năng, kỹ xảo về quản lý. Điều quan trọng
là phải trang bị cho người lãnh đạo hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lê
Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; những tri thức về tâm lý con người, về công
nghệ quản lý, lãnh đạo.
*Hoạt động:
Môi trường xã hội, giáo dục của xã hội có vai trị quan trọng đối với sự
hình thành và phát triên nhân cách. Tuy nhiên, ảnh hưởng của môi trường và
giáo dục chỉ diễn ra thông qua hoạt động của chính con người. Cuộc sống con
người là một dịng hoạt động kế tiếp nhau. Nếu không hoạt động con người
không thể tồn tại và phát triển được. Nhân cách được hình thành, phát triển và
cũng được bộc lộ trong hoạt động. Hoạt động của cá nhân có vai trị quyết định
trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
*Giao lưu:
Giao lưu là một hoạt động nhằm thiết lập và vận hành các quan hệ giữa
người với người. Nếu khơng có giao lưu thì cá nhân sẽ khơng thể trở thành một
nhân cách.
Các quan hệ trong giao lưu cịn giúp cá nhân so sánh mình với những
đối tượng giao tiếp và qua đó tự nhận thức đúng về mình, tự hồn thiện mình.
Chính q trình “tự thân vận động” của mỗi người có nguồn gốc từ giao lưu.
Trong quá trình quản lý, lãnh đạo, giao lưu là hoạt động chủ yếu trong
mối quan hệ với tổ chức với người dưới quyền. Nếu khơng có hoạt động giao
lưu thường xun thì khơng thể diễn ra hoạt động của người lãnh đạo. Nhờ giao
lưu người lãnh đạo nắm được tình hình của quần chúng để có thể điều chỉnh
mình, chỉ đạo tốt việc ra quyết định, thực hiện quyết định quản lý.
*Tập thể:
10
Các tập thể cơ quan, đơn vị sản xuất, đoàn thể xã hội là môi trường
quan trọng để người lãnh đạo rèn luyện nhân cách của mình. Với tư cách là chủ
thể quản lý, người lãnh đạo tiến hành hoạt động quản lý thông qua các con
người trong tập thể và nhờ đó mà phát triển nhân cách. Ngược lại, trong q
trình chỉ đạo, quản lý, chính bản thân người lãnh đạo lại được tập thể nhận xét
thừa nhận hay khơng thừa nhận. Phê bình và tự phê bình là phương tiện có hiệu
quả nhằm giúp người lãnh đạo phát triển nhân cách.
III. THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN NHÂN
CÁCH NGƯỜI LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ.
1. Thực trạng
Trong thời gian qua đội ngũ cán bộ lónh đạo quản lý của ta ngày một
trưởng thành đảm đương tốt nhiệm vụ, vững vàng trước mọi thử thách và đang
là một trong những lực lượng nũng cốt thỳc đẩy sự nghiệp phát triển đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng phải nhỡn nhận rằng đội ngũ cán bộ lónh đạo vẫn
cũn nhiều yếu kộm và bất cập cả về năng lực lẫn phẩm chất đạo đức.
Chủ nghĩa cá nhân cơ hội, thực dụng đang phát triển. Tỡnh trạng suy
thoái về đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, công chức, nạn tham nhũng,
tệ quan liêu, sự phát triển của các tệ nạn XH, hiện tượng chạy chức chạy quyền,
tỡnh trạng thiếu kỷ cương, xa rời nhân dân ... đang là nổi lo của xó hội và là
một trong những nguyên nhân là suy giảm niềm tin trong nhân dân. Đó cú lời
cảnh bỏo nghiờm khắc rằng, trong suốt quỏ trỡnh lónh đạo của Đảng ta, từ khi
cầm quyền đến nay chưa bao giờ số lượng đội ngũ cán bộ đảng viên suy thoái
đạo đức, lối sống nhiều như hiện nay, chưa bao giờ tỡnh trạng tham nhũng, tiờu
cực trong nghiờm trọng như hiện nay. Bên cạnh đó, một số cán bộ lónh đạo
quản lý cũn băn khoăn, hồi nghi con đường đi lên CNXH và tính ưu việt của
CNXH. Về năng lực, Nghị quyết TW 3 (khóa VIII) nhận định “nhỡn chung đội
ngũ cán bộ hiện nay xét về chất lượng, số lượng và cơ cấu có nhiều mặt chưa
ngang tầm với đũi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa”.
11
Tỡnh trạng kộm trỡnh độ ngoại ngữ, vi tính, khơng có khả năng phân tích, tổng
kết thực tiễn, nắm bắt các vấn đề đặt ra và do vậy không đưa được những quyết
sách phù hợp, kịp thời, thực hiện có hiệu quả ... đang xảy ra khá nhiều ở trong
bộ phận những người lónh đạo quản lý. Trỡnh độ cán bộ lónh đạo quản lý cơ sở
đặc biệt ở cấp xó cũn thấp, chưa lơi cuốn, vận động tốt quần chúng. Đặc biệt
hiện nay trong lĩnh vực kinh tế, chúng ta đang thiếu những cán bộ lónh đạo
quản lý giỏi, vừa có “tầm” vừa có “tâm”.
