Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Nghiên cứu một số chỉ tiêu cấu trúc và hiệu quả kinh tế môi trường của rừng nông lâm kết hợp tại vùng ven hồ thủy điện tỉnh Hòa Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 93 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Canh tác nông lâm kết hợp (NLKH) là một hướng đi có triển vọng ở trung
du và vùng núi Việt Nam, nhằm giải quyết nhu cầu về lâm sản và bảo vệ môi
trường sinh thái. So với một số dạng rừng khác, rừng NLKH có những ưu điểm nổi
trội vì nó là một hệ sinh thái (HST) rừng, có thể cung cấp nguồn sống cho người
dân với thời gian cho thu nhập nhanh và sớm. Vì vậy, phát triển rừng NLKH đã trở
thành một xu thế và một phương thức sử dụng đất được chú ý nhiều.
Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế - môi trường (KT – MT) của rừng NLKH cũng
rất khác nhau và phụ thuộc chặt chẽ vào cấu trúc của loại rừng này. Việc nghiên
cứu đồng thời cả ba chỉ tiêu cấu trúc, kinh tế và mơi trường khơng chỉ có ý nghĩa
đánh giá hiện trạng của rừng mà còn giúp cho việc cải thiện cấu trúc, thơng qua đó
đạt được những mục tiêu về kinh tế và môi trường. Mặc dù vậy, cho đến nay ở
vùng ven hồ thủy điện tỉnh Hịa Bình vẫn còn thiếu những nghiên cứu về những
vấn đề nêu trên. Hạn chế đó đã làm cho nhiều khu rừng NLKH chưa phát huy tốt
các chức năng kinh tế và phòng hộ, tính ổn định của rừng NLKH chưa cao.
Để góp phần giải quyết những vấn đề bức xúc nêu trên, Đề tài:
“Nghiên cứu một số chỉ tiêu cấu trúc và hiệu quả kinh tế - môi trường
của rừng nông lâm kết hợp tại vùng ven hồ thủy điện tỉnh Hòa Bình” đã
được thực hiện. Phương hướng của Đề tài là: đánh giá cấu trúc rừng NLKH,
xác định một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế và môi trường của loại
rừng này. Tiếp theo là đề xuất mơ hình cấu trúc rừng hợp lý và giải pháp kỹ
thuật, kinh tế - xã hội (KT – XH) nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và mơi
trường của rừng. Vì hạn chế về thời gian và kinh phí, Đề tài chỉ thực hiện tại
hai xã thuộc vùng ven hồ thủy điện tỉnh Hịa Bình là xã Thung Nai – huyện
Cao Phong và xã Vầy Nưa - huyện Đà Bắc, tỉnh Hoà Bình, với sự tập trung
vào bốn loại rừng NLKH phổ biến.


2



Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Một số quan điểm về cấu trúc, hiệu quả KT - MT của rừng NLKH
(1) Quan điểm về cấu trúc
Bất kỳ một kiểu rừng nào cũng là tập hợp của các lồi cây trong lâm
phần. Mặc dù hiện nay cịn có những cách hiểu khác nhau về khái niệm lâm
phần, nhưng đều thống nhất coi bộ phận cây gỗ trong lâm phần là quan trọng
hơn cả. Tập hợp cây rừng sinh trưởng và phát triển trên một điều kiện lập địa,
hình thành một mật độ, một tàn che, tức là tạo nên một hoàn cảnh rừng, một
đơn vị sinh vật học hồn chỉnh. Trong q trình vận động và phát triển giữa
các cây gỗ với nhau và giữa chúng với hồn cảnh ln có một mối quan hệ
hữu cơ. Trong điều kiện xác định nào đó, sự liên hệ này tạo nên những quy
luật gọi là cấu trúc rừng. Theo Bertram Hush (1971) [35]: “cấu trúc rừng là
sự sắp đặt các lồi cây và kích thước của chúng trên một đơn vị diện tích
rừng nào đó. Nhìn nhận sự sắp xếp cây rừng theo không gian thẳng đứng sẽ
thấy cấu trúc tầng thứ của lâm phần, nếu xét theo không gian nằm ngang sẽ
được cấu trúc mật độ hay hình thái phân bố của cây rừng trong lâm phần.”
(2) Quan điểm về hiệu quả kinh tế (HQKT)
Hiệu quả của một mơ hình canh tác là tổng lợi nhuận thu được từ một
đơn vị diện tích và trong một đơn vị thời gian của mơ hình canh tác. Hiệu quả
của một mơ hình canh tác thường được xác định bằng cách lấy tổng các
nguồn lợi thu được trừ đi những khoản chi phí cần thiết để thực hiện các hoạt
động canh tác. Theo phương pháp phân tích kinh tế động của P.K.R.Nair
(1993) [44], HQKT là một phạm trù kinh tế phản ánh mặt chất lượng của các
hoạt động kinh doanh. Mục tiêu của sản xuất là đáp ứng nhu cầu ngày càng


