Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Giáo trình tâm lý học lao động phần 1 đào thị oanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.36 MB, 107 trang )

ĐÀO THỊ OANH

t Am lý học
lao bộng



NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


nhiên, một quá trìn h trong đó bằng hoạt động của chính m ình
con người làm tn m g gian, điền tiết và kiểm rra sự trao đối chất
giữa họ và tự nhiên...”. [C. Mác và P.Ànglien: Toàn tập, Nxb
Chính trị Quôc gia, Hà Nội, 1993. t r 23, 266]
Có th ể xem xét khái niệm “lao động” ở nhiềii góc độ khác
n h a u để hiểu rô hơn nội dung của nó.
Trước liết. lao động của con người có tín ầ chất xà liội. Ngay
từ đầii, lao động của con người đã là công việc của nliững nhóm
xã hội chứ không do một cá n h ân riêng lẻ thực ầiệ n và mục đích
của bất kỳ hình thức lao động nào cũng có tín h chất xã hội.
Trong tác phẩm “Tư b ản ” , C.Mác đã xác định bản ch ất xã hội
và mục đích chung của lao động nầií sau : “Lao động là một hoạt
động có mục đích để tạo ra những giá trị sử dụng”.
Xét về phương diện sinh lí học, theo ý kiến cùa

C.Mác:

“Dù các dạng lao động có ícli có khác nầavi như th ế nào, dù
những hoạt động sản xuất có khác n h au đến đâu thì về phương
diện sinh lí học, đó vẫn là


những cliức náng của cơ th ể con

người, và mỗi một chức náng ấy. dù nội dung và hình thức của
nó như thê nào vê thực chất vẫn chỉ là sự tiêu hao não, th ầ n
kinh, cơ bắp và các cđ quan cảm giác

[Phạm T ất Dong. Tâm

lý học lao động - Tài liệu dùng cho học viên cao học, viện KHGD,
1979]
Việc hiểu bản chất xã hội và bản chất sinh lí học của lao
động giúp chúng ta hiểu rõ hơn bản chất tâm lí của lao động bởi
vì cái tám lí trong lao độiiể không th ể tách rời và cô lập với
uhững hiểu biết về những bản chất đó.


Trong lao động cái tâm lí chung n h ất được bộc lộ ra là tíứh
Lích cực, tín h mục đích, là những h ìn h ả n h n ảy sinh trong đầu

:on người mà nhồ nó con ngưòi xác định được kêt quả hoạt động
:ủ a mình.

Dù hoạt động lao động có khác nhau về mục đích, đối
tượng, công cụ và điều kiện như th ế nào chăng nữa, bao giờ nó
cũng gồm hai cơ chế đặc thù: triíổc hết đó là quá trình đôì tượng
lioá sức mạnh bảii chất của con người. Nói clio cùng, mọi sản
phẩm lao động đều là những biểu hiện cụ thể của tài năng, đức
độ, tình cảm ... con ngvtời. Cái tâm lí đã hoá thân vào toàn bộ
thế giới đồ vật do con ngvíời tạo ra. Kết quả của quá trình đốì
tượng hoá sức mạnh bản chất con người trong lao động là loài

người có được một nền văn hoá xã hội - lịch sử ngày càng phát
triển. Đến lượt mình, nền văn hoá đó lại là hiện thân trực tiếp
của sự tiến hoá của loài người - một hình thức tiến hoá đặc thù ở
loài người - sự tiến hoá theo qiiy luật xã hội - lịch sử. Lao động
của con người cứ từng bước thay đổi th ế giới đồ vật xung quanh
họ. Cứ mỗi th a y đổi đưỢc ghi d ấu trong th ế giới đồ v ật này đều

có thể được coi như là một điều kiện góp phần vào việc tạo ra
những bước phát triển của loài người.
Song, để thực hiện được quá trình đôi tượng hoá sức mạnh
bản chất của mình, con ngưòi lại phải sử dụng công cụ lao động
(mà công cụ lại là kết quả của quá trình đô'i tượng hóa nói trên).
Phải nắm được cách thức sử dụng công cụ lao động thì lúc đó
công cụ mới tồn tại với đúng tư cách là một công cụ. Người ta
phải học cách sử dụng công cụ. Thực chất của quá trình học. cách


sử dụng công cụ là sự lĩnh hội cái tâ m lí chứa bên trong công cụ

đó. Ta gọi quá trình này là sự người ìioá sức mạnh bản chất của
con ngvíời trong iao động.
2. Cấu trú c củ a hoạt đ ộn g lao đ ộ n g

Hoạt động lao động là đôl tưỢng nghiên cứu của nhiều
khoa học trong đó có tâm lí học. Đôi với các nhà tám lí học, điểm
cơ bản trong lao động mà họ quan tâm là tính mục đích, tính tự
giác, tính tích cực của con người. Hoạt động lao động là sự thống
nhất của cái tâm lí và cái sinh lí. Trong khái niệm hoạt động lao
động, những hiện tượng tinh th ần (động cơ, mục đích, hứng
thú,...) bao giờ cũng ồ trong một thể thống nhất hữu cơ với

những biểu hiện bề ngoài của chúng là những vận động thực
hiện. Vì vậy, phải nghiên cứu hoạt động lao động với đầy đủ
những thànli phần nêii trong cấu trúc của nó.
Hoạt động lao động là một dạng hoạt động đặc biệt của con
người. Khi tiên liành lao động, con ngiíời sử dụng cỏug cụ.
Phương pháp, cách thức và nghệ thuật sử dụng công cụ đvtợc gọi là
kỹ thuật lao động. Hoạt động lao động của con người bao giờ cũng
nhằm đạt được một mục đích nhất định do họ tự giác đặt ra.
Mục đích của hoạt động lao động là hình ảnh về kết quả
công việc sắp được tiến hành. Hình ảnh đó tồn cại trong đầu óc
con người trước khi họ thực sự bắt tay vào công việc. Mục đícli
lao động nảy sinh trong ý thức trên cơ sd những nhu cầii tinh
thần và nhu cầu vật chất của con người. Sự nẩy sinh mục đích
lao động còn phụ thuộc vào kinh nghiệm lao động đã tích luỹ
6


