Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Giáo trình Tâm lý học nghề nghiệp: Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.3 KB, 31 trang )

Chương 1. TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC
1.1.1. Khái niệm tâm lý và tâm lý học
a) Khái niệm tâm lý
Đời sống tâm lý của con người được bao gồm nhiều hiện tượng phong phú, đa
dạng, phức tạp như cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tưởng, tình cảm, ý chí, khí
chất, năng lực, lý tưởng, niềm tin..v.v
Tâm lý là hiện tượng tinh thần được nảy sinh trong não của chủ thể, do sự
tác động của thế giới khách quan vào não mà sinh ra, có tác dụng định hướng,
chuẩn bị, điều khiển toàn bộ hoạt động cũng như giao tiếp của họ. Tâm lý có tính
chất chủ quan trong nội dung cũng như hình thức biểu hiện và ln sống động trong
đời sống tinh thần của mọi chủ thể.
Như vậy, tâm lý bao gồm tất cả những hiện tượng tinh thần đang xảy ra trong
đầu óc con người. Các hiện tượng này luôn tồn tại gắn liền và điều hành mọi hoạt động
cũng như quan hệ của con người. Các hiện tượng tâm lý ln có vai trị quan trọng đặc
biệt trong đời sống của con người cũng như trong quan hệ giữa con người với con
người và cả xã hội.
b) Khái niệm tâm lý học
Tâm lý học là khoa học nghiên cứu về bản chất và tính quy luật của tâm lý, ý
thức, nhân cách. Nó nghiên cứu quy luật của sự hình thành, nảy sinh, phát triển, diễn
biến, biểu hiện của hiện tượng tâm lý. Cụ thể, tâm lý học nghiên cứu những chuyển
biến từ dạng vận động sinh vật sang dạng vận động xã hội, từ những biến đổi về sinh
lý - thần kinh đến sự hình thành về tâm lý.
Tâm lý học ra đời cùng với sự phát triển của triết học và khoa học. Nó tồn tại và
phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Tâm lý học ra đời với tư cách là
một khoa học độc lập vào nửa sau thế kỷ XIX (1879).
1.1.2. Bản chất của hiện tượng tâm lý
a) Tâm lý là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não của chủ thể
Thế giới khách quan được tồn tại qua các thuộc tính khơng gian, thời gian và
ln vận động. Phản ánh là thuộc tính chung của vật chất. Phản ánh được hiểu là quá
trình tác động qua lại giữa hệ thống này với hệ thống khác. Kết quả của sự tác động là


để lại dấu vết, hình ảnh ở cả hệ thống tác động và hệ thống chịu sự tác động. Phản ánh
được diễn ra từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hóa lẫn nhau. Có các hình thức
phản ánh cơ, lý, hóa, sinh vật và xã hội (trong đó có phản ánh tâm lý).
Phản ánh tâm lý được hiểu là một loại phản ánh đặc biệt, là phản ánh của phản
ánh, là hình ảnh của hình ảnh và có những đặc điểm sau: 1) Phản ánh tâm lý là sự tác
động qua lại của hiện thực khách quan vào não của con người. Bộ não người - tổ chức
cao nhất của vật chất tiếp nhận tác động của hiện thực khách quan mà tạo nên hình ảnh
tinh thần. Các dấu vết vật chất đó khơng phải do bộ não tự tạo ra mà là kết quả của quá
trình phản ánh thế giới khách quan vào não thông qua các giác quan của chủ thể; 2)
Phản ánh tâm lý được hiểu là hình ảnh của hình ảnh, bản sao chép sinh động và sáng
tạo về thế giới. Bởi vì, các hình ảnh tâm lý trong bộ não cũng như biểu hiện thông qua

1


hành vi, hoạt động của con người đều là kết quả của các q trình sinh lý, sinh hóa
trong hệ thần kinh và não bộ; 3) Tâm lý có tính chủ thể, bởi chính chủ thể mang hình
ảnh tâm lý mới là người cảm nhận và thể hiện rõ nhất nội dung của phản ánh để rồi
tiến hành tỏ thái độ, hành vi khác nhau của mình đối với hiện thực qua các mức độ
cũng như các sắc thái nhất định. Khi cùng đứng trước một tác động của thế giới khách
quan, các chủ thể sẽ có những phản ánh tâm lý khác nhau. Ngay cả đối với mỗi một
chủ thể, mặc dù cùng nhận một tác động từ thế giới khách quan nhưng ở các thời điểm,
hoàn cảnh… khác nhau chủ thể đó cũng sẽ có thể có những phản ánh khác nhau.
Nguyên nhân là do mỗi người có đặc điểm riêng về cơ thể, giác quan, hệ thần kinh và
não bộ, mỗi người có hồn cảnh sống, điều kiện giáo dục khác nhau, đặc biệt là mức
độ tích cực hoạt động cũng như quan hệ của mỗi người là khác nhau nên nội dung tâm
lý của người này và người kia sẽ không giống nhau. Ngay cả ở những trẻ sinh đôi cùng
trứng khi ở cùng một điều kiện sống, hồn cảnh, mơi trường mà chúng tiến hành
những quá trình hoạt động, giao tiếp khác nhau cũng sẽ có những biểu hiện tâm lý
khác nhau.

b) Tâm lý có bản chất hoạt động, giao tiếp
Việc tham gia thực hiện các hoạt động cũng như các mối quan hệ giao tiếp là
điều kiện tiên quyết để có các phản ánh tâm lý. Tức là, muốn có tâm lý phải có sự tác
động qua lại giữa chủ thể với thế giới khách quan (đối tượng - khách thể) thông qua
hoạt động, giao tiếp một cách tích cực của chủ thể.
+ Hoạt động là quá trình tác động qua lại giữa con người và thế giới xung
quanh (đối tượng - khách thể) để tạo ra sản phẩm. Hoạt động bao giờ cũng có tính chủ
thể, tính mục đích, tính đối tượng và tính gián tiếp. Hoạt động do chủ thể thực hiện.
Chủ thể của hoạt động có thể là một hoặc nhiều người trong nhóm xã hội. Hoạt động
bao giờ cũng có tính mục đích. Mục đích của hoạt động là làm biến đổi thế giới đối
tượng thành sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu, thơng qua đó, nó cũng làm biến đổi
chính bản thân chủ thể. Hoạt động bao giờ cũng được hiểu là hoạt động có đối tượng.
Đối tượng của hoạt động là cái chủ thể sẽ tác động vào, biến đổi và chiếm lĩnh được
nội dung của nó. Hoạt động luôn vận hành theo nguyên tắc gián tiếp. Khi tác động vào
đối tượng, chủ thể sẽ sử dụng vốn kinh nghiệm, hình ảnh tâm lý ở trong đầu và sử
dụng cơng cụ, phương tiện lao động.
Có nhiều cách mơ tả cấu trúc của hoạt động. Nhìn một cách chung nhất, hoạt
động có thành phần của hoạt động và nội dung đối tượng của hoạt động. Các thành
phần cũng như hai mặt của hoạt động ln có mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại
và chuyển hố lẫn nhau theo những quy luật rất phức tạp. Có thể phân tích cấu trúc vĩ
mơ của hoạt động theo sơ đồ như sau:
Chủ thể

Dòng các hoạt động

Khách
Kháchthể
thể

2


Động cơ

Chủ thể

Hoạt
Hoạt động
độngcụ
cụthể
thể


Hình 1.1. Sơ đồ cấu trúc của hoạt động
Như vậy, hoạt động được thực hiện nhằm vào một đối tượng xác định để
“chiếm lĩnh” nội dung của đối tượng đó. Cái kích thích hoạt động được gọi là động cơ
(mục đích xa). Động cơ sẽ ln thúc đẩy chủ thể tiến hành tác động vào khách thể để
thay đổi, biến thành sản phẩm hoặc tiếp nhận, chuyển nội dung của nó vào đầu óc
mình. Khi tham gia hoạt động, chủ thể sẽ phải thực hiện một loạt các hành động để đạt
tới mục đích (mục đích gần, cụ thể). Và hành động lại được thực hiện thông qua một
hệ thống các thao tác để giải quyết những nhiệm vụ nhất định. Thao tác được chủ thể
thực hiện sẽ gắn liền với việc sử dụng công cụ, phương tiện trong những điều kiện cụ
thể. Tùy vào những điều kiện, phương tiện lao động khác nhau mà các thao tác của
chủ thể cũng khác nhau.
Hoạt động có vai trị quyết định đối với sự nảy sinh, biểu hiện, vận hành, phát
sinh và sự phát triển của tâm lý - ý thức - nhân cách. Khi tham gia vào hoạt động, một
mặt, chủ thể sẽ bộc lộ rõ lực lượng tâm lý (kiến thức, kỹ năng, thái độ) và thể chất của
mình, ghi dấu ấn của mình vào sản phẩm hoạt động, tự khách quan hố những phẩm
chất cùng năng lực của mình ra bên ngồi bằng cơ chế xuất tâm (q trình khách thể
hóa); mặt khác, chủ thể sẽ lĩnh hội, phản ánh được những thuộc tính của đối tượng,
của những cơng cụ, phương tiện mà mình sử dụng để tự làm phong phú, phát triển tâm

lý bằng cơ chế nhập tâm (q trình chủ thể hố). Thơng qua hai q trình này, tâm lý
của mỗi chủ thể không những được nảy sinh, hình thành, biểu hiện mà cịn được vận
hành và phát triển. Tất cả các quá trình cảm giác, tri giác, chiều sâu của tư duy trí tuệ,
sức mạnh của óc tưởng tượng sáng tạo; sự chú ý, tập trung cũng như sự hiểu biết, trình
độ tay nghề, năng lực và các phẩm chất tâm lý khác của chủ thể đều được bộc lộ, được
khách quan hóa và được phát triển, hoàn thiện dần khi chủ thể tham gia vào các hoạt
động. Cuộc sống là một dòng các hoạt động nối tiếp nhau, cho nên, chủ thể càng tham
gia tích cực vào các hoạt động bao nhiêu thì tâm lý của chính họ sẽ càng được bộc lộ,
phát triển và hoàn thiện bấy nhiêu.