3


tăng về vật chất và tinh thần của toàn xã hội, trong khi nguồn lực sản xuất xã
hội ngày trở lên khan hiếm. Việc nâng cao HQKT là một đòi hỏi khách quan
của mọi nền sản xuất xã hội.
(3) Quan điểm về hiệu quả môi trường (HQMT)
Theo G. Fiebiger (1993) [38], HQMT là khả năng của HST hay của loại
hình canh tác trong việc cải thiện môi trường sinh thái, như: mơi trường khơng khí,
đất, nước, v.v…
(4) Quan điểm về rừng NLKH
Thuật ngữ rừng NLKH mới xuất hiện trong khoảng 10 năm trở lại đây,
sau khi thuật ngữ NLKH được nhận thức rõ và phổ biến.
Theo FAO (1996) [37]: “NLKH là tên gọi chung cho các hệ thống và kỹ
thuật sử dụng đất, trong đó những cây thân gỗ sống lâu năm (cây gỗ, cây bụi,
các cây thuộc họ cau dừa, tre nứa) được kết hợp một cách có tính tốn trên
cùng một đơn vị kinh doanh với các lồi thân thảo và chăn ni. Sự kết hợp
này có thể tiến hành đồng thời hoặc kế tiếp nhau về mặt không gian và thời
gian. Trong các hệ thống NLKH, cả hai yếu tố sinh thái học và kinh tế tác
động qua lại lẫn nhau với các bộ phận hợp thành nên hệ thống đó ”.
Theo FAO (1998): “rừng NLKH (Agroforest) là rừng được trồng cây
nông nghiệp với sự tương tác qua lại giữa các thành phần của nông nghiệp
và lâm nghiệp trong một bối cảnh của quản lý tài nguyên thiên nhiên”.
1.1.2. Thành quả nghiên cứu
(1) Nghiên cứu về cấu trúc
Cấu trúc rừng là hình thức biểu hiện bên ngồi của những mối quan hệ qua
lại bên trong giữa thực vật rừng với nhau và giữa chúng với môi trường sống.
Nghiên cứu cấu trúc rừng để biết được những mối quan hệ sinh thái bên trong của
quần xã, từ đó có cơ sở đề xuất các biện pháp kỹ thuật tác động phù hợp.


4


Trong nghiên cứu cấu trúc rừng, người ta chia thành ba dạng cấu trúc:
cấu trúc sinh thái, cấu trúc không gian và cấu trúc thời gian. Cấu trúc của lớp
thảm thực vật là kết quả của quá trình chọn lọc tự nhiên, là sản phẩm của quá
trình đấu tranh sinh tồn giữa thực vật với thực vật và giữa thực vật với hồn
cảnh sống. Trên quan điểm sinh thái thì cấu trúc rừng chính là hình thức bên
ngồi phản ánh nội dung bên trong của HST rừng.
a) Về cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng
Vấn đề về cơ sở sinh thái học nói chung và về cơ sở sinh thái học trong
kinh doanh rừng mưa nói riêng đã được Baur G.N (1964) [2] nghiên cứu.
Trong đó, tác giả tập trung vào việc nghiên cứu các nhân tố cấu trúc rừng, các
kiểu xử lý về mặt lâm sinh áp dụng cho rừng mưa tự nhiên. Từ đó, tác giả đã
đưa ra những tổng kết hết sức phong phú về các nguyên lý tác động xử lý lâm
sinh nhằm đem lại rừng cơ bản là đều tuổi, rừng không đều tuổi và các
phương thức xử lý, cải thiện rừng mưa.
Đến năm 1965, Catinot R [3] đã nghiên cứu cấu trúc hình thái rừng
thông qua việc biểu diễn các phẫu đồ rừng, nghiên cứu các nhân tố cấu trúc
sinh thái thông qua việc mô tả phân loại theo các khái niệm dạng sống, tầng
phiến,v.v…
Đến năm 1971, Odum E.P [20] đã hoàn chỉnh học thuyết về HST trên
cơ sở thuật ngữ HST (ecosystem) của Tansley A.P, năm 1935. Khái niệm
HST được làm sáng tỏ là cơ sở để nghiên cứu các nhân tố cấu trúc trên quan
điểm sinh thái học.
b) Về mô tả hình thái cấu trúc rừng
Kraft (1884), lần đầu tiên đưa ra hệ thống phân cấp cây rừng. Ông chia
cây rừng trong một lâm phần thành 5 cấp dựa vào khả năng sinh trưởng, kích
thước và chất lượng của cây rừng. Phân cấp của Kraft phản ánh được tình