được. Mục đích có thể là gần nhiíng cũng có thể là xa. Song,
nhìn chung hoạt động lao động bao giờ cũng có mục đích xa, bao
trùm lên những mục đícli gầu có tính cliất bộ phận. Qiiá trình
tiến hành một hoạt động lao độug là quá trình đạt từ mục đích
bộ phận này sang mục đích bộ phận khác cho đến khi đạt được
mÌỊc đích cuối cùng. Như vậy, ta có được một sơ đồ giản lược, inô
tả một quá trình hoạt động nlivt sau :
Mục đích có tính chất bao trùm các mục đích bộ phận
chính là động cơ của hoạt động. Mục đích bao trùm (động cơ) có
tác dụng thúc đẩy việc thực hiện các mục đích bộ phận được kết
lại thành một hệ thông. Chính vì vậy, khi nói đến một hoạt
động, bao giò người ta cũng xét đến động cơ tương ứng với nó.
Một hoạt động diễn ra trong từ n g giai đoạn đạt đưỢc

những mục đích nhất định. Quá trình hoạt động đê đạt được
mục đích bộ phận được gọi là hành động.
Hành động là yếii tô' của hoạt động, cụ thể hơn, đó là một
đơn vị của hoạt động. Kết quả của hành động là đạt đến một
Mục đích 1

Mục đích 2

^ Mục đích cuối cùng

mục đích cụ th ể nào đó m à con ngiròi đã n h ậ n thức đưỢc. Có thể

nói, mỗi hành động bao giờ cũng nhằm giải quyết một nhiệm vụ
sơ cấp cơ bản, nghĩa là nhiệm vụ không thể phân nhỏ hơn được
nữa. Như vậy là, muốn xem một hoạt động lao động có bao nhiêu
hành động, ta cần phải xác định có bao nhiêu nhiệm vụ sơ cấp cơ
bản trong đó, hoặc có bao nhiêii mục đích cụ thê. Vì vậy, khi tô
chức một hoạt động sản xuất, điều quan trọng bậc nhất là phải


chỉ ra cho được những mục đích bộ phận và trình tự đạt tới
những mục đích đó.
Trong lao động sản xuất, muôn đạt tới mục đích, người ta
cần tính xem phải hành động theo phương thức nào (bằng công
cụ gì ? Với những phương tiện nào ? Cách thức sử dụng công cụ
ra sao ? ...).
Nói đến phương thức thực hiện hành động là nói đến thao
tác. Trong công nghiệp, thuật ngữ “thao tác” có khi được dùng
để chỉ một yếu tô' của một quá trìn h công nghệ đưỢc thực hiện


trên một vị trí làm việc, do một hoặc nhiều nhóm công nhân tiến
hành để làm ra một clii tiết hoặc một sô" các chi tiết được gia
công đồng thời, hoặc tạo ra một sô" bán thành phẩm cho đến khi
chuyển sang những chi tiết saii.
Trong hoạt động lao động, thao tác là “đơn vị cơ động” của
hành động. Một hành động có thể có một hoặc nhiềii thao tác.
Nhưng, để xác định được số lượng những thao tác trong một
hành động, ta phải căn cứ vào công cụ và phương thức thực
hiện hành động đó. Cùng một hành động, người ta có thể dùng
một hệ thông thao tác này hoặc một hệ thông thao tác khác.
Điều đó phụ thuộc vào điều kiện trang bị kỹ thuật. Như vậy là,
một hành động đvíỢc tiến hành thông qvia một hoặc nhiều thao
tác. Nhiều thao tác khác nhau có thể dẫn đến một mục đích như
nhan. Chính vì vậy ta nói thao tác là đơn vị cơ động của hành
động.
Nội dung của mỗi thao tác là do đặc điểm cấu trúc của
côug cụ quy định. Tuỳ thuộc vào hình dáng, kích thước và những
8


đặc trư n g cơ cấii của công cụ nia xác định tư th ế và nhữ ng vận

động (động tác) phù hỢp. Như vậy, trong mỗi thao tác cụ thể có
mọt liệ thống nliữiig tit thê và vận động riêng. Tư thê củng có
thể coi là inột dạng của động tác. Hơn nữa, động tác cũng chưa
phải là yếu tô liỢ]) thành nhỏ nhất trong thao tác. Người ta còn
■phân động tác thành những "vi động tác’.
Một hành động lao động được lặp lại nhiều lần trong qiiá
trìn h hiyện tập và trở nên tự động hoá được gọi là kỹ xảo. Tuy
n h iê n , khi người công n h â n thực h iện th à n h thạo, điêu luyện các


thao tác trong hành động không có nghĩa là ý thức của họ không
kiểm tra lại cách thức tiến hành thao tác. Ta gọi là sự tự động
hoá của kỹ xảo chỉ với nghĩa là thao tác đã thành thạo, không
cần sự tập trung chú ý mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, độ chính xác.
3. Đ ịn h nghĩa, đối tưỢng, nhiệm vụ của Tâm lí học lao động

Như trên ta đã thấy, lao động là một hình thức cơ bản của
sự tác động qua lại có ý thức giữa con người với hiện thực xung
quanh. Hiệu quả cùa lao động phụ thuộc vào rất nhiều các yếu
tô' bên troiig và bên ngoài. Thậm chí. các yếu tô' bên ngoài (thiết
bị kỹ thuật, sự tổ chức, môi trường vật lí và xã hội v.v...) quy
định phần lớn hiệu quả lao động thông qua các yếii tố bên trong
(năng lực. tri thức, kinh nghiệm, động cơ, hứng thú, thái độ...).
Như vậy, Iigliiêu cứii lao động đưỢc đặt trên yếu tô' trung
tâm - cou người, cần x\iất phát từ việc nhận thức các quy luật
điều khiển hành vi con người trong lao động. Theo nghĩa này,
tâm lí học lao động là một khoa học nhằm xây dựng một hệ
9


thống tri thức thống nliất và hệ thống hành động của con người
trong lao động. A.Roger nhấn mạnh rằng, bằng vai trò khoa học
của mình, nhà tâm lí học lao động quan sát, mô tả và tìm cách
giải thích liàah động của con ngiíời trong tư cách họ là nliữiig ngiíời lao
động.
Đồng thời, việc hiển một hiện tiíỢng không thể là một mục
đích tự thân. Hiểu biết về một hiện tượng là nhằm làm thay đổi
nó cho phù hợp với những mục đích n h ấ t định. Chính vì vậy,
tâm lí học lao động sử dụng những hiển biết về hành động của