3


+ Giao tiếp là quá trình thiết lập mối quan hệ hai chiều lẫn nhau về mặt tâm lý
giữa hai hay nhiều người nhằm trao đổi thông tin, tâm tư, tình cảm hoặc có tính chất
định hướng giá trị.
Giao tiếp thường được tồn tại trong các hoạt động cùng nhau thông qua sự tác
động qua lại giữa người với người như lao động, vui chơi, học tập, chiến đấu v.v...
Xét về cấu trúc chung, hoạt động và giao tiếp cũng giống nhau nhưng hoạt động chủ
yếu được thực hiện nhằm hướng vào nhận thức và cải tạo thế giới đối tượng còn chủ
thể của giao tiếp lại hướng vào đối tượng là các mối quan hệ với người khác (quan hệ
của người với người và nhóm xã hội) nhằm hướng vào tìm hiểu, lĩnh hội và tác động
đến các mối quan hệ qua lại lẫn nhau về tâm lý giữa người với nhóm và xã hội.
Giao tiếp thực hiện chức năng tâm lý - xã hội, nối mạch cho sự tiếp xúc để
trao đổi tư tưởng, ý nghĩ, ý đồ, tâm tư, gây ảnh hưởng và để lại dấu ấn về tâm hồn giữa
người với người. Ngay từ khi mới ra đời, nhờ được ấp ủ, ru nựng, tiếp xúc trực tiếp
với người mẹ mà đứa trẻ chừng hơn một tháng tuổi đã biết nhoẻn cười đáp lại sự âu
yếm của mẹ. Đó là biểu hiện cụ thể của sự giao tiếp mang tính “phức cảm hớn hở” đầu
tiên của con người. Nhu cầu giao tiếp với người khác từ đó sẽ được phát triển mãi lên,
từ chỗ bằng hành vi, cử chỉ, cử động tay chân, ánh mắt, vẻ mặt đến dùng lời nói để

trao đổi ý muốn, ý nghĩ, tình cảm với những người xung quanh. Đồng thời với q
trình đó, đứa trẻ sẽ lĩnh hội được nội dung của các cử chỉ, quy tắc hành vi ứng xử
trong các quan hệ xã hội, góp phần hình thành nên ý thức, tình cảm, thói quen trong
quan hệ với những thành viên của gia đình, nhóm bạn, người khác và cộng đồng.
c) Tâm lý người có bản chất xã hội - lịch sử
Tâm lý con người có nguồn gốc khách quan, trong đó yếu tố xã hội là cái quyết
định. Các quan hệ kinh tế – xã hội, các mối quan hệ đạo đức, pháp quyền, các quan hệ
giữa con người- con người từ gia đình, làng xóm, q hương, cộng đồng quyết định
bản chất tâm lý người. Tâm lý người là kết quả của sự lĩnh hội những kinh nghiệm xã
hội - lịch sử vào bộ não và biến thành cái riêng của mỗi người. Cho nên, bản chất tâm
lý người chính là sự tổng hịa của các quan hệ xã hội. Vì vậy, để hiểu được nó, chúng
ta phải nghiên cứu môi trường xã hội, nền văn hóa, các mối quan hệ mà trong đó chủ
thể đang sống và hoạt động.
Tâm lý của mỗi con người hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự phát
triển của lịch sử cá nhân, lịch sử dân tộc. Sống trong các xã hội khác nhau, các giai
đoạn lịch sử khác nhau, do điều kiện, hồn cảnh, trình độ xã hội khác nhau mà tâm lý
con người cũng sẽ có những khác nhau. Con người ở các giai đoạn lứa tuổi khác nhau
thì các nét tâm lý cũng có sự khác nhau.
Vì tâm lýngười có nguồn gốc xã hội nên phải nghiên cứu mơi trường xã hội,
nền văn hố xã hội, các quan hệ xã hội trong đó con người sống và hoạt động. Cần
phải tổ chức có hiệu quả hoạt động dạy và học trong giáo dục cũng như các hoạt động
chủ đạo ở từng giai đoạn, lứa tuổi khác nhau để hình thành, phát triển tâm lýcon
người.
1.1.3. Phân loại hiện tượng tâm lý

4


Trong tâm lý học, các hiện tượng tâm lý của con người thường được phân chia
thành: quá trình, trạng thái và thuộc tính tâm lý.

a) Q trình tâm lý là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương
đối ngắn, có mở đầu, diễn biến, kết thúc tương đối rõ ràng và có đối tượng riêng biệt.
Có các q trình nhận thức, xúc cảm và ý chí. Nhận thức, xúc cảm ý chí ln được
biểu hiện ra hành động và giao tiếp của chủ thể.
b) Trạng thái tâm lý là các hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối
dài, với cường độ xác định. Chúng khơng có đối tượng riêng mà thường đi kèm theo
các q trình và các thuộc tính tâm lý khác như các trạng thái chú ý, tâm trạng, xúc
động, say mê, căng thẳng, lo âu, tâm thế. Chủ thể khó nhận biết được thời điểm mở
đầu và kết thúc của các trạng thái tâm lý.
c) Thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định, mang tính
bền vững tương đối, khó hình thành và cũng khó mất đi, tạo thành những nét riêng cho
bộ mặt tâm lý của nhân cách như xu hướng, tính cách, năng lực, khí chất.
1.2. Q TRÌNH NHẬN THỨC VÀ TRẠNG THÁI CHÚ Ý
1.2.1. Q trình nhận thức
1.2.1.1. Nhận thức cảm tính
a) Cảm giác
Trong q trình tiến hố của sinh giới – phát sinh chủng loại và phát triển của
một đứa trẻ – phát sinh cá thể, cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của cơ thể
đối với thế giới xung quanh. Có những con vật chỉ có thể phản ánh được những thuộc
tính riêng lẻ có ý nghĩa sinh học trực tiếp của sự vật, hiện tượng mà thôi. Đứa trẻ trong
những tuần lễ đầu tiên cũng như vậy. Điều đó nói lên rằng cảm giác là hình thức khởi
đầu trong sự phát triển của hoạt động nhận thức.
Định nghĩa: Cảm giác là một qúa trình tâm lý phản ánh một cách riêng lẻ
từng thuộc tính bề ngồi của sự vật, hiện tượng trong thực tại khách khi
chúng đang tác động trực tiếp vào giác quan của ta.
Đặc điểm: Cảm giác có những đặc điểm sau: 1) Nó là một q trình tâm lí có
sự nảy sinh, diễn biến và kết thúc một cách rõ rệt, do kích thích của bản thân các sự
vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan vào giác quan và não mà sinh ra; 2) Đối
tượng phản ánh của cảm giác ở người không chỉ là những thuộc tính của sự vật hiện
tượng vốn có trong thế giới mà cịn là những thuộc tính của sự vật hiện tượng do con

người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động và giao tiếp. 3) Nội dung phản ánh, cảm
giác phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng. Đặc điểm này cho thấy
cảm giác là mức độ nhận thức thấp nhất. Phản ánh của cảm giác mang tính đơn nhất;
4) Phương thức phản ánh: cảm giác phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp.
Nghĩa là sự vật, hiện tượng phải trực tiếp tác động vào giác quan của ta mới gây ra
cảm giác. Đặc điểm này cũng nói lên mức độ thấp cuả cảm giác, nói riêng và nhận
thức cảm tính, nói chung trong sự phản ánh hiện thực khách quan; 5) Cảm giác của
con người có bản chất xã hội - lịch sử. Bản chất của cảm giác ở con người mang tính
chất xã hội thể hiện ở những điểm sau:

5


- Đối tượng phản ánh của cảm giác ở người ngồi sự vật hiện tượng vốn có
trong tự nhiên phản ánh những thuộc tính của sự vật, hiện tượng do con người sáng tạo
ra trong qúa trình lao động quá trình hoạt động và giao tiếp tức là có bản chất xã hội.
- Cơ chế sinh lí của cảm giác ở người không chỉ giới hạn phụ thuộc ở hệ thống
tín hiệu thư nhất mà cịn chịu sự chi phối bởi hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ hai là
hệ thống tín hiệu ngơn ngữ, tức cũng có bản chất xã hội.
- Cảm giác ở người chỉ là mức độ định hướng đầu tiên sơ đẳng nhất chứ không
phải là mức độ cao nhất, duy nhất như ở một số loài động vật. Cảm giác ở người chịu
sự tác động và ảnh hưởng của nhiều hiện tượng tâm lýkhác của con người.
- Cảm giác của con người được phát triển mạnh mẽ và phong phú dưới ảnh
hưởng của của hoạt động và giáo dục, tức cảm giác của con người được tạo ra theo
phương thức đặc thù của xã hội, do đó mang đậm đặc tính xã hội (VD: do hoạt động
nghề nghiệp mà có những người thợ dệt phân biệt được tới 60 màu đen khác nhau hay
có người đầu bếp “nếm” được bằng mũi hay có người “đọc” được bằng tay, có người
thợ “đo” được bằng mắt. người giáo viên có thể “nhìn” được bằng tai ý thức học tập
của học sinh phía sau lưng mình)
Vai trị của cảm giác: cảm giác có vai trị quan trọng trong cuộc sống, hoạt

động và giao tiếp của con người. Cảm giác là quá trình tâm lý đơn giản nhất nhưng lại
là hình thức định hướng đầu tiên và làm cơ sở, khởi nguồn cho hoạt động nhận thức
khác của con người như tri giác, tư duy, tưởng tượng. Nó là những viên gạch, là cơ sở
để xây dựng nên tòa lâu đài nhận thức của con người.
Trong với cuộc sống, cảm giác là mối liên hệ trực tiếp của chủ thể với môi
trường xung quanh, làm cho cơ thể biết thích ứng được với mơi trường.
Các loại cảm giác: có cảm giác bên trong và cảm giác bên ngồi. Có các loại
cảm giác bên trong như cảm giác vận động, cảm giác thăng bằng và cảm giác cơ thể.
Có năm loại cảm giác bên ngồi như cảm giác nhìn, cảm giác nghe, cảm giác ngửi,
cảm giác nếm, xúc giác.
Các quy luật cơ bản của cảm giác: Cảm giác có một số quy luật sau:
- Quy luật về ngưỡng cảm giác
Muốn có cảm giác thì phải có kích thích vào các giác quan. Song kích thích chỉ
gây được cảm giác khi kích thích đó đạt tới một giới hạn nhất định. Giới hạn của
cường độ kích thích mà ở đó gây ra được cảm giác gọi là ngưỡng cảm giác.
Có hai ngưỡng: ngưỡng cảm giác phía dưới và ngưỡng cảm giác phía trên.
Ngưỡng cảm giác phía dưới là cường độ kích thích tối thiểu đủ để gây ra cảm giác.
Khả năng cảm nhận được kích thích này gọi là độ nhạy cảm của cảm giác. Ngưỡng
cảm giác phía trên là cường độ kích thích tối đa mà ở đó vẫn còn gây ra cảm giác cùng
loại. Phạm vi giữa hai ngưỡng trên gọi là vùng cảm giác được (vùng phản ánh), trong
đó có vùng cảm giác tốt nhất.
Ví dụ: Ngưỡng dưới của cảm giác nhìn ở người là sóng ánh sáng có bước sóng
390 mM, ngưỡng cảm giác phía trên là 780 mM. Ngoài hai giới hạn trên, những tia
cực tím - tử ngoại và cực đỏ - hồng ngoại thì mắt người sẽ khơng nhìn thấy được.

6


Vùng phản ánh tốt nhất của cảm giác ánh sáng là sóng ánh sáng có bước sóng 565
mM, của âm thanh là 1000 hec.