2. Phương hướng hồn thiện nhân cách người lónh đạo quản lý.
Để hồn thiện nhân cách của cán bộ lónh đạo quản lý, Đảng ta đó cú
nhiều Nghị quyết bàn về cụng tỏc cỏn bộ. Điều này đũi hỏi người cán bộ lónh
đạo quản lý phải biết tự hoàn thiện nhõn cỏch của mỡnh thụng qua giáo dục,
hoạt động, giao lưu và tập thể, trong đó, giáo dục đóng vai trũ chủ đạo đối
với sự phỏt triển nhõn cỏch.
Đối với người cán bộ lónh đạo - quản lý hiện nay, tuỳ theo ngành nghề
yêu cầu mà phải được giáo dục đào tạo, bồi dưỡng để nắm vững những hệ
thống tri thức khoa học, những tri thức về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế,
quản lý xó hội và những kỹ năng, kỹ xảo về quản lý và trang bị hệ thống quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM, những tri thức về tâm lý con
người, về cụng nghệ lónh đạo - quản lý. Con đường hiệu quả nhất giúp cho
người lónh đạo - quản lý hoàn thiện nhõn cỏch của mỡnh là tự nhận thức và bồi
dưỡng, trang bị cho mỡnh những tri thức khoa học, kỹ năng lónh đạo - quản lý
và tự rốn luyện những phẩm chất nhõn cỏch của mỡnh.
Mặt khác, để hoàn thiện nhân cách, người cán bộ lónh đạo phải tham
gia nhiều dạng hoạt động khác nhau, chỉ trong hoạt động thực tiễn, nhận thức
của người lónh đạo quản lý về thế giới, các sự kiện chung quanh mới nhanh
chóng hơn, nhạy bén và sâu sắc hơn, tỡnh cảm được biểu hiện mónh liệt hơn, ý
chớ kiờn cường hơn.
12
Người lónh đạo - quản lý cũn phải biết xem giao lưu như một phương
cách chủ yếu để nắm được tỡnh hỡnh ở quần chỳng, biết được tâm tư, nguyện
vọng, sự đánh giá của quần chúng để có thể tự điều chỉnh mỡnh, chỉ đạo tốt
việc ra quyết định và tổ chức thực hiện tốt việc thực hiện quyết định quản lý.
Bên cạnh đó, tập thể lao động ở cơ quan, đơn vị mỡnh, tập thể cỏc đồn
thể xó hội là mụi trường quan trọng để các nhà lónh đạo - quản lý rốn luyện
nhân cách. Do đó người lónh đạo cần phải đặt mỡnh trong tổ chức, phải sinh
hoạt và cụng tỏc trong cỏc tổ chức này với tinh thần vỡ Đảng, vỡ dõn. Rốn
luyện nhõn cỏch cú nghĩa là phỏt huy ưu điểm và sửa chữa khuyết điểm của
bản thân, trong đó tự phê bỡnh và phờ bỡnh là con đường rèn luyện tốt nhất.
Ngoài ra, để ngăn ngừa sự tha hóa về lối sống, đạo đức, người lónh đạo
quản lý phải biết tự giác kiềm chế trước những cám dỗ vật chất, cảnh giác và
tỉnh táo với những thủ đoạn mua chuộc của kẻ xấu, phải biết đề cao nét đẹp
truyền thống, đạo đức, đạo lý của cha ông, tạo dựng tâm lý “mỗi người vỡ mọi
người, mọi người vỡ mỗi người” trong mỗi gia đỡnh, trong mụi trường làm
việc, xây dựng “lối sống mới” giữ lấy “thuần phong mỹ tục”.
13
KẾT LUẬN
Từ những vấn đề trình bày ở trên, có thể khẳng định rằng: Nhân cách
người lãnh đạo, quản lý là những yếu tố có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức
quan trọng, nhất là trong tình hình hiện nay.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm
vụ, trước hết cần đặc biệt coi trọng xây dựng hoàn thiện nhân cách cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý bởi vì họ là phần hồn của tổ chức. Cơng tác lãnh đạo, quản lý
có trở thành nghệ thuật hay không, đều tuỳ thuộc vào người lãnh đạo, quản lý
có đủ phẩm chất, năng lực, sáng tạo, linh hoạt, biết xử lý mọi tình huống trong
công tác và cuộc sống. Quỏ trỡnh hỡnh thành và phỏt triển nhõn cỏch là một
quỏ trỡnh lõu dài, phức tạp đũi hỏi người lónh đạo phải thường xuyên rèn
luyện, tu dưỡng, học tập. Chính vỡ vậy, vấn đề đào tạo, bồi dượng, rèn luyện
đội ngũ cán bộ lónh đạo có phẩm chất đạo đức và năng lực có ý nghĩa vụ cựng
quan trọng gúp phần thúc đẩy nhanh nhiệm vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
14