còn người trong lao động cùng với những tri thức của các chuyên
ngành khoa học khác nhằm làm thay đổi lao động theo nghĩa
hoàn thiện nó.
Nói cách khác, tâm lí học lao động vừa là một khoa học
vừa là một công nghệ kỹ thuật. Việc phân biệt hai th à n h phần
đó trong hoạt động cùa nhà tâm lí học lao động là cần thiết
nhưng không nên đốì lập chúng với nhau: trong khi những hiểu
biết về lao động giúp chúng ta làm thay đổi lao động thì việc
thay đổi đó sẽ làm tăng nhận thức của chúng ta về lao động. Từ
góc độ th u ần tuý tâm lí học, có thể quan tâm tới việc thiết lập
một sô quan hệ giữa các chức năng tâm lí, tới việc phát hiện
một sô cơ chế tâm lí của những hành động lao động. Từ góc độ
ứng dụng, có thể đvía các tri thức thu được của tâm lí lao động
vào nghiên cứii hoàn thiện một sô' tiêu chuẩn đánh giá lao động.
Các tiêu chuẩn có thể rấ t khác n h au : sự an toàn, sự th u ậ n tiện,
tôc độ thực hiện, thời gian học tập v.v... Để hoàn thiện được các
tiêu chuẩn này cần có sự góp phần của một số ngành khoa học
và kỹ th u ậ t khác.
10


Tám lí học lao động đề cập tới hành động lao động nói
chung. Do hoạt động cùa con người đưỢc diễn ra trong các lĩnh
vực rất khác nhau nên tâm lí học lao động củng bao hàm một
phạm vi rộng lớn, gồm : tâm lí học công nghiệp, tâm lí học giao
thông, tâm lí liọc nông nghiệp, tâm lí học kinh doanh, tâm lí học
hành chính.
Trong tài liệii này chúng ta chỉ qiian tâm tới tâm lí học lao
động công nghiệp, ớ lĩnh vực này, h àn h động lao động


nằm

trong p h ạm vi tác động tương hỗ giữa con người - các đôi tượng

và môi trường vật lí, xã hội của lao động, tức là trong hệ thông
người - máy - môi trirông. Do đó, tầm lí học lao động công
nghiệp nhằm nghiên cứu và hoàn thiện sự tác động qua lại này
với mục đích nhân bản hoá lao động, tăng năng suất và chất
lượng lao động, sự an toàn của các hệ thống kỹ thuật xã hội,
tăng hiệu quả và tăng sự thuận tiện trong lao động.
Trong việc nghiên cứu sự tác động qua lại giữa người máy và môi trường, các chức năng tâm lí của con người (tri thức,
thói qiien, ý muôn, chú ý, tình cảm, động cơ, hứng th ú v.v...)
đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Nhưng, hiệu quả lao động
không chỉ phụ thuộc vào những khả năng hay những h ạn chế
của con người, vào chất liíỢng các chức năng tâm lí của ngưòi đó,
mà phụ thuộc vào tấtcả các yếu tô" vật chất và xã hội của môi
trường lao động. Vì vậy, tâm lí học lao động công nghiệp, trong
khi nghiên cứu trước hết là con ngưồi với tư cách là thành tô chủ
yếu trong hệ thông, đã xu ất p hát từ luận đề cho rằng: hiệu qiiả
vận h àn h của hệ thông ngưòi - máy - môi trưòng pầụ thuộc vào
11


phương thức thích ứng lẫn nhau giữa các thành phần của nó ; người,
máy, môi triíờng vật lí và xã hội.
Từ đó có thể rú t ra được đô'i tượng cua tâm lí học lao
động công nghiệp; nghiên cứu và áp dụng các tri thức nhằm,
thích ứng, về mặt tâm lí học, con người với máy móc, với môi
trường làm việc của minh, đồng thời thích ứng máy móc và môi
trường làm việc vói những đặc điếm tâm- lí của con người. Các

phương tiện chủ yếu của sự thích ứng lẫn nhau này là : a) Định
hướng, tuyển chọn, đào tạo và thích ứng nghề nghiệp cho con
người; b) Thích ứng các đặc điểm cấu trúc và vận hành của máy
móc, các yếu tô' của môi triíòng vật lí và xã hội, yếu tố tổ chức
lao động vối những đặc điểm tâm lí của con ngưồi. Như vậy, rõ
ràng là, sự thích ứng lẫn nhau trong hệ thống sẽ chỉ được bao
quát đầy đủ khi có sự tham gia của tất cả các bộ môn khoa học
nghiên cứii về lao động.
Như vậy, hoạt động của n h à chuyên môn trong lĩnh vực
tâm lí học lao động công nghiệp bao gồm những vấn đề rấ t
phong phú và đa dạng . Nhà tâm lí học cần phân tích bản chất
thao tác và hành động của các nhiệm vụ lao động, phân tích yêu
cầu của các chức năng tâm lí trong quá trình thực hiện các
nhiệm vụ đó. Từ đây, phải nghiên cứu và xác định, khả năng
cũng như những giới hạn tâm lí của con người (được hiểu như là
một kênh truyền thông tin). Trong khi lưu ý đến cấu trúc và bản
chất của các nguồn thông tin, của tất cả các yếu tô" vật chất và
xã hội, nhà tâm lí học sẽ xác định các cơ chế tâm lí của những
12


hành động đúng và những hành động sai, xác định mức độ hiiy
động tối ưu, sự yêu cầii một cách hỢp lí và cân bằng của các chức

năng tâm lí và những khả nâng sáng tạo của người lao động.
Trên cơ sở những nghiên cứu này, chuyên gia tâm lí học
lao động phải xác lập họa đồ tâm lí nghề nghiệp với những yêu
cầii của công việc, xây dựng các phương pliáp đo ưghiệm nhằm
kiểm tra năng lực và nhân cách của những người dự tviyển để
tuyển dụng và đào tạo nghề nghiệp (hướng ngliiệp, lựa chọn,

hướng nghiệp lại, phân phôi, huy động). Tương tự, phải đề ra các
yêii cầu, phương pháp và những tiêu chuẩn đào tạo nghề nghiệp
cũng nhvf đánh giá việc đào tạo và hoà nhập nghề nghiệp.
Đồng thòi, cùng với những chuyên gia khác trong lĩnh vực
nghiên cứu lao động, nhà tâm lí học lao động công nghiệp góp
phần làm cho các thiết bị kỹ tliiiật, các yêu tô' môi trường và tổ
chức phù hỢp với những khả năng cũng như hạn cliế của con
người (trong giai đoạn thiết kế hoặc chỉnh sửa những hệ thông
hiện có, trong việc phân bô' các chức năng thao tác giữa người
và máy). Và, vì ngvíời công nhân là thành viên của một tập thể
lao động cho nên cần thiết phải nghiên cứu phân công nhiệm vụ
một cách hợp lí, nghiên cứu tổ chức các mối quan liệ người ngưòi, nghiên cứu sự tác động và giáo dục các động cơ, thái độ
cho người lao động.