Ngồi ra, người ta cịn nói đến ngưỡng sai biệt. Đó là mức độ chênh lệch tối
thiểu về cường độ hoặc tính chất của hai kích thích đủ để ta phân biệt được chúng.
Ngưỡng sai biệt của mỗi cảm giác là một hằng số và nó tỷ lệ nghịch với độ nhạy cảm
sai biệt của cảm giác.
- Quy luật về sự thích ứng của cảm giác
Để phản ánh được tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh, cảm giác của con người có
khả năng thích ứng với kích thích. Thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của
cảm giác cho phù hợp với cường độ: khi cường độ kích thích tăng thì độ nhạy cảm
giảm, khi cường độ kích thích giảm thì độ nhạy cảm tăng.
Quy luật thích ứng có ở mọi cảm giác nhưng mức độ thích ứng khác nhau: cảm
giác nhìn, ngửi thích ứng nhanh cịn cảm giác nghe, cảm giác đau khó thích ứng. Khả
năng thích ứng của cảm giác có thể thay đổi và phát triển do rèn luyện của chủ thể.
- Quy luật về sự tác động lẫn nhau giữa các cảm giác
Các cảm giác ở con người không tồn tại biệt lập mà luôn tác động qua lại với
nhau. Sự tác động này diễn ra theo quy luật: Sự kích thích yếu lên một cơ quan phân
tích này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của một cơ quan phân tích kia và ngược lại. Ví dụ,
khi uống một cốc nước đường cịn nóng thì ta sẽ cảm thấy ít ngọt hơn, nhưng chính
cốc nước đường đó khi để nguội, ta uống vào sẽ cảm thấy ngọt hơn. Như vậy, nhiệt
giác đã có ảnh hưởng đến vị giác.
Sự tác động qua lại giữa các cảm giác có thể diễn ra một cách đồng thời hay
nối tiếp giữa các cảm giác cùng loại hay khác loại. Sự tương phản chính là sự biểu
hiện của sự tác động qua lại giữa các cảm giác thuộc cùng một loại. Đó là sự biểu thị
của sự thay đổi về cường độ và chất lượng của cảm giác dưới ảnh hưởng của một kích
thích cùng loại xảy ra trước đó hay đồng thời.
- Quy luật bù trừ cảm giác
Đối với con người, cảm giác lại có khả năng bù trừ chức năng thật kỳ diệu. Khi
ở họ, có một giác quan nào đó bị mất đi hoặc bị yếu kém thì tính nhạy cảm của các
giác quan khác lại được tăng cường. Nhờ đó mà con người vẫn có thể trả lời được
những tác động khác nhau của các kích thích từ ngoại giới.
b) Tri giác

Để phản ánh các sự vật, hiện tượng trong một chỉnh thể, các cảm giác riêng lẻ
sẽ được tổng hợp lại trên vỏ não và đem lại cho con người một hình ảnh trọn vẹn, hồn
chỉnh về chúng. Đó là các hình ảnh của tri giác.
Định nghĩa: Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn
các thuộc tính bề ngồi của sự vật, hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động
vào các giác quan của ta.
Đặc điểm của tri giác:
Giống cảm giác, tri giác cũng có các đặc điểm sau: Tri giác cũng là một q
trình tâm lý : có mở đầu, có diễn biến và kết thúc; Tri giác cũng chỉ phản ánh những

7


thuộc tính bề ngồi của sự vật hiện tượng; Tri giác phản ánh sự vật hiện tượng một
cách trực tiếp.
Bên cạnh đó, tri giác cịn có những đặc điểm khác so với cảm giác như: 1) Tri
giác phản ánh trọn vẹn các thộc tính bề ngồi của sự vật hiện tượng. Tính trọn vẹn của
tri giác là do sự tồn tại khách quan như một chỉnh thể của các thuộc tính của bản thân
sự vật và hiện tượng quy định. Trên cơ sở của kinh nghiệm, hiểu biết của mình, khi
mình mới tri giác chỉ một số thành phần riêng lẻ của nó thơi, chúng ta cũng đã biết
tổng hợp được các thuộc tính riêng lẻ của chúng để tạo thành một hình ảnh trọn vẹn; 2)
Tri giác phản ánh sự vật hiện tượng theo những cấu trúc nhất định. Tri giác không phải
là tổng số giản đơn của các cảm giác. Sự thực là chúng ta đã tri giác theo một cấu trúc
khái quát được trừu xuất khỏi tất cả những cảm giác bộ phận mà nhìn thấy mối liên hệ
hữu cơ với nhau, tuân thủ cấu trúc của đối tượng. Mối liên hệ này đã được hình thành
trong suốt quá trình chủ thể sống, họat động và quan hệ; 3) Tri giác là q trình tích
cực gắn liền với hoạt động của con người. Tri giác của con người mang tính chất tự
giác. Nó khơng phải là một quá trình nhận biết đối tượng một cách thụ động, giản đơn
mà là sự giải quyết tích cực các nhiệm vụ nhận thức. Người ta đã chứng minh được
rằng, tri giác là một hành động và hoạt động nhân thức tích cực mà trong đó, có sự kết

hợp chặt chẽ của các yếu tố cảm giác với vận động. Quan sát là mức độ phát triển cao
nhất của tri giác. Đó là loại hình tri giác tích cực, có mục đích, có kế hoạch, có chủ
định, diễn ra tương đối độc lập, lâu dài nhằm phản ánh được đầy đủ, rõ rệt các thuộc
tính bề ngồi của sự vật, hiện tượng cùng với những biến đổi của chúng. Năng lực
quan sát ở các chủ thể khác nhau là khác nhau.
Vai trị của tri giác: Tri giác có vai trị quan trọng trong cuộc sống, hoạt động
và giao tiếp của chủ thể. Nó định hướng cho việc thực hiện các nhiệm vụ giao tiếp và
hoạt động của con người. Nó là thành phần chính của hoạt động nhận thức cảm tính,
làm cho q trình nhận thức cảm tính có chất lượng và hiệu quả hơn. Tri giác còn thực
hiện nhiệm vụ cung cấp nguyên liệu cho quá trình tư duy và tưởng tượng.
Phân loại tri giác:
Dựa theo giác quan nào giữ vai trị chính trong q trình tri giác mà người ta
chia tri giác thành: tri giác nhìn, tri giác nghe, tri giác ngửi, tri giác nếm và xúc giác.
Dựa theo tính chất của đối tượng được phản ánh bằng tri giác mà người ta chia
nó ra thành các loại: tri giác không gian, tri giác thời gian và tri giác chuyển động.
Căn cứ vào mức độ chỉ đạo của ý thức khi tri giác, người ta chia ra loại tri giác
có chủ định và tri giác khơng chủ định.
Các quy luật cơ bản của tri giác
- Quy luật về tính đối tượng của tri giác: Hình ảnh trực quan mà tri giác đem lại
bao giờ cũng phản ánh một sự vật, hiện tượng nhất định nào đó của thế giới bên ngồi.
Những hành động này mang tính có đối tượng, được hướng vào những khách thể bên
ngoài nhằm giúp cho chủ thể biết cách hành động cho thích ứng với những đặc điểm,
vị trí và hình dáng của chúng. Nhờ đó mà chủ thể sẽ gọi được tên sự vật, hiện tượng.
Nó làm cơ sở tâm lý cho việc định hướng mọi hành vi và quan hệ của con người.

8


- Quy luật về tính lựa chọn của tri giác: Có vơ vàn sự vật, hiện tượng tác động
vào con người. Tri giác không thể phản ánh tất cả các sự vật, hiện tượng đang trực tiếp

tác động mà tách ra một số tác động làm đối tượng tri giác, còn những tác động khác
được xem là bối cảnh (nền). Như vậy, thực chất quá trình tri giác là một hệ thống hành
động lựa chọn tích cực. Tính lựa chọn của tri giác phụ thuộc vào nhiều yếu tố: đặc
điểm của sự vật, hoàn cảnh tri giác, kinh nghiệm, hứng thú, mục đích…của chủ thể.
- Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác: Những hình ảnh mà con người đã thu
nhận được qua tri giác sẽ ln có một ý nghĩa xác định. Khi tri giác sự vật, hiện tượng,
ngay cả khi tri giác một sự vật không quen thuộc, chúng ta cũng cố thu nhận trong nó
một sự giống nhau nào đó với những đối tượng mà mình đã biết và sẽ gọi được tên của
nó, xếp nó vào một nhóm, một lớp các sự vật xác định. Tức là, khi tri giác một sự vật
nào đó, chủ thể sẽ tổng hợp những tài liệu đã có, tách đối tượng ra khỏi bối cảnh để
gọi tên, hiểu được ý nghĩa và chỉ ra chức năng, công dụng của sự vật, hiện tượng đó.
- Quy luật về tính ổn định của tri giác: Tính ổn định của tri giác là khả năng
phản ánh sự vật, hiện tượng một cách không đổi khi điều kiện tri giác thay đổi. Tính
ổn định của tri giác chủ yếu do cơ chế tự điều chỉnh của hệ thần kinh và kinh nghiệm
của con người. Tính ổn định của tri giác được hình thành trong hoạt động với đối
tượng là một điều kiện cần thiết cho cuộc sống, hoạt động và quan hệ của con người
trong thế giới đa dạng và biến đổi vơ tận này.
- Quy luật tổng giác: Ngồi việc phụ thuộc vào bản thân kích thích, tri giác của
con người còn bị quy định bởi một loạt các nhân tố nằm trong chính bản thân chủ thể
khi tri giác. Khơng phải cơ quan thụ cảm như cái tai, con mắt vv tri giác được sự vật
mà những đặc điểm như thái độ, nhu cầu, động cơ, tâm thế, hứng thú, nguyện vọng,
sở thích, tình cảm vv.. của cá nhân sẽ luôn quy định hiệu quả và chất lượng của sự tri
giác của họ. Trong khi tri giác, tất cả sự hoạt động của mọi giác quan đều sẽ diễn ra
một cách tổng hợp theo một hệ thống, tuân thủ cấu trúc của đối tượng tạo ra tính tổng
giác.
1.2.1.2. Nhận thức lý tính
a) Tư duy
+ Định nghĩa: Tư duy là một q trình tâm lý phản ánh những thuộc tính
bản chất, những mối liên hệ và quan hệ có tính quy luật của hàng loạt sự vật, hiện
tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết.

Tư duy là một mức độ nhận thức mới, cao hơn về chất so với nhận thức cảm
tính. Nếu cảm giác, tri giác mới chỉ phản ánh được một cách cụ thể, trực tiếp, đơn nhất
những thuộc tính bên ngồi thì tư duy phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối
liên hệ và quan hệ bên trong, có tính quy luật của hàng loạt sự vật, hiện tượng. Tính
chủ thể trong hoạt động tư duy của con người được biểu hiện rõ ràng, sâu sắc và độc
đáo.
+ Đặc điểm của tư duy
- Tính có vấn đề của tư duy: Tư duy chỉ nảy sinh trước tình huống có vấn đề,
tức là những tình huống chứa đựng mục đích mới, u cầu mới mà những kinh nghiệm
cũ không đủ sức giải quyết, những cái mà trước đó ta chưa biết. Đồng thời quá trình tư