5


hình phân hố cây rừng, tiêu chuẩn phân cấp rõ ràng, đơn giản và dễ áp dụng
nhưng chỉ phù hợp với rừng thuần loài đều tuổi. Việc phân cấp cây rừng cho
rừng hỗn loài nhiệt đới tự nhiên là một vấn đề phức tạp, cho đến nay vẫn chưa
có tác giả nào đưa ra được phương án phân cấp cây rừng cho rừng nhiệt đới tự
nhiên mà được chấp nhận rộng rãi. Sampion Gripfit (1948), khi nghiên cứu
rừng tự nhiên Ấn Độ và rừng ẩm nhiệt đới Tây Phi có kiến nghị phân cấp cây
rừng thành 5 cấp cũng dựa vào kích thước và chất lượng cây rừng (dẫn theo
Nguyễn Văn Thêm, 1996) [30].
Khi nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên nhiệt đới, nhiều tác giả có ý kiến
khác nhau trong việc xác định tầng thứ, trong đó có ý kiến cho rằng, kiểu rừng
này chỉ có một tầng cây gỗ mà thôi. Richard P.W (1952) [27] phân rừng ở
Nigeria thành sáu tầng với các giới hạn chiều cao là 6 ÷ 12 m, 12 ÷ 18 m, 18 ÷
24 m, 24 ÷ 30 m, 30 ÷ 36 m, 36 ÷ 42 m, nhưng thực chất đây chỉ là các lớp
chiều cao. Odum E.P (1971) [20] nghi ngờ sự phân tầng rừng rậm nơi có độ
cao dưới 600m ở Puecto-Rico và cho rằng khơng có sự phân tầng trong khối
tán ở một tầng riêng biệt nào cả.
Như vậy, hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về tầng thứ thường đưa ra
những nhận xét mang tính định tính, việc phân chia tầng thứ theo chiều cao
mang tính cơ giới nên chưa phản ánh được sự phân tầng phức tạp của rừng tự
nhiên nhiệt đới.
Tóm lại, trên thế giới các cơng trình nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc
rừng nói chung và rừng nhiệt đới nói riêng rất phong phú, đa dạng, có nhiều
cơng trình nghiên cứu cơng phu và đã đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh
rừng. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc rừng NLKH
phục vụ cho cơng tác phịng hộ tại các vùng hồ cịn rất ít.


6


(2) Nghiên cứu về HQKT
HQKT là một trong những chỉ tiêu quan trọng, là mục tiêu của hoạt
động canh tác. Tuy nhiên, việc xác định chính xác HQKT cũng khơng đơn
giản, ngay trong điều kiện thí nghiệm HQKT cũng biến động, nó phụ thuộc
vào nhiều nhân tố khách quan như: biến động về giá cả vật tư, thiết bị và các
yếu tố chi phí đầu vào cũng như những biến động thị trường của các sản phẩm
bán ra v.v… Còn trong điều kiện thực tế sản xuất ngoài những nhân tố ảnh
hưởng trên, HQKT còn phụ thuộc vào biến động điều kiện thời tiết từng năm,
trình độ kỹ thuật của người dân, mức độ tác động của thiên tai v.v… Cho nên
để đánh giá HQKT người ta đã đưa ra nhiều phương pháp khác nhau, từ điều
tra thu thập thông tin đến xử lý, phân tích đánh giá hiệu quả.
Về phương pháp điều tra: vào cuối thập kỷ 80, tổ chức lương thực thế
giới đã đề xuất phương pháp đánh giá nhanh nông thôn - RRA (Rapid Rural
Appraisal) và phương pháp đánh giá nhanh nơng thơn có sự tham gia của
ngườidân – PRA (Particypatory Rural Appraisal) (Teunchai Lahkaviwattanakul và
ChunkLai, 1994). Theo những phương pháp này, HQKT của một phương thức
canh tác được xác định trên cơ sở phân tích các thông tin do người dân tự điền
vào các phiếu thăm dò in sẵn. Phương pháp thường cho kết quả nhanh chóng,
phản ánh đầy đủ những quan tâm của cộng đồng. Tuy nhiên, thông tin thu được
thường tản mạn, phụ thuộc nhiều vào đánh giá chủ quan của người dân. Vì vậy,
cần phải có những tiếp cận khéo léo, để người dân tự nguyện cung cấp những
thơng tin chính xác. Năm 1987 hội nghị quốc tế về RRA được tổ chức tại
trường đại học Khonken (Thailand), hội nghị đã thảo luận để thống nhất về
phương pháp luận của RRA trong phân tích đánh giá các dự án nơng lâm
nghiệp (NLN). Tiếp theo đó PRA được bổ sung và phát triển rộng rãi, khẳng
định vai trị của nó như là một cơng cụ để đánh giá các dự án. Trong thời gian
này Gilmour (1990) [39] đã tổng kết các phương pháp tiếp cận lấy nông dân


7


làm trung tâm (People centred Appraisal). Đây cũng chính là cơ sở của PRA ở
Trung đông và Bắc Phi để đánh giá các dự án lâm nghiệp thừa kế kinh nghiệm
của J.Theis và H.M.Grady (1992), A.Palinswang (1992). Mặc dù chưa có
phương pháp thích hợp hơn để thay thế RRA và PRA, nhưng cũng phải nói
rằng những phương pháp này cịn có hạn chế nhất định như khơng có khả năng
đánh giá bản chất của những vấn đề kỹ thuật.
R.Rhoader (1992) [47] đã vận dụng phương pháp đánh giá nông thôn có
sự tham gia của người dân PRA để xây dựng phương pháp “từ nông dân trở
lại với nông dân”. Phương pháp này tỏ ra có nhiều ưu điểm, các thơng tin
được kiểm tra chéo nhiều lần qua đánh giá lẫn nhau của người dân.
Nair (1993) [44] đã hoàn thiện phương pháp “từ nông dân trở lại với
nông dân” để quản lý và sử dụng đất. Bằng công cụ PRA, kết hợp với phương
pháp thống kê phân tích, W.Laquidon và H.R.Watson (1987) [42] đã đưa ra
được những kết luận của nông dân về các mơ hình canh tác trên đất dốc
(SALT) ở vùng Mindanao (Phillipine). Gần đây W.Rolla (1994) [48] đã đề
xuất phương pháp đánh giá tác động kinh tế xã hội và môi trường ở
Phillipine. Nguyên lý cơ bản của phương pháp này là sử dụng phương pháp phân
tích đa diện của Nikamp (1987) [46]. Phương pháp cho phép đánh giá hiệu quả
tổng hợp các chỉ tiêu kinh tế, xã hội và sinh thái đối với các hệ canh tác. Tuy
nhiên, phương pháp này cũng có những hạn chế nhất định. Khi kết hợp các
chỉ tiêu với nhau trong chỉ tiêu tổng hợp chung có thể xảy ra hiện tượng các
chỉ tiêu thứ yếu lấn át các chỉ tiêu quan trọng do các chỉ tiêu đưa vào tham gia
tính tốn không đồng nhất.
(3) Nghiên cứu về HQMT
HQMT mà rừng NLKH mang lại được thể hiện ở nhiều mặt, đó là: khả
năng giữ nước, bảo vệ đất chống xói mịn v.v…Những vấn đề này cũng được
nhiều tác giả nghiên cứu.