Trên đây đã trình bày về cơ bản các hướng chính của toàn
bộ vấn đề mà nhà tâm lí học lao động công nghiệp quan tâm
nghiên cứu.

13


Qua việc tìm hiểu đôl tưỢng và những nhiệm vụ cơ bản của
tâm lí học lao động, ta có thể khẳng định rằng, tri thức cìia khoa
học này rấ t cần thiết cho nhiềii nhà chuyên môn của nliiềii linh
vực khác nhavi như tâm lí học, giáo dục học, y học, kỹ thuật ...
Chính vì vậy, ở nước ta hiện nay, nghiên cứu tâm lí học lao động
là cần thiết đốì với nhiều người. Công việc đó có liên quan và
ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả lao động nhằm xây dựng công
nghiệp hiện đại, đẩy mạnh nhịp độ sản xiiất xã hội chủ nghĩa.
4. Tâm lí h ọ c la o đ ộ n g với các ch u y ên n g à n h tâm lí h ọc

k h á c v à v ớ i các k h oa h ọ c k h ác v ề lao đ ộn g
4.1 Với c á c ch u yên n g à n h tâ m li hoc khác

Trong hệ thông các khoa học tâm lí hiện đại, tâm lí học lao
động thuộc vào một trong những chuyên ngành phát triển mạnh
nhất. N ầững vấn đề lí hiận và thực tiễn mà tâm lí học lao động
đề cập tới ngày càng được mở rộng. Tính chất ứng dụng của nó
ngày càng đa dạng. Tuy nhiên, trong quá trìn h phát triển củà
mình, tâm lí học lao động luôn luôn nằm trong mối quaH hệ và
tác động qua lại mật thiết với các dniyên ngành tâm K học khác
cũng như với các khoa học lân cận.
Tâm lý học lao động có quan hệ qua lại với Tâm lí học đại
cương. Giữa chúng có sự chuyển đổi lẫn nhau ở hai nghĩa : từ
tâm lí học lao động đến tâm lí học đại cương và ngược lại. Đổi
với tâm lí học đại cương, tâm lí học lao động là một chuyên
ngành đề cập thường xuyên và cụ thể tới một hoạt động chủ yếu
của con ngvíòi - hoạt động lao động. Đến lượt mình, tâm lí học
lao động lại sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau của
14


tâm lí học đại cương như : phương pháp lâm sàng (quan sát,
phân tích trực tiếp hành vi lao động), phương pháp thực ngliiệm.
chẩn đoán (bằng trác nghiệm). Và. trong khi nghiên cứu các
chức năng tám lí khác nhau (tri giác, trí nhớ. tư duy...), tám lí
học lao động góp phần làm phong phú thêm cho những tri thức
của tám lí liọc đại cương, làm cho phần lí luận của tâm lí học đại
ciíơng được chứng minh chặt chẽ hơn.
Đôl vói vấn đề định hướng, tuyển chọn và hoà nhập nghê'
nghiệp, tâm lí học lao động dựa trê n n h ữ n g t r i thứ c của Tâm lí


học sai biệt, (là một chuyên ngành nghiên cứu các đặc điểm tâni
lí của cá nhân) và dựa trên Tâm lí học người già (là chuyên
ngành nghiên cíiu các đặc điểm tâm lí của quá trìn h lão hoá).
Trong việc đào tạo nghề ngầiệp, tâm lí học lao động sử
dụng các quy hiật phát triển tâm lí ở các lứa tuổi của Tâm lí học
p há t triển. Chính nhờ tâm lí học dạy lao động, những quy luật
truyền thụ tri thức sản xuất, tri thức kỹ th u ậ t ngày càng được
sáng tỏ và đó là tài liệu cần thiết cho tâni lí học p h át triên. Bơi
vì, hoạt động lao động cùa con người được diễn ra trong một tập
tliể, trong pliạm vi của mọt tổ chức (hệ tliông kỹ th u ật xã hội) và
tổ chức này lại có liên quan với những yếu tố bên ngoài cko nên
tám lí học lao động có qiian hệ chặt chẽ với Tâm. lí học xã hội,
Tăm lí học tổ chức và Tâm. lí học kinh tế.
Tâm lí học lao động và Tâm lí liọc xã hội có vấn đê chung
rấ t quan trọng; học thiiyêt về nlióm và tập thê. Ta biêt răng, vê
phương diện lịch sử, cả tậ p th ể lẫ n con người đ ề u h ìn h th à n h

trong lao động. Trong bất kỳ nhóm lao động nào, những niôi

15


quan hệ liên nhân cách cũng nảy sinh. Đó là đôi tượng nghiên
cứu của cả tâm lí học lao động lẫn tâm lí học xã hội. Cùng với
việc nghiên cứu các loại nhóm và các môi qiian hệ liên nhán
cách trong nhóm, tám lí học lao động còn để cập tới sự tương
hỢp nhóm (còn gọi là sự pliù hỢp nhóm ), n h ữ n g hiện tượng tâm