9


duy cũng chỉ diễn ra khi cá nhân nhận thức được tình huống có vấn đề và có nhu cầu
giải quyết chúng. Như vậy, tư duy vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ
quan, đứng trước một tình huống có thể người này nảy sinh q trình tư duy, cịn
người khác thì khơng. Đặc biệt, cá nhân phải có những tri thức cần thiết liên quan đến
vấn đề đủ để có thể giải quyết được vấn đề sau những cố gắng nhất định.
- Tính gián tiếp của tư duy: Con người sử dụng ngôn ngữ để tư duy, nhờ có
ngơn ngữ mà con người sử dụng các kết quả nhận thức (quy tắc, cơng thức, định luật)
vào q trình tư duy để nhận thức được cái bên trong, bản chất của sự vật, hiện tượng.
Tính gián tiếp của tư duy cịn thể hiện ở chỗ: trong q trình tư duy con người sử dụng
những công cụ, phương tiện ( máy móc, đồng hồ, kính thiên văn...) để nhận thức đối
tượng mà không thể trực tiếp tri giác chúng. Nhờ có tính gián tiếp mà tư duy của con
người mở rộng giới hạn nhận thức của mình.
- Tính trừu tượng và khái quát của tư duy: Tư duy có khả năng trừu xuất khỏi sự
vật, hiện tượng những thuộc tính, dấu hiệu cá biệt, cụ thể, chỉ giữ lại những thuộc tính
bản chất, chung cho nhiều sự vật, hiện tượng. Trên cơ sở đó, mà khái quát những sự
vật, hiện tượng riêng lẻ nhưng có chung những thuộc tính bản chất thành một nhóm,

một loại, một phạm trù. Nhờ đó mà tư duy có thể đưa ra những quy tắc, phương pháp
giải quyết tương tự cho nhiều nhiệm vụ cùng loại.
- Tư duy có quan hệ chặt chẽ với ngơn ngữ: Phải có ngơn ngữ thì tư duy ở
người mới diễn ra, đồng thời các sản phẩm của tư duy cũng chỉ được chủ thể và người
khác tiếp nhận thông qua ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện của tư duy và nhờ tư
duy mà ngơn ngữ trở nên có ý nghĩa.
- Tư duy có mối quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính: Tư duy thường bắt
đầu từ nhận thức cảm tính, trên cơ sở nhận thức cảm tính mà nảy sinh "tình huống có
vấn đề ”. Nhận thức cảm tính cung cấp tài liệu cho tư duy. Ngược lại, tư duy và những
kết quả của nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức cảm tính, làm cho cảm giác của con
người tinh vi, nhạy bén hơn, tri giác mang tính lựa chọn, tính ý nghĩa.
+ Vai trị: Tư duy đã có khả năng mở rộng được giới hạn của hoạt động nhận
thức để đi sâu vào cái bản chất của đối tượng mà cảm tính khơng thể có được. Tư duy
sẽ giúp cho con người biết cách giải quyết được các nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Nó
có khả năng tìm ra cái bản chất, tính quy luật tác động của mọi sự vật, hiện tượng
trong thực tại và mối quan hệ phổ biến của chúng. Bên cạnh đó, tư duy có khả năng cải
tạo lại thơng tin do các q trình nhận thức cảm tính đem lại để phục vụ đắc lực cho
mọi hoạt động cũng như quan hệ của con người. Nhờ có tư duy, con người biết cách
nắm vững các quy luật của đối tượng, do vậy, hoạt động sẽ tiết kiệm được sức lực và
mang lại hiệu quả cao.
+ Phân loại tư duy
- Xét về phương diện lịch sử hình thành của lồi cũng như cá thể, người ta chia
nó ra thành ba loại: tư duy trực quan - hành động, tư duy trực quan - hình ảnh và tư
duy trừu tượng.
Tư duy trực quan - hành động được hiểu là loại hình suy nghĩ mà việc giải
quyết nhiệm vụ của nó sẽ diễn ra trong quá trình thực hiện các hành động trực quan

10



cụ thể. Loại hình tư duy này có cả ở người và động vật. Người lao động tay chân sử
dụng chủ yếu loại hình tư duy này.
Tư duy trực quan - hình ảnh được hiểu là loại hình suy nghĩ mà việc giải quyết
nhiệm vụ của nó sẽ thực hiện bằng sự cải tổ và chế biến các hình ảnh. Loại hình tư
duy này chỉ có ở người. Trong khi giải quyết các nhiệm vụ của hoạt động sáng tạo
nghệ thuật của nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ và nghệ sĩ chủ thể chủ yếu sẽ dùng
loại hình tư duy này.
Tư duy trừu tượng được hiểu là loại hình suy nghĩ mà việc giải quyết nhiệm vụ
của nó chỉ có thể dựa trên cơ sở khái niệm. Tư duy trừu tượng làm cơ sở tâm lý cho
mọi hoạt động lý luận và có quan hệ chặt với hai loại trên.
- Xét theo phương thức giải quyết vấn đề, người ta thấy có loại hình tư duy thực
hành, tư duy hình ảnh và tư duy lý luận. Ở tư duy thực hành thì phương thức giải
quyết vấn đề được thực hiện bằng chính các hoạt động thực tiễn. Ở tư duy hình ảnh
thì phương thức giải quyết vấn đề lại dựa hắn vào việc chế biến các hình ảnh đã có
sẵn do biểu tượng và tưởng tượng đem lại. Tư duy lí luận là tư duy bằng trí mà cấu
trúc tâm lý của nó được bao gồm các thành phần phản tư, khả năng phân tích và năng
lực hành động trên bình diện trí tuệ.
+ Tư duy là một quá trình: Tư duy bao giờ cũng xuất phát trước tình huống con
người phải giải quyết một vấn đề nào đó về nhận thức hay thực tiễn. Để giải quyết
được tình huống có vấn đề, chủ thể tư duy huy động vốn hiểu biết của mình để hình
thành các phương án giải quyết. Tính q trình của tư duy được xác định theo trình tự
sau:
Nhận thức vấn đề
Xuất hiện các liên tưởng
Sàng lọc liên tưởng
và hình thành giả thuyết
Kiểm tra giả thuyết
Chính xác hố

Khẳng định


Phủ định

Giải quyết vấn đề

Hành động tư duy
mới

Hình 1.1 :Sơ đồcác giai đoạn của quá trình tư duy
+ Các thao tác của tư duy: Thao tác tư duy được hiểu là các cử động trí óc mà
con người phải sử dụng với số năng lượng thần kinh nhất định để tiến hành giải quyết
bài toán và đi đến sản phẩm cuối cùng là khái niệm, quy luật, định luật, ngun lý,
định nghĩa, cơng thức vv... Có các thao tác tư duy như sau:

11


- Thao tác phân tích và tổng hợp: Phân tích là dùng trí óc để phân chia đối
tượng tư duy ra thành những thuộc tính, những bộ phận, những mối liên hệ, quan hệ
nhằm nhận thức được nó một cách sâu sắc. Tổng hợp là dùng trí óc để kết hợp, liên
kết nhiều bộ phận, nhiều mối quan hệ lại thành một thể thống nhất theo một hệ thống
- cấu trúc nhất định.
Phân tích và tổng hợp là hai thao tác tư duy trái ngược
nhau nhưng có mối liên quan mật thiết mới nhau. Chúng là hai mặt của một q trình
tư duy thống nhất. Sự phân tích là cơ sở của sự tổng hợp. Phân tích phải hướng vào
tổng hợp. Tổng hợp chỉ được diễn ra trên cơ sở đã có sự phân tích.
- So sánh: So sánh là dùng trí óc để đối chiếu các thuộc tính của các sự vật, hiện
tượng với nhau nhằm tìm ra được những đặc điểm giống, khác nhau cùng sự thống
nhất và đối lập của chúng. So sánh sẽ được thực hiện trên cơ sở của sự phân tích và
tổng hợp. Nhờ có các q trình so sánh mà học sinh có thể lĩnh hội được tài liệu học

tập với tất cả tính đa dạng và độc đáo của các dấu hiệu và các thuộc tính của nó để
làm hình thành nên những hình tượng phong phú, trong sáng, trực quan của nội dung
đang tìm hiểu. Đây là thao tác phổ biến của tư duy kinh nghiệm, giúp cho chúng ta
mở rộng được phạm vi nhận thức để có hiểu biết mới về các mối quan hệ của các đối
tượng. So sánh bao giờ cũng được diễn ra trong một mối quan hệ nhất định để hướng
về các mặt khác nhau của sự vật, hiện tượng như các dấu hiệu, các thuộc tính, các đặc
điểm thực tế như màu sắc, độ lớn, vận tốc, cấu tạo, công dụng.vv.. của chúng.
- Trừu tượng hoá và khái quát hoá: Trừu tượng hoá được hiểu là chủ thể dùng
trí óc để gạt bỏ trong cái đang nhận thức một số mặt, thuộc tính và quan hệ cụ thể
không cần thiết mà chỉ giữ lại những cái chung cần thiết cho việc giải quyết nhiệm vụ
của tư duy. Khái qt hố là dùng thao tác trí óc để tách cái chung, cái bản chất của
các các sự vật, hiện tượng, rồi tiến hành bao quát, kết hợp chúng lại. Cơ sở của sự khái
quát hoá là so sánh, phân tích, tổng hợp. Khái qt hố sẽ giúp cho chúng ta nhận thức
đầy đủ về những mối liên hệ có tính quy luật của hàng loạt sự vật, hiện tượng trong
hiện thực khách quan mà nhờ đó khái niệm được hình thành.
- Cụ thể hóa: Cụ thể hố được hiểu là q trình đưa các khái niệm, định luật
hoặc quy tắc khái quát, trừu tượng mà chủ thể đã lĩnh hội để ứng dụng vào thực tiễn
nhằm giải quyết những nhiệm vụ của tư duy.
Như vậy, để giải quyết các bài toán tư duy, chủ thể sẽ phải tiến hành một loạt
các tháo tác trí óc để suy nghĩ mà tìm ra cái chưa biết. Trong quá trình suy nghĩ, các
thao tác này ln ln được vận hành trong mối quan hệ qua lại và bổ sung cho nhau.
Mặt khác, kết quả của tư duy không chỉ phụ thuộc vào phương pháp suy nghĩ mà còn
bị quy định bởi vốn kinh nghiệm cũng như trình độ trí tuệ, động cơ, thái độ, tâm thế,
chất lượng của các tài liệu cảm tính, ý chí của chủ thể.
b) Tưởng tượng
+ Định nghĩa: Tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản ánh những cái
chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình
ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có.
+ Đặc điểm: 1) Về nội dung phản ánh: tưởng tượng phản ánh cái mới, những
cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân hoặc xã hội; 2) Về phương thức phản


12


ánh: tưởng tượng tạo ra cái mới từ các biểu tượng đã có nhờ phương thức chắp ghép,
liên hợp, nhấn mạnh, mô phỏng... ; 3) Về sản phẩm phản ánh: là những biểu tượng
mới được xây dựng từ các biểu tượng đã có (biểu tượng của trí nhớ); 4) Nguồn gốc
nảy sinh tưởng tượng: các tình huống có vấn đề mang tính bất định lớn. Tưởng tượng
là một q trình nhận thức lý tính, được thực hiện chủ yếu bằng hình ảnh nhưng vẫn
mang tính khái qt và gián tiếp; 5) Cơ sở sinh lý – thần kinh của tưởng tượng là sự
phân giải các hệ thống các đường liên hệ thần kinh tạm thời đã có để kết hợp lại thành
những hệ thống mới trên vỏ não; 6) Tưởng tượng có quan hệ chặt chẽ với nhận thức
cảm tính. Nó cũng có quan hệ chặt chẽ với ngơn ngữ và lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn.
+ Vai trò: Tưởng tượng cần thiết cho bất kỳ một hoạt động nào của con người,
nó cho phép ta hình dung trước kết quả của hoạt động cũng như tồn bộ q trình thực
hiện hoạt động đó. Tưởng tượng có khả năng tạo nên được hình mẫu tươi sáng, hồn
hảo mà con người hằng mong ước, vươn tới, có tính chất khích lệ và định hướng cho
toàn bộ đời sống của họ. Trong q trình nhận thức, tưởng tượng đóng một vai trị
quan trọng, giúp ta nhận thức được cái bản chất, các mối quan hệ quan hệ bên trong
của các sự vật, hiện tượng.
+ Các loại tưởng tượng
Căn cứ theo đặc điểm đặc trưng của tưởng tượng là tính tích cực và tính hiệu
lực, người ta đã chia ra thành: tưởng tượng tích cực, tưởng tượng tiêu cực, ước mơ và
lý tưởng.
- Tưởng tượng tích cực: Khi nào tưởng tượng tạo ra được những hình ảnh nhằm
đáp ứng những nhu cầu, kích thích tính tích cực thực tế của con người thì ở họ sẽ có
tưởng tượng tích cực. Tưởng tượng tích cực sẽ được bao gồm các loại tưởng tượng tái
tạo và sáng tạo. Khi tưởng tượng chỉ tạo ra được những hình ảnh mới đối với mình và
dựa trên cơ sở có sự mơ tả của người khác về đối tượng thì đó là tưởng tượng tái tạo.
Ví dụ như sự tưởng tượng của học sinh về những điều đã được mô tả trong sách giáo