8

a) Khả năng giữ nước của đất rừng
Nước thấm vào đất sẽ chiếm lĩnh các khoảng hổng khơng khí trong đất,
sau đó dần dần chuyển động xuống phía hướng mạch nước ngầm. Lượng
nước do ảnh hưởng của trọng lực chảy xuống phía dưới đó là nước trọng lực.
Một số dạng nước khác được giữ lại trong đất dưới ảnh hưởng của năng lượng
bề mặt của đất và dưới ảnh hưởng của lực mao quản. Đó là dạng nước hấp
phụ chặt, hấp phụ hờ, nước mao quản.
Theo Rode và Koloskốp, độ trữ ẩm hấp phụ cực đại là lượng nước lớn
nhất mà đất giữ lại nhờ lực hấp phụ, hoặc nói một cách khác là lượng nước
lớn nhất của nước liên kết chặt. Theo Lêbêđev, độ trữ ẩm phân tử cực đại là
lượng nước lớn nhất được giữ lại trong đất nhờ lực phân tử bao gồm nước hút
ẩm khơng khí cực đại và nước màng. Theo Rôđe (1952,1963,1969), Rôzôp
(1936), Astapôp (1943), Katriski (1970) độ trữ ẩm cực đại là lượng nước lớn
nhất mà đất giữ lại được sau khi nước trọng lực đã rút chảy và khơng có hiện
tượng dâng mao quản từ dưới mạch nước ngầm lên.
Nghiên cứu về khả năng giữ nước của đất rừng, Trung Quốc thường
dùng lượng nước bão hoà phi mao quản trong đất rừng để tính tốn, theo kết
quả nghiên cứu, Hà Đơng Ninh (1991) - dẫn theo Bùi Hiếu (2002) [13], mỗi
ha đất rừng tàng trữ được lượng nước là 641-679 tấn/năm. Trung tâm thực
nghiệm Gunnarsholt giới thiệu cơng trình nghiên cứu về chu kỳ tính tốn độ
ẩm đất tại rừng dựa trên ngun tắc: tính tốn thể tích lớp bề mặt, phẫu đồ thể tích
thế năng nước trong đất.
Nhìn chung những nghiên cứu về khả năng giữ nước của đất của các
tác giả là đa dạng, bước đầu đã có những kết quả nhất định có thể áp dụng vào
thực tế NLN.


9


b) Khả năng bảo vệ đất chống xói mịn
Cơng trình nghiên cứu đầu tiên về xói mịn đất và dịng chảy được thực hiện
bởi nhà bác học Volni người Đức trong thời kỳ 1877 đến 1885 (Hudson N,
1981[15]). Những ô thí nghiệm được sử dụng để nghiên cứu ảnh hưởng của nhiều
nhân tố như thực bì, loại đất, độ dốc mặt đất, lượng mưa tới dịng chảy và xói mịn
đất. Trong cơng trình này Volni cũng nghiên cứu ảnh hưởng của loại đất và độ dốc
mặt đất tới dòng chảy và xói mịn đất. Tuy nhiên, phần lớn các kết luận chưa được
định lượng một cách rõ ràng.
Bằng các thí nghiệm trong phòng, Ellison (Hudson N, 1981 [15]) thấy rằng
các loại đất khác nhau có biểu hiện khác nhau trong các pha của xói mịn đất do
nước. Ellison là người đầu tiên phát hiện ra vai trò của lớp phủ thực vật trong việc
hạn chế xói mịn đất và vai trò cực kỳ quan trọng của hạt mưa rơi đối với xói mịn.
Phát hiện của Ellison đã mở ra một phương hướng mới trong nghiên cứu xói mịn
đất, đã làm thay đổi quan điểm nghiên cứu về xói mịn và khẳng định khả năng bảo
vệ đất của lớp thảm thực vật. Nó đã mở ra phương hướng sử dụng cấu trúc thảm
thực vật trong các biện pháp chống xói mịn nhằm bảo vệ độ phì của đất. Các
nghiên cứu xói mòn bắt đầu chuyển sang nghiên cứu định lượng, xác định cơ chế
xói mịn , tìm cơng thức tốn học để mơ phỏng q trình xói mịn. Nhờ các phương
tiện hiện đại người ta đã tiến hành nghiên cứu xói mịn khơng chỉ trong điều kiện tự
nhiên mà cả trong điều kiện nhân tạo (mưa nhân tạo, độ dốc nhân tạo, độ che phủ
nhân tạo). Các nhà nghiên cứu nổi tiếng trong giai đoạn này là: Ellison (Hudson N,
1981[15]), Wischmeier W.H, (1978) [50], Kirkby M.J và Chorley (1967) [41]…
Kết quả quan trọng của nghiên cứu xói mịn và khả năng bảo vệ đất trong
giai đoạn này là xây dựng được phương trình mất đất ở trường Đại học Tổng hợp
Pardiu (Mỹ) vào cuối năm 1950 (Hudson N, 1981[15]). Sau đó phương trình này
được W.H.Wischmeier hồn chỉnh dần (Wischmeier W.H, (1978) [50]). Phương
trình mất đất đã làm sáng tỏ vai trị của từng nhân tố ảnh hưởng tới xói mịn. Nó còn