lí của đám đông trong lao động tập thể ... Những vấn đề ấy

cũng được tám lí học xă hội qiian tâm nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của tâm lí học tổ chức là những vấn
đề tâm lí học trong việc lãnh đạo và tổ chức các tập thể lao động
cũng là những khía cạnh mà tâm lí học lao động quan tâm nhằm
mục đích hoàn thiện các quan hệ lao động, trên cơ sồ đó tăng
năng xuất lao động. Còn đôi tượng của tâm lí học kinh tế là
những yêu tô tâm lí của các môi qiian hệ giữa người sản xuất và
ngiròi tiêu dùng (ngưòi tiêu thụ). Đây cũng là vấn đề TLHLĐ có
đề cập đến.
Tâm lí học lao động có quan hệ với Tăm lí học quân sự
trong mọi vấn đề lao động trong quân đội, nhất là lao động với
những khí tài hiện đại. Ngày nay, những vũ khí trong quần đội
đã được hiện hoá. Các chiến sĩ đều phải tiếp xúc và điều khiển
các loại máy móc hết sức đa dạng, ở đây, cần nghiên cứu chiến
sĩ sử dụng vũ khí hiện đại giông như đôi với việc nghiên cứu
thao' tác viên bên những máy móc, thiết bị tôi tân. Quan hệ
người - máy cần được đi sâu nghiên cứu. Những quy luật tâm lí
rú t ra từ những công trình nghiên cứu tâm lí học lao động có
nhiều tác động cho việc tiến hành nghiên cứu tám lí học quân sự
và giúp trực tiêp vào việc đào tạo, h u ấn luyện chiến sĩ mới
16


trong môl quan hệ với kỹ thuật. Các lĩnh vực tám lí học hàng
không, tâm lí học vù trụ đă gắn với tâm lí học iao động bằng
những mối liên liệ hỢp tác c h ặ t chẽ.

Tâm lí học lao động cùng có những môl liên hệ nhất định
với Tâm lí học tội phạm . Chẳng hạn, tâm lí học tội phạm đề cập
tới những liành động sai lẩm và những đặc điểm nhân cách

trong môi liên liệ với nhữiig hành động phạm pháp. Đáy cũng là
vấn đề rất gần với việc ngliiên cứu các hành động sai và những
nguyên nhân gây ra hành động sai trong lao độiig. Nhưng, môi
liên quan chặt cliẽ hơn cả được thể hiện ở chỗ, trong khi tâm lí
học lao động nghiên cứu sự hoàn thiện nhân cách trong lao động
nghề nghiệp, thì tâm lí học cải tạo phạm nhân lại nghiên cứu
quá trìn h cải tạo nhân cách đang suy thoái bằng hình thức lao
động sản xuất.
Tâm lí học lao động có rấ t nhiều vấn đề cần giải quyết
cùng với Tâm lì học y học. Trước khi đi vào h àn g loạt vấn đề của
giám định lao động, tâm lí học lao động không thể tách rời khỏi
tâm lí học y học : vấn đề tuyển chọn người vào các nghề với các
đặc điểm bệnh lí cụ thể. ở đây, cần có sự kêt luận vê những
b ệ n h m à ng h ề kiêng trá n h , về sự p h ù hỢp nghề của những người

tàn tật, về những nguyên nhân gây ra tai nạn lao động hoặc
hỏng hóc kỹ th u ật mà nguồn gô'c là từ những đặc điểm chịu sự
chế ước sinh lý cụ thể ở mỗi ngitời, về những liệu pháp y tế cần
thiết cho những trường liỢp đi vào nghề.
4.2. Với c á c k h o a hoc k h á c vê lao đ ô n g

Bởi vì lao động không tliể được nghiên cứu chỉ dưới khía
cạnh tâm lí của nó, cho nên. cũng giông như các chuyên ngành
tâm lí học khác, tâm lí học lao động có quan hệ cả với những
17


khoa học khác về lao động như: Sinh lí học và vệ siỉili lao động,
N hản trắc học, Kinh tê lao động và tổ chức, Kinh tế chính trị
học, Xã hội học (đặc biệt xã hội học công nghiệp). Môi liên hệ

giữa các ngành khoa học này đưỢc thể hiện rõ trong phạm vị cùa
Công thái học (Ergonomie). Chính ồ tro ng công th á i học - đưỢc
định nghĩa như một khoa học và kỹ th u ật liên ngành về lao động
- sự tliícli ứng lẫn nhan một cách hoàn chỉnh giữa ngiíời, máy và
môi tritòng có thể được thực hiện. Công th ái học sử dụng những
tư liệu của tâm lí học lao động và các cứ liệu của hàng loạt các
khoa học khác để giải quyết việc thiết kế các trạm, các bộ phận
điều khiển, bô trí nơi làm việc theo nliững thông sô^ ánh sáng, độ
ẩm. độ thông gió, kích thước... Có thể nói rằng, tâm lí học lao
động đã và đang góp phần không nhỏ vào việc định mức kỹ
th u ậ t, xác định nhịp độ tối ưu trong lao động, xác lập cliế độ làm

việc và nghỉ ngơi, chông lại những ảnh hưởng tiêu cực cùa sự
đơn điệu trong lao động đên tâm lí và sinh lí con người cùng với
nhiều vấn đề khác nữa mà khoa học tể chức lao động đề cập đến.
5. Sơ lược lịch sử p h á t tr iể n củ a tâ m lí h o c lao đ ô n g

Tâm lí học lao động xuất hiện vào đầu th ế kỷ XX. khi đó
được gọi là “kỹ th u ật tâm lí học’’ gắn liền trực tiếp với thực tiễn,
vối nhu cầu giải quyết một sô vấn đề của con người và xã hội.
Những tác phẩm công bô' đầu tiên về TLHLĐ đã xuất hiện
không lâii trước chiến tran h thê giới I. P hần lớn các sách này
đều đề cập đến những phương pháp và kết quả thu đưỢc trong
quá trình hoạt động thực tiễn. Các tác giả của những ciiôn sách
ấy đều nghiên cứu các vấn đề do xí nghiệp mà họ làm việc ở đó
18


đề ra như: những vấn đề về việc tuyển chọn công nhán. vấn đề
dậy nghề cho công nhâu, sự sắp đặt nơi làni việc, vấn đề về các