khoa kỹ thuật học chuyên ngành... Tưởng tượng sáng tạo là quá trình xây dựng nên
những hình ảnh mới một cách độc lập. Những hình ảnh này mang tính chất hồn tồn
mới - cái mới thuần khiết đối với cả cá nhân lẫn với toàn xã hội. Biểu tượng của sự
tưởng tượng sáng tạo sẽ là một mặt không thể thiếu được của mọi sự phát minh và
sáng tạo kỹ thuật của nhà kỹ thuật.
- Tưởng tượng tiêu cực cũng sẽ có thể xảy ra một cách có chủ định nhưng
khơng gắn liền với ý chí để thể hiện những hình ảnh tưởng tượng đó ra trong đời sống
của chủ thể. Loại tưởng tượng tiêu cực này sẽ được gọi là sự mơ mộng. Nhưng nếu sự
tưởng tượng ở con người chủ yếu chỉ là sự mơ mộng thơi thì đó lại là một thiếu sót
trong sự phát triển của nhân cách. Thường, chúng ta cũng thấy rằng, ở những con người
ươn hèn, không dám tranh đấu cho một tương lai tốt đẹp hơn mà cuộc sống hiện tại lại rất
khó khăn, sầu thảm thì họ sẽ tạo ra cho mình một cuộc sống hão huyền. Ở trong các
hoang tưởng đó, họ sẽ giữ cái vị trí mà ở hiện tại họ khơng thể nào hy vọng có được.
Tưởng tượng tiêu cực cũng sẽ có thể được nẩy sinh một cách không chủ định.
Điều này chủ yếu xảy ra khi mà hoạt động của ý thức cũng như hệ thống tín hiệu thứ
hai của chủ thể đã bị suy yếu, khi con người họ ở vào tình trạng khơng hoạt động

13


cũng như trong giấc ngủ - chiêm bao - thôi miên, trạng thái nửa thức- nửa ngủ, xúc
động và những rối loạn bệnh lý của ý thức như ảo giác, hoang trưởng .v.v...
- Ước mơ và lý tưởng được xem như là hai loại tưởng tượng hướng về tương
lai. Ước mơ có điểm giống với tưởng tượng sáng tạo ở chỗ, nó cũng là một q trình
tạo ra những hình ảnh mới một cách độc lập. Nhưng chúng lại khác nhau ở chỗ, ước
mơ không hướng trực tiếp vào hoạt động trong hiện tại. Xét về tính chất của nó mà
nói, chúng ta thấy rằng có hai loại ước mơ có lợi và có hại. Uớc mơ chỉ có lợi khi nào
nó thúc đẩy cá nhân vươn lên, biến điều mơ ước của họ thành hiện thực.
Lý tưởng
có tính tích cực và hiện thực cao hơn ước mơ. Lý tưởng là một hình ảnh ngời chói, rực

sáng mà chủ thể tự xây dựng lấy, tự lựa chọn và phản ánh về cái tương lai cao đẹp mà
ta hằng mong muốn. Nó như một động cơ mạnh mẽ, thúc đẩy chúng ta vươn lên để
giành lấy cho bằng được cái cao đẹp đó trong tương lai.
+ Các cách sáng tạo hình ảnh mới trong tưởng tượng
- Làm thay đổi kích thước, số lượng của sự vật hay các thành phần của sự vật
để tạo ra hình ảnh mới. Những hình tượng về người khổng lồ, tý hon, Phật trăm mắt trăm tay.
- Nhấn mạnh các chi tiết hoặc thành phần và thuộc tính nào đó của sự vật để
tạo ra hình tượng mới. Đó là cách tạo ra hình ảnh mới bằng sự nhấn mạnh một cách
đặc biệt hoặc đưa lên hàng đầu một phẩm chất, một mối quan hệ nào đó của một sự
vật - hiện tượng này với những sự vật - hiện tượng kia. Một biến dạng của phương
pháp này là sự cường điệu. Ví dụ, các hình ảnh trong tranh biếm hoạ…
- Chắp ghép hay kết dính những thuộc tính của các đối tượng lại với nhau để
tạo ra hình ảnh mới. Đó là phương pháp thực thi thao tác chắp ghép các bộ phận
của nhiều sự vật - hiện tượng khác nhau lại thành một hình ảnh mới. Trong hình ảnh
mới, các bộ phận hợp thành vẫn giữ ngun, khơng bị chế biến, thay đổi. Ví dụ như
hình ảnh con rồng của Việt Nam, nàng tiên cá hay con nhân sư…
- Liên hợp những thuộc tính của các đối tượng với nhau để tạo ra hình ảnh
mới bằng cách liên hợp các bộ phận của nhiều sự vật khác nhau, trong đó các bộ phận
tạo nên hình ảnh mới đều được cải biến, sắp xếp trong tương quan mới. Phương pháp
này đã được các nhà sáng tạo kỹ thuật sử dụng nhiều để xây dựng nên các mơ hình
máy khi thiết kế ra các máy móc, cơng cụ, thiết bị kỹ thuật mới. Ví dụ thuỷ phi cơ
là kết quả của sự liên hợp giữa tầu bay với tầu thuỷ… Trong văn học - nghệ thuật, sự
điển hình hố được chúng ta coi là phương pháp tạo thành hình ảnh mới phức tạp
nhất.
- Loại suy cũng là một cách sáng tạo ra hình ảnh mới, đó là việc tạo ra hình ảnh
mới trên cơ sở mơ phỏng, bắt chước những chi tiết, những bộ phận, những sự vật có
thật. Từ buổi bình minh của lồi người, tổ tiên chúng ta đã biết sáng chế ra những cơng
cụ đơn giản nhất bằng cách tìm kiếm sự tương tự của những thao tác của đôi bàn tay
với những công cụ sẽ được tạo ra. Trước khi tạo ra các công cụ lao động thực, bằng
tưởng tượng, con người đã thấy trước được sự tương tự đó ở chính trong óc mình.

1.2.2. Trạng thái chú ý
a) Định nghĩa

14


Trong mơi trường xung quanh, ln ln có vơ vàn sự vật tác động mà sự quan
tâm của mỗi chúng ta lại khá đa dạng, có thể biến đổi theo thời gian và khơng gian. Vì
vậy, con người sẽ ln luôn phải chọn lựa sự vật để tập trung ý thức vào một đối tượng
hay thuộc tính nào đó của sự vật để tiến hành tốt hoạt động phản ánh của mình. Lúc
đó, ở ta đã có một hiện tượng tâm lý đặc biệt được gọi là chú ý.
Chú ý là sự tập trung của ý thức của chủ thể vào một đối tượng, sự vật...
để định hướng cho hoạt động nhằm đảm bảo những điều kiện thần kinh - tâm lý
cần thiết cho nó được tiến hành phản ánh có kết quả.
Như vậy, chú ý ln đi kèm với quá trình nhận thức, giúp cho chủ thể phản ánh
sâu sắc giới khách quan.
b) Các loại chú ý
Có loại chú ý chủ yếu do các tác động bên ngoài gây ra - chú ý khơng chủ định.
Có loại chú ý chủ yếu lại do bản thân ta chủ động tạo nên - chú ý có chủ định.
+ Chú ý khơng chủ định sẽ có thể được xuất hiện là tuỳ thuộc vào một số đặc
điểm của kích thích như sự mới lạ, tác động mạnh và hấp dẫn. Khả năng chú ý của con
người luôn luôn phụ thuộc vào cường độ kích thích của vật. Theo quy luật của cường
độ tác động đối với hoạt động thần kinh thì kích thích càng mạnh, hưng phấn do nó
gây ra sẽ càng lớn. Do vậy, nó sẽ dễ dàng tạo ra cho chủ thể khả năng chú ý không chủ
định. Nhưng nếu kích thích mà quá mạnh, chúng sẽ thường làm xảy ra ở chủ thể
những phản ứng đau như chói tai, chói mắt.v.v...
+ Chú ý có chủ định là sự định hướng hoạt động do bản thân chủ thể tự đặt ra.
Khi bản thân đã xác định rõ mục đích hành động để khơng bị tuỳ thuộc vào đối tượng
kích thích có mới lạ hay quen thuộc, có cường độ mạnh hay yếu, hấp dẫn hay không
mà chúng ta vẫn sẽ tập trung hoàn toàn được ý thức vào đối tượng, sự vật. Điều đó đã

biểu thị khả năng của chủ thể duy trì ý thức để đạt mục tiêu của chú ý.
c) Các phẩm chất của chú ý
+ Sức tập trung của chú ý: Ở mỗi một thời điểm, trong số nhiều tác động, người
ta sẽ có khả năng tách một phạm vi có hạn của thực tại làm thành đối tượng của chú ý
để tập trung ý thức, sự chú ý của mình vào đó mà tiến hành hoạt động cần thiết. Số
lượng các đối tượng mà ta tập trung ý thức vào để phân tích được gọi là khối lượng
chú ý. Khối lượng này được chúng ta xác định là hoàn toàn tuỳ thuộc vào đặc điểm
của đối tượng cũng như vào nhiệm vụ và nội dung của hoạt động.
+ Sự phân phối của chú ý: Năng lực của chủ thể biết duy trì sự chú ý một cách
đầy đủ đến nhiều đối tượng khác nhau trong cùng một thời gian xác định biểu hiện sự
phân phối của chú ý. Cường độ của chú ý là một phẩm chất tâm lý nói lên rằng trong
một khoảng thời gian nhất định, chủ thể hồn tồn có khả năng duy trì đồng thời
những sức mạnh của sự định hướng vào một đối tượng. Cường độ này có thể diễn ra
mạnh hoặc yếu.
+ Tính bền vững của chú ý: Sự bền vững của chú ý là một thuộc tính biểu thị
khả năng duy trì tính lâu dài của chú ý vào một hoặc một số đối tượng của hoạt động.
Hiện tượng tâm lý ngược với sự bền vững của chú ý là sự phá vỡ chú ý. Sự phân tán

15


chú ý của con người sẽ được diễn ra theo chu kỳ. Trong đời sống tâm lý có sự xen kẽ
giữa tính bền vững và phân tán chú ý được chúng ta gọi là sự dao động của chú ý.
- Sự di chuyển của chú ý: Sự di chuyển chú ý sẽ biểu hiện ra hiện tượng chấm
dứt sự chú ý tới đối tượng này để chuyển sang đối tượng kia nhằm kịp thời chuẩn bị
ý thức, phục vụ cho việc giải quyết một nhiệm vụ khác của hoạt động mới. Ví dụ,
trẻ phải mau chóng chấm dứt "dư âm" của mình về một câu chuyện nào đó khi giải
lao sang suy nghĩ để giải quyết nhiệm vụ học tập xác định trong giờ học.
Các đặc điểm trên của chú ý đều thể hiện vai trò nhất định của ý thức đối với
hoạt động. Chúng giữ vai trị tích cực trong việc giúp cho hoạt động này hay hoạt