10

có tác dụng định hướng cho nhiều nghiên cứu nhằm xác định quy luật xói mịn và
nghiên cứu các mơ hình canh tác bền vững ở các khu vực có điều kiện địa lý khác
nhau. Tuy nhiên, sử dụng phương trình mất đất phổ dụng vẫn gặp phải những khó
khăn nhất định địi hỏi phải có những nghiên cứu bổ sung để điều chỉnh các hệ số
cho phù hợp với điều kiện địa lý, địa chất, thổ nhưỡng, tập quán canh tác và đặc
tính cây trồng ở từng địa phương.
Kết quả nghiên cứu của G. Fiebiger (1993) [38] xác nhận rằng, nguy cơ xói
mịn đất dưới tầng cây gỗ có thể tăng lên do giọt mưa dưới tán rừng có kích thước
lớn hơn. Những lồi cây có phiến lá to (như lá tếch – Techtona grandis) thường tạo
ra các giọt nước ngưng đọng với kích thước lớn, nên khi rơi từ tán lá trên cao xuống
sẽ có sức cơng phá bề mặt đất lớn hơn so với sức công phá của giọt mưa tự nhiên
trên đất trống. Loài Albizzia falcatarica với tầng tán cao hơn 20 m so với mặt đất,
tạo ra giọt mưa có năng lượng gây xói mịn bằng 102% so với năng lượng của giọt
mưa ở nơi trống. Loài Anthocephalus chinensis với phiến lá to và tầng tán cao 10
m, lại tạo nên những hạt nước mưa có năng lượng gây xói mịn bằng 147% so với
năng lượng của hạt mưa rơi tự nhiên (G. Fiebiger, 1993 [38]). Vì vậy, một trong
những tiêu chí chọn loại cây trồng rừng phòng hộ đầu nguồn ở vùng nhiệt đới là
chọn cây có tán lá dày rậm nhưng phiến lá phải nhỏ, càng nhỏ càng tốt. Những
nghiên cứu khác cho thấy rằng: cây bui, thảm tươi và vật rơi rụng có vai trị rất lớn
trong việc hạn chế xói mịn đất. Nếu chúng bị phá trụi hoặc bị lấy đi khỏi đất rừng
thì tác dụng hạn chế xói mịn đất của rừng sẽ giảm. FAO (1994a, 1994b) [8], [9] đã
tổng kết về nhiều tài liệu nghiên cứu về xói mịn đất dưới các loại rừng và các kiểu
sử dụng đất khác nhau và đã chỉ ra rằng, q trình tích lũy sinh khối là cơ chế sinh
vật học chủ yếu để khống chế xói mịn đất.
Ở Trung Quốc, trong lĩnh vực nghiên cứu hiệu quả nuôi dưỡng nguồn nước,
bảo vệ đất của rừng phòng hộ đã đề cập nhiều về ảnh hưởng của tán rừng đối với
động năng của mưa dưới góc độ năng lượng (Dư Tân Hiểu, 1991 [53]); đã phân