nlián tô' gây ra các trường hỢp bất hạnh liay những nhân tô có
ảnli hưởiig đến náng suất lao động kể từ sự chiếu sáng đến các
mối quan hệ của con ngitòi. Theo nghĩa này. năm 1959,
H.Wallon đã n h ấ n m ạnh rằng, những ứng dụng thực sự đầu
tiên của táin lí liọc vào lĩnh vực lao động đã không xuất phát từ
inột chương trìn h lí thuyết mà xuất phát từ những yêu cầu của
nền công nghiệp và lòng mong muôn nâng cao hiệu quả sản
xuất.
Để đạt được nguyện vọng này, tâm lí học lao động công
nghiệp đã phát triển theo ba hướng chủ yếu : a) Định hướng và
tuyển chọn nghể nghiệp: b) HỢp lí ỉioá lao động: c) Tâm lí học
của các môi quan hệ liên nhăn cách.
Đối với huớng thứ nhất, một trong những nhà sáng tạo ra
tâm lí học lao động công ughiệp là H.Miinsterberg cho rằng,
bằng việc thích ứng con người với những điều kiện lao động (tức
là, bằng việc tiiyển cliọn nghề nghiệp) những mục đích của
cluiyên ngành khoa học mới này có thể đạt được. Đó là : tìm ra
đưỢc người công nhân tô't nhất, tiến hành lao động trong những
điều kiện tốt n h ấ t và thii đưỢc những kết quả tô't nhất có thể
đưỢc. ò u g đã tiến hành kiểm tra tuyển chọn trong hàng ngũ các
sĩ qiian hải quần, vô tuyến điện. Các kỹ tlniật kiểm tra đã phát
triển và đitợc phổ biến rộng rãi trong thời gian chiến tran h th ế
giới lần thứ n h ấ t khi người ta tuyển lựa hơn một triệu níỡi tân
binh cho quân đội. Để phục vụ cho hướng nghiên cứii này, ở

19


phương Tây và Liên Xô củ đã xuất hiện nhiều phòng hướng
nghiệp. Phòng hướng nghiệp đầii tiêu đã đưỢc thành lập ở

Bostơn I>ăm 19lõ. Từ 1916. những cơ quan chuyên mòn vể
hướng nghiệp đã được thành lập ở Đức, Pháp, Anh và Iraly.
Chăng hạn, ở Đức năm 192Õ-1926 đã có Õ67 phòng tư vàn nghê
nghiệp đặc biệt, đã nghiên cứu gần 400.000 thanh thiêu niên
trong 1 năm. Vào thời kỳ này. công tác tư vấn đã rất điỉỢc chii ý
ở Anh - nước đã th ành lập một Hội đồng Quốc gia đặc biệt
nghiên cứu về v ấ n đề này.

Về vấn đề hỢp lí lioá lao động, khoảng ciiôl thê kỷ trước, kỹ
sư F.W.Taylor đã bắt đầii quan tâm đến việc tổ chức hoạt động
lao động tr ê n cơ sở chia các tliao tác lao động th à n h n h ữ n g đơn

vị đơn giản để loại bỏ những động tác thừa và như vậy sẽ làm
giảm thời gian thực hiện các thao tác (‘Thương pháp Taylor”
hay “Dây chuyền Taylor”). Việc cải tiến thao tác, cải tiến tổ
chức, cải tiên công cụ, mặc dù phải clii thêm những khoản tiền
đê tạo ra các điềii kiện lao động mới nhưng thời gian bốc dỡ một
tấn hàng đă giảm từ 7 - 8 giờ xiiông 3 - 4 giờ. sô công nhân
trong một nhà kho từ ÕOO giảm xiiông còn 140 người, và tất
nhiên tiền lãi mà nhà tư bản thu được là rấ t lớn. Cũng vào
khoảng thời gian đó, P.B.Gilbreth (một kỹ sư) và vỢ ông
L.M.Gilbretli (mộr nhà tâm lí học) trong khi nghiên cứu việc hỢp
lí hoá các động tác lao động, đã đưa ra một sô kỹ thuật phân tích
mới : chụp ản h và qiiay phim các thao tác lao động. Họ đả xác
định được 17 yêu tô động tác đưỢc bao hàm trong các thao tác
lao động. Năm 1911. P.B.Gilbreth đã xuất bản cuôn sách tại
New York có tiêii đề; “Nghiên cứu các động tác. Kinh nghiệm
20



tăng cưòng hiệu suất lao động của công n h â n ”. Những nghiên
cứu này đả được R.M.Barnes tiếp tục và năm 1937 ông đã xác
lập được các ngiiyên tắc tiết kiệm động tác và 22 quy tắc hỢp lí
lioá động tác lao độiig.
Tliuộc hướng này đã xuất hiện nhiều nghiên cứu đề cập tới
sức làm việc cùa con người: Chẳng hạn, trong khoảng thời gian
từ 1901 - 1903. bằng những thực nghiệm của mình, I.M.
Xêsênốp đã cố gắng nêu lên cơ sỏ sinh lý của các quá trình tâm
lí quyết định chất lượng của quá trình lao động. Và sau khi xác
định các tiêu clniẩn về thời gian tối líu của một ngày lao động,
Xêsênốp đã đặt nền móng cho học thuyết về sự nghĩ ngơi tích
cực mà bây giờ sinh lí học lao động và TLHLĐ dựa vào đó đê
chông lại sự mệt mỏi.
Năm 190Õ, P.Kraepelin đã sử dụng các phương pháp thực
nghiệm vào nghiên cứu lao động và để xuất việc đo đạc sự mệt
mỏi. Năm 1910, J.M.Lahy quan tâm đến các điều kiện lao động
của các công nhân sắp chữ trong nhà in, tìm tòi các dấu, hiệu
khách quan cùa sự mệt mỏi trong lao động trí óc theo tinh thân
chông lại quan điểm Taylor.
Để phục vụ cho các nghiên cứu về tâm lí liọc lao động,
trong hầu hết các nhà máy lớn hoặc trong các cơ sở công nghiệp
thuộc các ngành lao động công nghiệp đều hình th à n h các phòng
thí ngliiệni tâm - sinli lí của mình. 0 đó đã tiến h àn h có kết quả
nliiềii công trìn h về TLHLĐ. Tuy nhiên, có mỘT sô pliòng tlií
nghiệm lại do những người không đưỢc đào tạo về chuyên môn