động khác được tiến hành tốt. Chú ý có mang tính tích cực hay không sẽ bị phụ
thuộc vào chỗ, chúng ta đã biết sử dụng, phối hợp các đặc điểm ấy như thế nào.
1.3. Ý CHÍ VÀ HÀNH ĐỘNG Ý CHÍ
1.3.1. Ý chí
a) Khái niệm
Ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những
hành động có mục đích, địi hỏi phải có sự nỗ lực để khắc phục khó khăn và kiên
trì thực hiện mục đích đó.
Ý chí ln ln phản ánh mục đích của hành động và do các điều kiện của hiện
thực khách quan quy định. Ý chí của con người khơng tự có mà chỉ được hình thành,
phát triển trong q trình hoạt động, trong cuộc sống. Mỗi khi con người nỗ lực, cố
gắng để thực hiện hoạt động nào đó, để đạt mục đích nào đó thì ý chí của họ lại được
rèn luyện, phát triển. Ý chí gắn liền với trình độ trí tuệ và tình cảm, vì vậy phải ln
trau dồi trí tuệ và xây dựng những tình cảm tốt đẹp để có khả năng vượt qua khó khăn
thực hiện được những mục đích lớn lao, tốt đẹp.
b) Các phẩm chất của ý chí
+ Tính mục đích
+ Tính độc lập
+ Tính quyết đốn
+ Tính kiên cường (bèn bỉ, kiên trì
+ Tính tự chủ
1.3.2. Hành động ý chí
a) Khái niệm
Hành động ý chí là loại hành động được hướng vào những mục đích mà
việc đạt tới chúng địi hỏi chủ thể phải có sự khắc phục những trở ngại. Do đó,
trong tiến trình thực hiện hành động, chủ thể phải có sự hoạt động tích cực của tư
duy và những nỗ lực ý chí đặc biệt. Hành động ý chí ln có vai trị rất quan trọng
trong cuộc sống của con người. Khơng có nó, con người sẽ khơng có bất cứ một hoạt
động nào.
b) Hành động tự động hoá


16


Hoạt động của con người khơng chỉ có các hành động ý chí mà cịn có một loạt
hành động khác để phối hợp, hỗ trợ cho hành động ý chí, đó là hành động tự động hố.
+ Định nghĩa: Hành động tự động hoá là loại hành động mà vốn lúc đầu
đều là những hành động có ý thức, có ý chí, nhưng do được lặp đi, lặp lại hay
luyện tập nhiều lần mà về sau, chúng đã được trở thành những hành động tự
động hố. Nghĩa là khơng cần có sự kiểm sốt trực tiếp của ý thức mà hành động vẫn
được thực hiện có kết quả. Ví như, khi mới học đan len thì việc đan là một hành động
có ý thức. Nhưng khi việc đan đã thành thạo rồi, nó sẽ trở thành một hành động tự
động hố đến mức chủ thể sẽ có thể vừa đọc truyện, vừa đan len được.
+ Các loại hành động tự động hóa: gồm kỹ xảo và thói quen.
- Kỹ xảo: là loại hành động đã được tự động hoá một cách có ý thức của chủ
thể. Nghĩa là nó đã được tự động hoá nhờ luyện tập. Hành động kỹ xảo có những đặc
điểm như sau: 1) Khơng có sự kiểm sốt thường xun của ý thức và khơng cần sự
kiểm tra bằng thị giác một cách trực tiếp mà hành động vẫn thực hiện có hiệu quả, ít
tốn thời gian và năng lượng. 2) Thao tác được chủ thể thực hiện mang tính chất khái
qt, khơng có động tác thừa, kết quả cao mà ít tốn năng lượng thần kinh và bắp thịt
nhất.
Kỹ xảo sẽ được hình thành trên cơ sở những kỹ xảo cũ và kỹ năng sơ đẳng do
luyện tập. Nó do ở chủ thể có sự lặp đi, lặp lại một cách có hệ thống, có mục đích để
hồn thiện hành động bằng cách lĩnh hội các thủ thuật làm việc ngày càng có hiệu quả
hơn. Có nhiều loại kỹ xảo khác nhau, khi xem xét tuỳ theo nội dung của nó tham gia
vào loại hoạt động như kỹ xảo học tập, kỹ xảo lao động sản xuất, kỹ xảo thể thao...
- Thói quen: được coi là loại hành động tự động hoá đã trở thành nhu cầu của
con người. Ở mỗi người chúng ta đều có những thói quen nhất định đã được tạo thành
trong q trình sống của mình. Có thói quen được tn thủ chặt chẽ chế độ lao động và
nghỉ ngơi trong sinh hoạt hàng ngày như thói quen dọn dẹp sạch sẽ nơi làm việc sau

khi thơi việc, thói quen đối xử niềm nở với mọi người khi tiếp xúc.
Tuy cũng là hành động tự động hóa, song thói quen có những đặc điểm khác kỹ
xảo:
1) Kỹ xảo được coi là hành động tự động hố mang tính chất kỹ thuật thuần t.
Cịn thói quen lại mang tính chất nhu cầu, được gắn chặt với nếp sống của con người.
2) Con đường hình thành chủ yếu của kỹ xảo là sự luyện tập có mục đích và có hệ
thống của chủ thể. Cịn thói quen lại được hình thành bằng nhiều con đường khác nhau, trong
đó, có sự tự phát, sự thuần thục các hành động có liên quan tới nhu cầu của chính chủ thể.
3) Kỹ xảo khơng gắn với tình huống nhất định. Cịn thói quen bao giờ cũng gắn
với một tình huống nhất định của cuộc sống, hoạt động và giao tiếp của chủ thể.
4) Thói quen sẽ được đánh giá về mặt đạo đức. Xét về tính chất, có thói quen
tốt, thói quen xấu, thói quen có lợi, thói quen có hại. Kỹ xảo lại khơng được con người
đánh giá về mặt đạo đức mà chỉ được xem xét về mặt kỹ thuật của thao tác. Có loại kỹ
xảo mới, tiến bộ và có kỹ xảo cũ, lỗi thời, lạc hậu. Kỹ xảo của chủ thể sẽ được xem xét
qua các chỉ số cơ bản như tính hợp lý, tính liên tục và tính khái quát của thao tác.

17


Trong cuộc sống sẽ có những hành động vừa là thói quen vừa là kĩ xảo. Nhưng
trong thực tiễn, khơng phải bao giờ cũng có sự trùng hợp đó. Trong giáo dục, cần phải
làm cho những hành động trong lĩnh vực học tập, lao động, rèn luyện thể lực, sinh hoạt
của học sinh vừa là kỹ xảo, vừa là thói quen. Nếu giáo dục mà khơng hình thành được
thói quen cho học sinh thì cũng giống như việc xây dựng một tồ lâu đài trên cát vậy.
+ Quy luật hình thành kỹ xảo
- Quy luật về sự tiến bộ không đồng đều của kỹ xảo: Trong quá trình luyện tập
để có kỹ xảo, kết quả hành động của chủ thể sẽ không đồng đều, thể hiện ra ở lúc tiến
bộ nhanh, lúc tiến bộ chậm. Kết quả thu được trong quá trình luyện tập kỹ xảo của chủ
thể đã ghi thành đồ thị mà chúng ta gọi là đường cong luyện tập. Có hai dạng của
đường cong luyện tập rõ rệt.

700
80

600

70

500
400
300
200

60
50
40
30
20

a

100
(Ngày
)

b

(Ngày
cong )luyện

Hình1.2: Đường

tập
Ở hình (a), ta thấy trong giai đoạn đầu, đường cong được nâng cao nhanh hơn
so với giai đoạn kết thúc. Nghĩa là giai đoạn đầu của sự luyện tập đã mang lại kết quả
rõ rệt hơn ở chủ thể so với giai đoạn sau. Lúc đầu, chủ thể phải có năng lực sử dụng
những tri thức, kỹ xảo đã có cùng những thủ thuật làm việc riêng lẻ đã biết để thực
hiện thao - động tác mới. Nhưng khi kinh nghiệm cũ đã được chủ thể sử dụng hết thì
họ sẽ bắt đầu phải lĩnh hội các thủ thuật mới cũng như sẽ phải tự tìm kiếm lấy các
phương thức hành động mới. Do đó, ở giai đoạn sau của sự luyện tập kỹ xảo, ở chủ thể
nhịp độ tiến bộ sẽ được diễn ra chậm hơn. Ở hình (b), chúng ta lại gặp một kiểu đường
cong luyện tập khác của việc hình thành kỹ xảo. Nhịp độ tiến bộ ở chủ thể trong giai
đoạn đầu sẽ được diễn ra chậm chạp nhưng ở giai đoạn sau lại nhanh hơn lên. Loại
hình đường cong nàythể hiện những đặc trưng cho các kỹ xảo phức tạp mà việc nắm
vững nó địi hỏi chủ thể phải có sự phân tích cẩn thận các điều kiện cụ thể cũng như sự
chuẩn bị, óc quan sát tinh tế và sự nhanh trí. Vì vậy, sự tiến bộ trong giai đoạn đầu của
việc luyện tập của chủ thể sẽ diễn ra khá chậm chạp. Loại hình đường cong này cũng
hay thường gặp ở tiến trình luyện tập của những người ngay từ đầu đã khơng có được
hứng thú với kỹ xảo mà mình phải luyện tập.
Quy luật này cho ta thấy, kết quả của q trình luyện thành kỹ xảo khơng chỉ
phụ thuộc vào số lần lặp đi - lặp lại mà còn phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan khác như sự giảm sút về chất lượng của nguyên liệu, phương tiện,
công cụ lao động, sự ảnh hưởng của những người lạ, sự mệt mỏi, những cảm xúc âm
tính .v.v... của chủ thể.

18


- Quy luật "đỉnh" của phương pháp luyện tập: Mỗi phương pháp luyện tập để có
kỹ xảo chỉ đem lại một kết quả cao nhất đối với nó, kết quả đó được gọi là "đỉnh" của
phương pháp ấy. Muốn đạt được những kết quả cao hơn, người ta phải thay đổi các
phương pháp luyện tập, sử dụng các phương pháp có "đỉnh" cao hơn.

- Quy luật tác động qua lại giữa các kỹ xảo: Trong quá trình luyện tập để hình
thành nên kỹ xảo mới, những kỹ xảo cũ đã có ở người học sẽ có những ảnh hưởng rõ
rệt đến chất lượng của chúng. Sự ảnh hưởng này có thể là tốt hoặc xấu.
Do quy luật này quy định mà chúng ta cần phải chú ý tìm hiểu và tính đến
những đặc trưng cơ bản của kỹ xảo đã có ở học sinh trước khi luyện tập cho các em
những kỹ xảo mới. Như vậy, chúng ta mới tận dụng được hết ảnh hưởng tốt hoặc làm
hạn chế những ảnh hưởng xấu của chúng đối việc hình thành kỹ xảo mới.
- Quy luật dập tắt kỹ xảo: Một kỹ xảo đã được hình thành ở chủ thể nếu khơng
được sử dụng thường xuyên thì sẽ bị suy yếu và cuối cùng có thể bị mất hẳn. Đó là
biểu hiện của sự dập tắt của kỹ xảo. Ví dụ như đã có một ngoại ngữ nào đó mà chủ thể
khơng sử dụng thường xun thì khả năng sử dụng nó sẽ bị mai một đi ở một mức độ
nào đó. Ngồi ra, chúng ta cịn thấy có sự dập tắt kỹ xảo tạm thời khi con người có
những xúc động mạnh mẽ hay bị mệt mỏi. Quy luật này cho ta thấy rõ tầm quan trọng
của việc tổ chức cho học sinh ơn luyện thường xun, liên tục và có hệ thống trong
học tập kỹ thuật - nghề nghiệp.
+ Con đường hình thành kỹ xảo và thói quen
Kỹ xảo được hình thành thơng qua con đường luyện tập. Cịn thói quen lại được
hình thành bằng nhiều con đường khác nhau. Đó có thể là sự lặp đi - lặp lại một cách
đơn giản các cử động và hành động không chủ định được sinh ra trong những trạng
thái tâm lý nhất định của con người. Chẳng hạn như, có những con người hay dùng
những ngón tay để "gõ trống" trên mặt bàn mỗi khi đang sốt ruột. Có người lại hay
nhắm mắt lại khi đang ở tâm trạng lo lắng .v.v... Những thói quen đi, đứng, ngồi.v.v...
khơng đúng đắn cũng sẽ được nảy sinh do sự lặp đi, lặp lại nhiều lần một cách không
chủ định những hành động không có tính chuẩn mực. Có những thói quen được nẩy
sinh bằng con đường bắt chước. Ví dụ, để bắt chước người lớn, trẻ em tập hút thuốc lá.
Dần dần, sự hút thuốc đã trở thành một thói quen có hại ở các em. Thói quen cũng
có thể được hình thành do chủ thể có sự giáo dục và tự giáo dục một cách có mục đích.
Để có thể giáo dục các thói quen tốt có kết quả, chúng ta cần chú ý đến các điều
kiện cơ bản sau đây: 1) Phải làm cho học sinh tin tưởng vào sự cần thiết phải có thói
quen ấy; 2) Tổ chức được những điều kiện khách quan góp phần thúc đẩy sự hình