11

tích tác dụng của bộ rễ cây trên bề mặt đất dốc đối với sự ổn định của thành phần cơ
giới để nghiên cứu tác dụng khống chế xói mịn trọng lực của rừng dưới góc độ lực
học; nghiên cứu về hệ số độ thô của bề mặt đất rừng để phân tích tác dụng cản trở
làm chậm tốc độ dòng chảy trên mặt đất rừng (Trương Hồng Giang, 1993 [52]). Lý
Xuân Dương (1991 – dẫn theo Vu Chí Dân và Vương Lễ Tiên, 2001 [51]) đã sử
dụng các phương pháp đóng đinh, phương pháp vịng nhuộm màu, phương pháp so
sánh, phương pháp rãnh định lượng, để xác định lớp đất mặt bị mất trên bề mặt đất
của 96 bãi đo dòng chảy khác nhau thuộc khu Mạo Nhi Sơn, sau đó lấy lượng ngăn
giữ nước của thảm thực vật và lượng hút giữ nước của thảm mục làm biến số để
xây dựng mơ hình hồi quy phi tuyến tính về lượng đất xói mịn.
(4) Nghiên cứu về rừng NLKH
Trên thế giới, lịch sử phát triển NLKH có từ rất lâu, khó có thể xác
định một cách chính xác thời điểm mà tại đó cội nguồn của các hệ thống
NLKH ra đời. Mặc dù vậy, người ta vẫn thừa nhận rằng sự hình thành các hệ
thống NLKH cận đại gắn liền với sự hình thành và phát triển của hai nghành
khoa học: nông học và lâm học. Tiền sử NLKH là ở Châu Âu, từ thời trung cổ
nhân dân đã có tập quán là chặt hạ cây rừng, phát bãi, phá rừng làm nương
rẫy sau đó trồng cây nơng nghiệp kết hợp cây gỗ (có thể gieo hạt cây gỗ
trước, đồng thời hoặc sau khi đã trồng cây nông nghiệp). Hệ thống này được
phát triển phổ biến ở Phần Lan cho tới cuối thế kỷ XIX và được duy trì ở một
số vùng trên nước Đức cho đến tận những năm 20 của thể kỷ XX.
Đã có nhiều tác giả định nghĩa về NLKH như: Cete – 1977, King và
Chedler – 1978, Comtre – 1979…Song định nghĩa hiện nay được coi là đầy
đủ và được thừa nhận rộng rãi là định nghĩa của Lundgren B.O – 1982 như
sau: “NLKH là tên gọi chung cho hệ thống kỹ thuật sử dụng đất, trong đó
những cây thân gỗ sống lâu năm (cây gỗ, cây bụi, các cây họ cau – dừa, tre –
nứa,…) được kết hợp một cách có tính tốn trên cùng một đơn vị diện tích



12

kinh doanh với các loài cây thân thảo hoặc chăn ni”. Sự kết hợp này có thể
tiến hành đồng thời hoặc kế tiếp nhau về mặt không gian và thời gian. Trong
hệ thống NLKH, cả yếu tố sinh thái học và yếu tố kinh tế có tác dụng qua lại
lẫn nhau với các bộ phận hợp thành hệ thống đó”.
Như vậy, ta có thể nhận thấy đặc điểm chủ yếu của hệ thống NLKH đó là:
- NLKH thơng thường có hai hay nhiều lồi cây (có thể gồm cả thực vật
và động vật) nhưng ít nhất một trong số chúng phải là loài cây gỗ sống lâu năm.
- Một hệ thống NLKH ln có hai hoặc nhiều sản phẩm đầu ra.
- Chu kỳ của hệ thống NLKH luôn lớn hơn 1 năm.
- Một hệ thống NLKH dù đơn giản nhất cũng phức tạp hơn là một hệ
thống độc canh cả về phương diện kinh tế học và sinh thái học (bao gồm cả
cấu trúc và chức năng sinh thái học).
NLKH có vai trị quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề về lương
thực, thực phẩm, hạn chế suy giảm về tài nguyên rừng, bảo vệ và nâng cao độ
phì của đất. Chính vì lẽ đó, mà ngay từ các kỳ họp năm 1967 và 1969 của tổ
chức lương thực và nông nghiệp thế giới (FAO) đã quan tâm đến vấn đề này
và đi đến một sự thống nhất đúng đắn là: “áp dụng các biện pháp NLKH là
phương pháp tốt nhất để sử dụng đất rừng nhiệt đới một cách hợp lý, tổng
hợp, nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm và sử dụng lao động dư
thừa đồng thời thiết lập lại cân bằng sinh thái của môi sinh” [36].
Một trong những nghiên cứu thành công là : đã tìm ra hệ thống canh tác
kỹ thuật trên đất dốc (SALT) nhằm sử dụng đất dốc bền vững đã được trung
tâm đời sống nông thôn Bapstit Mindanao philipin tổng kết, hoàn thiện và
phát triển từ những năm 1970 đến nay. Cho đến năm 1992, đã có bốn mơ hình
tổng hợp về kỹ thuật canh tác nông nghiệp bền vững trên đất dốc được các tổ
chức quốc tế ghi nhận đó là:



13

- Mơ hình SALT1 (Slopping Agriculture Land Technology) đây là mơ
hình tổng hợp trên cơ sở các biện pháp bảo vệ đất với sản xuất lương thực. Kỹ
thuật này với cơ cấu cây trồng gồm: 25% cây lâm nghiệp + 25% cây lưu niên
(cây nông nghiệp) + 50% cây nông nghiệp hàng năm.
- Mơ hình SALT2 (Simple Agro - Livestock Technology) đây là mơ hình
kinh tế nơng súc kết hợp đơn giản với cơ cấu sử dụng đất là 40% dành cho sản
xuất nông nghiệp + 40% cho chăn nuôi + 20% làm nhà và chuồng trại.
- Mơ hình SALT3 (Sustainable Agro - forest Land Technology) đây
là mơ hình NLKH bền vững với cơ cấu sử dụng đất gồm 40% đất dành cho
nông nghiệp + 60% dành cho lâm nghiệp. Mơ hình canh tác này địi hỏi
phải có sự đầu tư cao cả về nguồn lực, vốn đầu tư cũng như kiến thức, kỹ
năng và kinh nghiệm.
- Mơ hình SALT4 (Small Agro – fruit Livehood Technology) đây là mơ
hình kỹ thuật sản xuất nông nghiệp kết hợp với cây ăn quả trên quy mơ nhỏ.
Trong mơ hình này, ngồi đất dành cho trồng cây lương thực, trồng cây lâm
nghiệp, hàng rào xanh, còn dành ra một phần đất để trồng cây ăn quả với cơ
cấu sử dụng đất gồm: 60% đất dành cho lâm nghiệp + 15% đất dành cho nông
nghiệp + 25% đất dành cho cây ăn quả.
Để đánh giá các hệ thống NLKH hiện có vào tháng 9 năm 1982
chương trình điều tra thống kê các hệ thống NLKH (A.F.S.I – Agroforestry
Systems Inventory) được đưa vào hoạt động. Kết quả của chương trình này
cho phép ICRAF xây dựng hệ thống phân loại của các hệ sử dụng đất trên
thế giới, với những hệ thống phân loại dựa trên cơ sở: cấu trúc, chức năng,
tương quan KT - XH, trình độ quản lý và ảnh hưởng sinh thái học của hệ
thống. Trên cơ sở phân loại đó, các nhà khoa học đã phân loại các hệ thống
và các phương thức NLKH trên thế giới bao gồm:



14

+ Hệ Nông – Lâm: cây trồng bao gồm cả cây gỗ, cây bụi và các cây
thân thảo (Những cây nông nghiệp, công nghiệp và cây lâm nghiệp)
+ Hệ Lâm – Súc: cây gỗ, đồng cỏ và chăn nuôi dưới tán cây gỗ
+ Hệ Nông – Lâm – Súc: các cây nông nghiệp, lâm nghiệp kết hợp với
đồng cỏ chăn nuôi gia súc
+ Các hệ thống khác (các vùng trồng cây đa dụng, nuôi ong với cây gỗ,
nuôi trồng thủy sản với cây gỗ)
NLKH đã được quan tâm nghiên cứu ở nhiều nơi trên thế giới. Tuy
nhiên, việc xây dựng các hệ thống NLKH và áp dụng các phương thức canh
tác phù hợp với các điều kiện sinh thái, nhân văn từng vùng, từng khu vực
khác nhau vẫn đang là vấn đề cần thiết được tiếp tục nghiên cứu. Hơn nữa, để
đánh giá hiệu quả của các mơ hình NLKH, sự phù hợp của các phương thức
canh tác cũng cần được thảo luận và thống nhất.
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Một số quan điểm về cấu trúc, hiệu quả KT – MT của rừng NLKH
(1) Quan điểm về cấu trúc
Phân bố số cây theo đường kính, phân chia tầng thứ và phân bố số cây
theo chiều cao, những đặc trưng này thường được mô tả theo đơn vị lâm phần
của Đồng Sỹ Hiền (1974) [11]. Theo tác giả, đó là: “tổng thể những cây hình
thành một khoảnh rừng thuần nhất nhiều hay ít. Vì thế, trong thực tiễn rừng
tự nhiên nhiệt đới nước ta chỉ cần có những cây dù khác loài khác tuổi mọc
thành rừng, nghĩa là cùng nhau sinh trưởng trên một đơn vị diện tích nào đó
với một mật độ nhất định, hình thành một tàn che thì có thể tạo thành hồn
cảnh rừng và khoảnh rừng ấy hình thành một đơn vị sinh vật học, một lâm
phần có quy luật xác định”. Luận điểm này đã được các nhà nghiên cứu cấu
trúc rừng tự nhiên nước ta vận dụng trong các cơng trình khoa học của mình.



15

(2) Quan điểm về HQKT
HQKT là một phạm trù kinh tế phản ánh về mặt chất lượng của các
hoạt động kinh tế. Mục đích sản xuất KT - XH là đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao về vật chất và tinh thần của toàn xã hội khi nguồn lực sản xuất xã hội
ngày càng trở lên khan hiếm, yêu cầu công tác quản lý kinh tế là phải nâng
cao chất lượng hoạt động kinh tế dẫn đến xuất hiện các phạm trù HQKT.
(3) Quan điểm về HQMT
Đánh giá HQMT là cơng cụ thơng tin có nhiệm vụ phân tích, xác định
HQMT, các chi phí mơi trường và tổn thất tài nguyên thiên nhiên là do hoạt
động của con người gây ra. Theo tác giả Nguyễn Thành Bang (1995) [1],
HQMT chính là hiệu quả về mặt sinh thái mà rừng mang lại trong việc tăng
lượng nước thấm vào đất, giảm thiểu q trình xói mịn trong q trình phát
triển của rừng.
(4) Quan điểm về rừng NLKH
Quan niệm về rừng NLKH còn khá mới, chưa được nhiều tác giả nhắc
đến. Theo Phạm Văn Điển (2004) [6]: “rừng NLKH là rừng có sự tham gia
của cây lâm nghiệp với cây nông nghiệp hoặc vật ni, trong đó độ tàn che
của tán lá cây gỗ sống lâu năm chiếm từ 30% trở lên, chiều cao của cây gỗ
(cây lâm nghiệp, cây ăn quả) từ 5 mét trở lên”.
1.2.2. Thành quả nghiên cứu
(1) Nghiên cứu về cấu trúc
Nhiều tác giả trong nước đã tập trung nghiên cứu đặc điểm cấu trúc
rừng nhằm phục vụ kinh doanh, phòng hộ ổn định, sản xuất lâu dài liên tục.
Có thể điểm qua một số cơng trình như sau:
Trần Ngũ Phương (1970) [22] đã chỉ ra những đặc điểm cấu trúc của
thảm thực vật rừng miền Bắc Việt Nam trên cơ sở kết quả điều tra tổng quát