21


đảm nhận nên không đem lại những lợi ích thiết thực(đặc biệt là

ở Liên Xô cũ).
Vì vậy. ĩiếp theo là thời kỳ người ta tỏ ra dè dặt đối với
những nghiên cứu đó bởi vì chúng đă bỏ qua những kliía cạnh
rất quan trọng của các quá trình tri giác, tư duy và xem con
người thuần tuý như một “động cơ sông" với nliững hậu quả tiêu
cực về mặt tâm lí xã hội.
Sự phát triên nhanh chóng của các thiêt bị quân sự trong
thời gian “Chiến tranh th ế giới thứ II” đã ngay lập tức lôi kéo sự
chú ý của các nhà chuyên môn (các kỹ sư, các nhà tâm lí học
các nhà quân sự) bởi vì hiệu quả sử dụng và độ tin cậy của các
thiết bị mới không đạt tới mức hoàn thiện về kỹ thuật. Việc
tuyển chọn và đào tạo các thao tác viên trong quán đội chưa đầy
đu, bơi VI cac tliiêt bị quân sự đã không lirti ý tới khả năng cũng

như những giới hạn của con người đã được quan tám. Lần này
đặc biệt là vân đề về những giới hạn của con người đã đưỢc quan
tâm. Con ngvtòi không còn bị xem như một “động cơ sống” đơn
giản chỉ thực hiện những động tác. mà như một kênh truyền
thông tin. Từ đó, bắt đầii thời kỳ phôi hỢp chặt chẽ giữa các nhà
tâm lí học và các nhà kỹ thuật trong các lực lượng quân sự của
Mỹ. Tâm lí học kỹ sư đã ra đời như vậy. Đó là chuyên ngành
tâm lí học quan tám nghiên cím những khả năng, những giới
hạn tâm lí của con người và làm sao cho những đặc điểm cấu tạo
của m áy móc phù liỢp với những k h ả n ăn g tâm lí đó. Tâin lí học
kỹ sư là một n h á n h của tâm lí học lao động và nó ra đời từ trong

lòng tâm lí học thực nghiệm hơn là từ tám lí học công nghiệp, ở
22



giai đoạn đầu. tâm lí học kỹ sxỉ hầu như cliỉ quan tâm đến việc
thícli ứng những thiết bị đo đạc, các bộ phận điều khiên, sự
phán bố các bộ pliận này v.v...
Vào cuôi giai đoạn 19Õ0 - 1960. xuất hiện một sự thay đôi
trono' quan điểm của tâm lí học lao động công nghiệp, cũng như
trong Công thái học, theo ngh ĩa : việc ngh iên cứu phai điíỢc tập
trung vào hệ thông' . sự vặn hành của hệ thống phụ thuộc vào

sự vặn hành của con ngưdi và của máy móc. Như vậy, đôi tượng
của tâm lí học lao động công nghiệp điíỢc mở rộng và đặc biệt đa
dạng cả trên bình diện lí luận lẫn thực tiễn.
Đối với tâm lí học của các mối quan hệ người - người, khởi
đầu của những nghiên cứu này đưỢc biết đến dưới tên gọi “các
nghiên cứii của nhóm Harvard”, là các nghiên cứu đưỢc E.Mayo
khởi xướng và lãnh đạo vào năm 1927 ở “Công ty điện lực miền
Tây” (Mỹ). Nhân dịp này, người ta đã làm sáng tỏ một điều,
rằng : ngoài nliững yếu tô vật lí, còn có những yêu tô tâm lí xa
hội cũng ảnh hưởng tới hiệu suất lao động. Các nghiên cứu tiếp
theo đã hoàn chỉnh danh sách những yếu tố này và đã làm rõ
vai trò của từng yếu tố như: động cơ; hứng thú; nhu cầu đưỢc
khẳng định và đánh giá; thái độ; dif luận; sự tlioả mãn trong lao
động' các Iiiôi q u a n liệ liên n liân cách (liàp d ân - xa lanh; sự lịch

thiệp; sự thán thiện; sự bàng quan, thờ đ); cấu trúc của nhóm
lao động (độ lớn, thànli phần, tổ chức, giao tiếp, lãnh đạo. quyết
địiili); việc tồ chức nhà máy ĩihií một hệ thông kỹ thuật xã hội
thông nhất và có liên quan với các hệ thông khác v.v... Trên cơ
sở những nghiên cứu đó, năm 1933, Mayo đã viêt cuôn Những
23



vấn đề con người của nền văn minh công nghiệp”. Trong đó ông
đã khẳng định rằng, lí thuyết hiện đại vể công tác quản lý phải
dựa trên nền tảng của những th à n h tựu tám lý học. Và cái gọi là
học tliiiyết về “các môi quan hệ của con người" do Mayo xây
dựng từ những thực nghiệm ở Hotoóc nơ vẫn còn giá trị đến
ngày nay.
Như vậy. tấ t cả các hướng nêu trên bao hàm những vấii để
rộng lớn của tám lí học cá nhán và tâm lí học xã hội trong lao
động công nghiệp. Nghiên cứu lí lu ận và ứng dụng tất cả những
vàn đê đó cùng với những nghiên cứu thuộc các chuyên ngành
khoa học khác có tác dụng tô'i ưu hoá và nhân bản hoá lao động.
ở Việt Nam, ngành sinh lí học lao động mới bắt đầu hoạt
động thực sự tìí năm 1963. Tuy còn non trẻ nhưng sinh lí học lao
động Việt Nam đã có những đóng góp đáng kể cho sản x uất và
chiên đàu.Trong mấy chục năm qua, chúng ta đă có hàng trăm
công trìn h nghiên cứxi có giá trị về nhiều lĩnh vực như : “Cường
độ lao động từng lúc trong lao động” (Tô Như Khuê. Bùi Thụ);
“Đ ánh giá sự mệt mỏi trong và sau lao động, chiến đấu” (Bùi
Thụ, Bùi Thu Nguyên, Phạm Quý Soan ...); “Khả năng thích
nghi của những ngiíời làm việc lâu năm ở chỗ nóng” (Ngô Đức
Hưởng, Bùi Thụ, Nguyễn Hùng ...).
Năm 1971, “Viện nghiên cứu khoa học. kỹ thuật bảo hộ lao
động được thành lập, Trong chương trình nghiên cứu của viện
có đề cập tới tâm lí học lao động (vấn đê hướng nghiệp. lao động
sư phạm ...). Năm 1975. cuôn sách đầu tiên, khá đầy đủ về
Ergonomie ở nước ta ra đời - cuốn “Khoa học lao động” của
24