thành những thói quen nhất định trong thực tế của mơi trường giáo dục - đào tạo kỹ
thuật - nghề nghiệp; 3) Phải có sự kiểm sốt của tự ý thức của chủ thể đối với việc
thực hiện nghiêm chỉnh các hành động cần phải chuyển thành thói quen; 4) Đấu tranh
tích cực chống lại thói quen xấu hoặc có hại có thể nẩy sinh ở học sinh một cách tự
phát hay do bắt chước người khác; 5) Củng cố những thói quen tốt đang hình thành ở
học sinh bằng những cảm xúc dương tính qua sự khích lệ, khuyến khích, động viên
của giáo viên.

19


1.4. ĐỜI SỐNG TÌNH CẢM
1.4.1. Khái niệm
+ Định nghĩa
- Xúc cảm là những rung cảm biểu thị thái độ của con người đối với sự vật,
hiện tượng và con người có liên quan đến nhu cầu của cá nhân.
- Tình cảm là những xúc cảm biểu thị thái độ ổn định của con người. Hệ
thống những xúc cảm cùng loại được khái quát và tổng hợp tạo thành tình cảm.
+ Phân biệt xúc cảm - tình cảm
Xúc cảm - tình cảm có những biểu hiện giống nhau như sau: 1) Nó do sự tác
động của những đối tượng và hiện tượng trong hiện thực khách quan vào não chủ
thể mà có; 2) Nó là sự biểu thị thái độ của chủ thể với đối tượng, sự vật, hiện tượng
trong hiện thực khách quan có liên quan đến sự thoả mãn hay khơng thoả mãn nhu
cầu của họ; 3) Nó mang tính lịch sử - xã hội trong nội dung và hình thức biểu hiện.
Xúc cảm và tình cảm được phân biệt như sau:
Xúc cảm

Tình cảm

- Có cả ở động vật và người


- Chỉ có ở người

- Là một q tình tâm lý

- Là một thuộc tính tâm lý cá nhân

- Có tính chất nhất thời, đa dạng, phụ - Có tính chất xác định và ổn định
thuộc vào tình huống
- ở trạng thái hiện thực

- ở trạng thái tiềm tàng

- Xuất hiện trước

- Có sau trên cơ sở của sự tổng hợp
hố, khái qt hố và động hình hố
các cảm xúc đồng loại mà thành

- Thực hiện chức năng sinh vật - Chức năng xã hội để định hướng,
để định hướng, thích ứng như là một
thích nghi như là một nhân cách
cá thể
- Gắn với phản xạ không điều kiện, bản - Gắn với phản xạ có điều kiện, động
năng
hình, hệ thống tín hiệu thứ hai
Bảng 1.1. So sánh xúc cảm và tình cảm
Xúc cảm là cơ sở, là tiền đề tâm lý để hình thành tình cảm. Tình cảm là kết quả của sự
khái quát hoá, tổng hợp hoá và động hình hố các cảm xúc đồng loại mà thành. Một
khi đã được hình thành, tình cảm sẽ chi phối nội dung và hình thức biểu hiện của cảm

xúc. Đời sống tình cảm của chủ thể cũng sẽ được phát triển dưới ảnh hưởng của các
tác động của tư duy và ý thức con người.
1.4.2.Các mức độ tình cảm
a) Màu sắc xúc cảm của cảm giác

20


Đây là mức độ thấp nhất của phản ánh cảm xúc. Nó là một sắc thái của cảm xúc
đi kèm theo q trình cảm giác. Ví dụ: cảm giác về màu xanh gây cho ta cảm xúc dễ
chịu, cảm giác về màu đỏ gây cho ta cảm xúc rạo rực, nhức nhối. Màu sắc xúc cảm
của cảm giác mang tính nhất thời, không mạnh mẽ và không được chủ thể ý thức một
cách rõ ràng, đầy đủ.
b) Xúc cảm
Đó là những rung cảm xảy ra nhanh chóng nhưng mạnh mẽ và rõ rệt hơn so với
màu sắc xúc cảm của cảm giác. Nó mang tính khái qt hơn và được chủ thể ý thức rõ
hơn so với màu sắc xúc cảm của cảm giác.
c) Xúc động và tâm trạng
+ Xúc động: Là một dạng xúc cảm có cường độ rất mạnh, xảy ra trong thời gian
tương đối ngắn. Khi xảy ra xúc động, con người thường không làm chủ được bản thân,
không ý thức được hậu quả hành động của mình.
+ Tâm trạng: Là một dạng xúc cảm có cường độ vừa phải hoặc tương đối yếu,
tồn tại trong khoảng thời gian tương đối lâu dài. Tâm trạng là một trạng thái xúc cảm
bao trùm lên toàn bộ hoạt động của con người, ảnh hưởng đến cuộc sống của con
người trong thời gian tương đối dài.
Stress là một trạng thái căng thẳng đặc biệt của xúc cảm, thường nảy sinh trong
những tình huống nguy hiểm, những tình huống phải chịu đựng nặng nhọc về thể lực
và tinh thần hoặc trong điều kiện phải quyết định những hành động nhanh chóng và
trọng yếu. Stress có thể ảnh hưởng tốt hoặc khơng tốt đến hoạt động, cuộc sống của
con người.

d) Tình cảm
Tình cảm là thái độ ổn định của con người đối với hiện thực và đối với bản
thân, nó là thuộc tính tâm lý ổn định của nhân cách. Tình cảm có tính khái qt hơn,
ổn định hơn và được chủ thể ý thức rõ ràng hơn các mức độ trên. Trong tình cảm có
một loại đặc biệt, có cường độ rất mạnh, thời gian tồn tại lâu dài và được ý thức rõ
ràng, đó là sự say mê. Có những say mê tích cực và những say mê tiêu cực.
1.4.3. Các quy luật của đời sống tình cảm
a) Quy luật lây lan
+ Nội dung: Xúc cảm, tình cảm của con người có thể lan, truyền từ người này
sang người khác. Hiện tượng "vui lây", "buồn lây", "đồng cảm" là những biểu hiện của
quy luật này. Nền tảng của quy luật này là tính xã hội trong tình cảm của con người.
+ Ý nghĩa: Quy luật này có ý nghĩa to lớn trong các hoạt động tập thể của con
người.
b) Quy luật thích ứng tình cảm
+ Nội dung: Một xúc cảm, tình cảm nào đó nếu được lặp đi lặp lại một cách
khơng thay đổi (đơn điệu) thì đến một lúc nào đó nó sẽ bị suy yếu, lắng xuống. Đó là
hiện tượng "chai dạn" của tình cảm. Ví dụ: “xa thương, gần thường”.
+ Ý nghĩa: Quy luật này có thể giúp con người thích ứng, dày dạn trước khó
khăn, thử thách của cuộc sống, làm mất tính nhát nhát, rụt rè. Tuy nhiên, phải chú ý
đến mặt trái của quy luật: con người “quen dần” với những tình cảm tiêu cực.

21


c) Quy luật cảm ứng (tương phản)
+ Nội dung: Trong quá trình hình thành hoặc biểu hiện tình cảm, sự xuất hiện
hay suy yếu đi của một xúc cảm, tình cảm này có thể làm tăng hoặc giảm một xúc
cảm, tình cảm khác xảy ra đồng thời hoặc nối tiếp nó.
+ Ý nghĩa: Trong văn học nghệ thuật, người ta sử dụng quy luật này để xây
dựng nhân vật chính diện, phản diện. Trong giáo dục tư tưởng, tình cảm, quy luật này

rất có ý nghĩa, ví như “ơn cố, tri tân”.
d) Quy luật di chuyển tình cảm
+ Nội dung: Xúc cảm, tình cảm của con người có thể di chuyển từ đối tượng
này sang đối tượng khác. Ví dụ: "giận cá chém thớt", "vơ đũa cả nắm"
+ Ý nghĩa: Quy luật này nhắc nhở chúng ta phải chú ý kiểm sốt thái độ, tình
cảm của mình, làm cho nó mang tính có chọn lọc, tránh tình cảm "tràn lan", khơng
đúng đối tượng.
e) Quy luật pha trộn tình cảm
+ Nội dung: Trong đời sống tình cảm của con người nhiều khi hai xúc cảm, tình
cảm đối cực nhau cùng xảy ra. Chúng khơng loại trừ nhau mà cịn quy định lẫn nhau.
Ví dụ: "giận mà thương", "ghen".
+ Ý nghĩa: Quy luật này cho ta thấy sự phức tạp, nhiều khi mâu thuẫn của đời
sống tình cảm con người, nó cũng phản ánh sự phức tạp, mâu thuẫn trong hiện thực
khách quan.
g) Quy luật về sự hình thành tình cảm
+ Nội dung: Tình cảm được hình thành từ sự tổng hợp hố, động hình hố, khái
qt hố những xúc cảm cùng loại. Tình cảm được xây dựng từ những xúc cảm, nhưng
khi đã được hình thành thì tình cảm lại thể hiện qua các xúc cảm và chi phối các xúc
cảm. Ví dụ: sự hình thành tình cảm mẹ con, tình yêu nước.
" Năng mưa thì giếng năng đầy
Anh năng đi lại, mẹ thầy năng thương”
+ Ý nghĩa: Muốn hình thành những tình cảm tích cực phải xây dựng những xúc
cảm tích cực.
1.5. NHÂN CÁCH
1.5.1. Khái niệm chung
a) Định nghĩa
Con người là một thực thể tự nhiên – xã hội và văn hố. Con người có lao động,
ngơn ngữ, có ý thức.
Cá nhân chỉ một con người với tư cách đại diện lồi người, là một thành viên
của xã hội.