Nguyễn Văn Lê, trong đó có để cập tới một số khía cạnh tâm lí
lao động. Từ năm 1976. chuyên đề tâm lí học lao động bắt đầu
đưỢc đọc tại khoa tám lí - giáo dục, trường Đại liọc Sư phạm I
Hà Nội, trường cán bộ Công đoàn Trung ương và một số cơ sở
sản xuất tại Hà Nội (Đoạn đầu máy xe lửa Hà Nội). Có thể nói.
những nghiên cứu thực sự vê TLHLĐ chỉ đitợc bắt đầu khoảng
cuối những náni 70 đến nay và chủ yêu là do tô TLHLĐ - Hướng
nghiệp của Ban táni lý liọc (TLH), Viện Khoa liọc Giáo dục tiên
hành (do GS. Phạm Tất Dong chỉ đạo khoa học). Các nghiên cứu
tập tru n g chủ yếu vào vấn đê dạy lao động kỹ th u ậ t và hướng
nghiệp cho học sinh phổ thông (PT). Các cán bộ nghiên cứii cua
tổ TLHLĐ - Hướng nghiệp đã tiến hành những thực nghiệm dạy
- học lao động kỹ tlu iậ t n h ằ m th ử h ìn h t h à n h ở học sin h một số

phẩm chất nhâii cách của ngiíời lao động có kỹ tliuật nhií: kha
năng tư duy kỹ th u ật, khả năng đọc bản vẽ kỹ th u ậ t và tạo hình
từ bản vẽ, khả năng kế hoạch lioá lao động, hứng thú lao động
kỹ th u ậ t v.v... Nliững nghiên cứu cụ tliể đó là: “ Khả năng sáng
tạo của học sinh PTCS trong hoạt động học tập lao động kỹ
th u ậ t” (Nguyễn K hánh Hà); ‘-Phát triển liứng thú và năng lực kỹ
th u ật thông qua hoạt động học lao động và hướng nghiệp nhằm
hình th àn h lý tưởng nghề nghiệp cho học sinh” (Nguyễn Thế
Trvtờng); “Hình th àn h năng lực kỹ th u ậ t cơ khí ở học sinli PT”
(Trần Á nh Tuyết); “Kliả náng kế hoạch lioá lao động của liọc
sinh PT”(Phạm Ngọc Luận); “Hình th àn h tư duy kỹ th u ật vâi tư
cách là một th à n h tô của sự s ẵ n sàng tâ m lí đi vào lao động cho

học sinh PTCS thông qua hoạt động học tập lao động kỹ th u ậ t”
(P h ạm Ngọc Uyển)... Các s ả n p h ẩ m k h o a liọc đã đưỢc công bố


25


trên các báo, tạp chí ở trong và ngoài ngành giáo dục, đặc biệt
trong một sô kỷ yếu Hội nghị toàn qiiôc những người làm công
tác TLH (1974,1978.1982) và một sô' sách về tâm lí học lao động
(Một số vấn đề về TLHLĐ - Phạm Tất Dong; Công tác hướng
nghiệp cho học sinh PT - Phạm Tất Dong ...). Một điều quan
trọng là, kêt quả nghiên cứu dạy lao động kỹ thuật và hướng
nghiệp đã góp p h ần tích cực vào việc xảy dựng cơ sở cho việc

giáo dục lao động và công tác hướng nghiệp của nhà trường
PTCS và PTTH, triển khai cải cách giáo dục trong việc chiiẩn bị
tâm th ế học nghề cho học sinh PT. Ngoài ra, đã kiến nghị với
lãnh đạo Bộ Giáo dục đưa môn lao động kỹ th u ật theo hướng kỹ
th u ật tổng hợp (Bao gồm các môn: Vẽ kỹ thuật - cho Cấp I; Kỹ
th u ật cơ khí - cho Cấp II; Kỹ th uật điện - cho Cấp III) để thay
thê chương trình lao động hiện lúc đó ở PTCS đang theo hướng
dạy nghề đơn giản.
Trong thời gian gần đây đã xiiất hiện một số nghiên cứu
trong lĩnu vực sản xuất, đặc biệt sản xuất công nghiệp, thể hiện
ở một sô luận văn tôt nghiệp của sinh viên như: Thái độ đôl với
lao động của công nhân nhà máy sản xuất thiết bị điện; Nghiên
cứu bầu không khí tám lí của nhà máy chế tạo thiết bị điện
Đông Anh - Hà Nội; Nghiên cứii các mô'i quan hệ liên nhân cách
tiong tạp thê công nhân nhà niáy điện Uông Bí... Các nghiên
cứu này đã góp phân bô sung, làm phong phú tliêni vôn tri thức
lý luận của TLHLĐ và giúp các nhà lãn h đạo tại các cơ sở sản
xiiất hiêu rõ hơn các cơ sở tâm lí xã hội của việc xây dựng những
tập thể sản xuất tôt, trên cơ sở đó, tăng năng suất lao động.


26


Trong nliiềvi năm qua, khi phát triển công nghiệp, ta còn ít
qiian tám tới tám lí liọc lao động. Việc đó có ảnh hưởng nhất
định đến những cô gắng đẩy mạnh nhịp độ sản xuất và tảng
năng suất lao động. Trong sự phát triển các khoa học lao động,
có thể nói rằng, tâm lí học lao động ở nước ta đứng ở hàng sau
cùng. Sự không đồng bộ như vậy đã đến lúc cần phải kliắc phục.
Chúng ta phải làm cho tâm lí học lao động có một vị trí xứng
đáng bên cạnh sinh lí học lao động, thẩm mĩ học lao động ... Đó
là trách nliiệm chxmg của những cá nhân và những cơ quan,
đoàn thể có nhiệm vụ nghiên cứu và chỉ đạo sản xuất trong các
lĩnh vực của nền kinh tế quôc dân.
6. C ác p h ư ơ n g pháp của tâm lý h ọ c la o đ ộ n g

Chúng ta hiểu khái niệm phương pháp nghiên cứu khoa
học là to à n bộ n h ữ n g cách thức và con đường để ngh iên cứu một
lĩnh vực n h ấ t định.
Có rấ t nhiều phương pháp và kỹ th u ật phân tícli hệ thống
người - máy - môi trưòng. Chúng có thể được phân chia và hợp
th àn h nhóm theo các cách khác nhau.Nhìn chung, có thể có hai
nhóm lớn; các phưđng pháp định tính và các phương pháp định
lượng, ở đây, chúng ta sẽ quan tâm một số phương pháp và kỹ
th u ậ t phân tích định tính.
6.1. N g h iê n cứu tư liêu

Việc phân tích thường đưỢc bắt đầu bằng việc nghiên cứu
các tư liệu của hệ thống, ở đây là những tư liệu của một hệ

thống tương tự, bản thiết kế, tài liệu chuyên môn, các tiêu
27


×