Cá tính chỉ cái độc đáo không lặp lại về những đặc điểm tâm lý và sinh lý của
mỗi cá nhân. Khi cá nhân thực hiện một hoạt động nhất định một cách có ý thức, có
mục đích thì được gọi là chủ thể.
Nhân cách: Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý biểu hiện bản sắc
và quy định giá trị xã hội của cá nhân.
b) Đặc điểm của nhân cách

22


Nhân cách là cấu trúc tâm lý ổn định, thống nhất, mang tính tích cực và tính
giao lưu. Vì vậy, người ta thường nói tới 4 đặc điểm cơ bản của nhân cách:
+Tính thống nhất
+ Tính ổn định của nhân cách
+ Tính tích cực của nhân cách
+ Tính giao lưu của nhân cách
1.5.2. Cấu trúc của nhân cách
a) Cấu trúc 4 thành phần. Khi phân tích cấu trúc của nhân cách, người ta
thường xác định có 4 thành phần, gồm xu hướng, năng lực, tính cách và khí chất.
+ Xu hướng của nhân cách
- Định nghĩa: Xu hướng là ý định của chủ thể hướng tới đối tượng có ý nghĩa to
lớn hoặc mục tiêu cao đẹp nào đó trong một thời gian lâu dài của cuộc đời và nó có tác
dụng kích thích họ vươn tới để đạt cho bằng được cái đó.
Xu hướng cá nhân có vai trị rất lớn, có tác dụng quy định cuộc sống - hoạt động quan hệ của chủ thể. Nó được coi như là một loại động cơ thúc đẩy hoạt động mà nội
dung của nó sẽ hồn tồn tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức và tính chất của tình cảm ở họ.
Đồng thời, xu hướng của cá nhân có thể sẽ được thay đổi và điều chỉnh ở một mức độ nào
đó là hồn tồn lệ thuộc vào trình độ nhận thức, mức độ của tình cảm, tầm cao của nhân
cách cùng ý chí cao cả, mạnh mẽ của họ trong mơi trường văn hố - kinh tế - xã hội.
- Các mức độ của xu hướng
1) Nhu cầu: là những đòi hỏi tất yếu của cơ thể cần phải được thoả mãn mới

đảm bảo cho con người tồn tại và phát triển. Nội dung và phương thức thoả mãn nhu
cầu sẽ thể hiện rõ trình độ của nhân cách. Nhu cầu của con người mang đậm nét tính
xã hội - lịch sử. Trong cuộc sống của chủ thể, khi nhu cầu nào đó đã được đáp ứng
thì ngay tức khắc, ở họ sẽ lại xuất hiện một nhu cầu mới, cao hơn. Ở con người có
loại nhu cầu về vật chất (ăn, mặc, ở, tình dục...) và nhu cầu tinh thần (trí tuệ, thẩm
mỹ, đạo đức, kỹ thuật...). Nhu cầu được coi là nguồn gốc của tính tích cực của chủ
thể, có tác dụng làm cơ sở tâm lý cho sự nảy sinh ra động cơ hoạt động. Trong các
quá trình sư phạm kỹ thuật, chúng ta cần chú ý giáo dục nhu cầu kỹ thuật cho học
sinh.
2) Hứng thú: là sự hấp dẫn của đối tượng với chủ thể mà nó có khả năng mang
lại cho họ những khối cảm đặc biệt. Do vậy, họ sẽ ln vươn tới để đạt được nó bằng
hành động tích cực, có ý thức và tình cảm mạnh của mình. Hứng thú của con người
mang nội dung xã hội - lịch sử và có sự khác biệt nhau theo trình độ của từng nhân
cách. Hứng thú kỹ thuật được coi là điều kiện tâm lý thiết yếu của hoạt động học tập
và sáng tạo kỹ thuật.
3) Thế giới quan, lý tưởng và niềm tin: Thế giới quan là quan điểm riêng của cá
nhân về thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Lý tưởng là những hình tượng cao đẹp, ngời
chói trong hiện thực được chủ thể lựa chọn hoặc tự xây dựng lấy từ những kiểu mẫu
ngời chói và do đó, nó sẽ có tác dụng kích thích họ vươn tới để đạt cho bằng được nó
trong thời gian lâu dài của cuộc đời. Lý tưởng được coi là cái mà vì nó người ta sống hoạt động - quan hệ và dưới ánh sáng của nó, người ta sẽ hiểu được ý nghĩa của cuộc

23


đời. Niềm tin là sự thừa nhận tính đúng đắn của quan điểm đánh giá của chủ thể về đối
tượng, hiện tượng theo những định hướng giá trị xác định. Niềm tin có vai trị to lớn
trong việc xác định thái độ của chủ thể đối với cuộc sống, hoạt động và quan hệ xã hội.
+ Năng lực
- Định nghĩa: Năng lực là tổ hợp các thuộc tính tâm lý cá nhân của nhân cách, đáp
ứng các yêu cầu của hoạt động và giúp cho họ đạt được kết quả cao trong khi thực hiện

nhiệm vụ của hoạt động đó.
- Các mức độ năng lực: Năng lực ở chủ thể một khi đã phát triển sẽ được biểu
hiện ở mức độ có năng lực, tài năng và thiên tài. Ở chủ thể nào cũng có được năng lực
thực hiện hoạt động, quan hệ. Mọi chủ thể nào biết cách kiên trì, tích cực, bền bỉ và
ngoan cường trong việc thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện đều sẽ có được tài năng.
Thiên tài là khái niệm dùng để chỉ mức độ cao nhất, kiệt xuất, có một khơng hai trong
lịch sử trên một lĩnh vực hoạt động - quan hệ của một chủ thể nhất định.
- Năng lực có thể chia làm hai loại: Năng lực chung và năng lực riêng biệt
1) Năng lực chung là năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau,
chẳng hạn những thuộc tính về thể lực, trí tuệ (quan sát, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng, ngơn
ngữ) là những điều kiện cần thiết giúp cho nhiều lĩnh vực hoạt động có kết quả.
2) Năng lực riêng biệt: (năng lực chuyên mơn) là sự kết hợp độc đáo các thuộc
tính chun biệt đáp ứng yêu cầu của một lĩnh vực hoạt động chuyên môn và là điều
kiện cho cho hoạt động này đạt kết quả cao, chẳng hạn như năng lực toán học, năng
lực thơ văn, hội hoạ, âm nhạc, sư phạm, năng lực thực hành nghề, ....
Hai loại năng lực chung và năng lực chun biệt ln có sự bổ sung hỗ trợ cho nhau.
- Mối quan hệ của năng lực với tư chất, thiên hướng và tri thức, kỹ năng
1) Năng lực và tư chất: Tư chất là những đặc điểm riêng của cá nhân về giải
phẫu sinh lí bẩm sinh của não bộ, của hệ thần kinh, của cơ quan phân tích, cơ quan vận
động tạo ra sự khác biệt giữa con người với nhau. Tư chất là tiền đề của sự phát triển
NL. Tư chất có ảnh hưởng tới tốc độ, chiều hướng và đỉnh cao phát triển năng lực. Tuy
vậy không thể suy ra trực tiếp rằng năng lực khác nhau là do tư chất khác nhau quyết
định. Các đặc điểm bẩm sinh, di truyền có được bảo tồn và thể hiện ở thế hệ sau hay
khong và thể hiện ở mức độ nào, điều đó hoàn toàn do hoàn cảnh sống quyết định.
Như vậy tư chất là một trong những điều kiện hình thành năng lực, nhưng tư chất
không quy định trước sự phát triển của năng lực. Trên cơ sở của tư chất nào đó, có thể
hình thành những năng lực rất khác nhau.
2) Năng lực và thiên hướng: Khuynh hướng của cá nhân đối với một hoạt động
nào đó được gọi là thiên hướng. Thiên hướng về một loại hoạt động nào đó và năng
lực đối với hoạt động ấy thường ăn khớp với nhau và cùng phát triển với nhau. Thiên

hướng mãnh liệt của con người đối với một loại hoạt động nào đó có thể coi là dấu
hiệu của những năng lực đang hình thành.
3) Năng lực và tri thức, kĩ năng, kĩ xảo: Tri thức, kĩ năng, kĩ xảo có quanhệ mật
thiết nhưng không đồng nhất với năng lực. Tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong một lĩnh vực
nào đó là điều kiện cần thiết để có năng lực trong lĩnh vực ấy. Khơng thể có những
năng lực tốn nếu khơng có tri thức về tốn, ngược lại, năng lực góp phần làm cho

24


việc tiếp thu tri thức, hình thành kĩ năng kĩ xảo tương ứng với lĩnh vực của năng lực
đó được dễ dàng và nhanh chóng hơn. Như vậy, giữa năng lực và tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo có sự thống nhất biện chứng. Một người có năng lực trong một lĩnh vực nào đó có
nghĩa là người ấy đã có tri thức, kĩ năng , kĩ xảo nhất định của lĩnh vực này. Nhưng khi
có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo thuộc một lĩnh vực nào đó khơng nhất thiết là sẽ có được
năng lực về lĩnh vực đó.
Như vậy, hình thành năng lực là một quá trình phức tạp bao gồm trong nó q
trình tiếp thu tri thức. Bản thân quá trình hình thành năng lực là một thành tố của q trình
mang tính chất chỉnh thể và trọn vẹn nhưng rất phức tạp của sự phát triển nhân cách tron
ghoạt động và bằng hoạt động
+ Tính cách
- Định nghĩa: Tính cách là sự kết hợp một cách độc đáo những thuộc tính tâm lý
cá nhân, quy định phương thức hành vi điển hình của chủ thể trong những điều kiện,
hoàn cảnh sống nhất định, thể hiện hệ thống thái độ của họ với mình cũng như với
người khác, với xã hội và đối với mọi đối tượng - hiện tượng của thực tại.
- Cấu trúc của tính cách: Tính cách gồm hệ thống thái độ và hệ thống hành vi.
Hệ thống thái độ có 4 mặt sau đây:
1) Thái độ đối với tập thể và xã hội, thể hiện qua nhiều nét tính cách như: lịng
u nước, u chủ nghĩa xã hội, thái độ chính trị, tinh thần đổi mới, tinh thần hợp tác
cộng đồng.

2) Thái độ đối với lao động, thể hiện ở những nét tính cách cụ thể như: lòng yêu
lao động, cần cù, sáng tạo, lao động có kỉ luật, tiết kiệm, đem lại năng suất cao.
3) Thái độ đối với mọi người, thể hiện ở những nét tính cách như: lịng u
thương con người theo tinh thần nhân đạo, quý trọng con người, có tinh thần đồn kết,
tương trợ, tính cởi mở, thẳng thắn, công bằng.
4) Thái độ đối với bản thân, thể hiện ở những nét tính cách như: tính khiêm tốn,
lịng tự trọng, tinh thần tự phê bình.
Hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân: Đây là sự thể hiện cụ thể
ra bên ngoài của hệ thống thái độ nói trên. Hệ thống hành vi, cử chỉ cách nói năng rất
đa dạng, chịu sự chi phối của của hệ thống thái độ. Người có tính cách tốt, nhất quán
thì hệ thống thái độ sẽ tương ứng với hệ thống hành vi cử chỉ cách nói năng. Trong đó
thái độ là mặt nội dung, mặt chỉ đạo còn hành vi, cử chỉ, cách nói năng là hình thức
biểu hiện của tính cách, chúng khơng tách rời nhau, thống nhất hữu cơ với nhau.
Tính cách có quan hệ chặt chẽ với các thuộc tính, các phẩm chất khác như xu
hướng, khí chất, tính cảm, ý chí, kĩ xảo, thói quen, vốn sống của cá nhân.
+ Khí chất
- Định nghĩa: Khí chất là sự biểu hiện cụ thể của cường độ, tốc độ, tính linh hoạt
của hoạt động thần kinh cấp cao trong não của chủ thể ra bên ngoài hành vi quan hệ và
ngơn ngữ của họ.
- Các kiểu khí chất: Nhìn chung, ở con người sẽ biểu hiện ra bốn loại khí chất cơ
bản như hăng hái, bình thản, nóng nảy và ưu tư. Ngồi ra cịn có kiểu khí chất bác học,
nghệ sỹ và trung gian giữa bác học và nghệ sĩ.

25


×