16

về tình hình rừng miền Bắc Việt Nam (1961÷ 1965) trong đó nhân tố cấu trúc
đầu tiên được nghiên cứu là tổ thành.
Đào Công Khanh (1996) [17], Bảo Huy (1993) [16] đã căn cứ vào tổ
thành lồi cây mục đích để phân loại rừng phục vụ cho việc xây dựng các
biện pháp lâm sinh. Lê Sáu (1996) [28] đã dựa vào hệ thống phân loại của
Thái Văn Trừng kết hợp với hệ thống phân loại của Loeschau, chia rừng ở
khu vực Kon Hà Nừng thành 6 trạng thái.
Trong những công trình nghiên cứu về cấu trúc rừng tại Việt Nam,
đáng chú ý nhất là cơng trình nghiên cứu của tiến sĩ khoa học Nguyễn Văn
Trương về “Quy luật cấu trúc rừng hỗn lồi” được cơng bố vào năm 1983
[33]. Theo tác giả, nghiên cứu đặc điểm lâm học của rừng phải tập trung làm
rõ những vấn đề về thành phần lồi cây, tìm hiểu về cấu trúc của từng loại
rừng, cấu trúc đứng, cấu trúc đường kính của rừng, phân bố số cây và tổng
diện ngang thân cây trên mặt đất, cấu trúc các nhóm lồi cây, sinh thái lồi
cây, tái sinh và diễn thế các thế hệ cây rừng. Từ đó dẫn đến những kết luận
logic cần thay đổi những biện pháp xử lý rừng có hiệu quả, vừa cung cấp
được gỗ, vừa nuôi dưỡng và tái sinh được rừng, thêm cơ sở khoa học để góp
phần giải đáp tốt bài tốn có ý nghĩa chiến lược đối với nghề rừng ở nước ta.
Trong nghiên cứu về cấu trúc đứng, ông không đi theo con đường cũ
của Paul maurand, W.Richards, Thái Văn Trừng là nghiên cứu cấu trúc đứng
rừng tự nhiên vẫn dừng lại ở dạng vẽ phẫu đồ đứng nhằm đem lại cho mọi
người một hình tượng về cấu trúc đứng, nhưng chưa làm sáng tỏ tính quy luật
của nó, nghĩa là mơ tả đối tượng là chính. Phân loại rừng theo định tính, theo
xu hướng hiện đại, ông đã dùng phương pháp toán học để tiếp cận nghiên cứu
của đối tượng rừng. Từ đó biểu diễn quy luật tự nhiên của rừng bằng định
lượng theo mơ hình tốn học. Như vậy, lần đầu tiên nước ta có một cơng trình



17

nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên bằng phương pháp toán sinh học. Phương
pháp này sẽ dẫn tới việc nắm vững những quy luật của rừng nhiệt đới.
Cơng trình khơng dừng lại việc tìm hiểu và phát hiện ra quy luật mà tác
giả còn phác hoạ ra khái niệm về cấu trúc rừng chuẩn có giá trị nâng cao lý
luận phục vụ cho thực tiễn. Có thể thấy rằng, trong thiên nhiên khơng có rừng
chuẩn và ngày nay trong q trình dẫn dắt cũng khó mà có thể đạt đến trạng
thái chuẩn, nhưng việc chuẩn hố rừng theo một mơ hình tốn học là một
sáng tạo. Từ đó, có thể vạch ra những định hướng cho quá trình xử lý rừng
tích cực nhất, đem lại hiệu quả tối ưu.
Năm 2008, tác giả Vũ Thị Thương [31] bước đầu cũng đã nghiên cứu
về cấu trúc rừng NLKH và đã cũng đề xuất được mơ hình cấu trúc hợp lý
(bao gồm cả cây lâm nghiệp và cây nông nghiệp) theo hướng nâng cao hiệu
quả KT – MT.
(2) Nghiên cứu về HQKT
Ở Việt Nam đánh giá hiệu quả kinh tế - môi trường của rừng được bắt
đầu đề cập tới trong một số năm gần đây. Có thể kể đến nghiên cứu về HQKT
của những mơ hình canh tác nơng nghiệp ở vùng Tuyên Quang của Viện kinh
tế sinh thái (Trần Thị Quế, 1996). Tuy nhiên, do thiếu thông tin về nhiều mặt
mà trong đánh giá hiệu quả còn nhiều yếu tố kinh tế chưa được tính đến.
Trong những năm gần đây nghành lâm nghiệp cũng tiến hành nghiên
cứu đánh giá hiệu quả của dự án phát triển lâm nghiệp, đặc biệt các dự án
PAM, dự án 327 v.v… (Hoàng Xuân Tý, 1994). Tuy nhiên, vì thiếu những
cơ sở khoa học cần thiết, nên phần lớn các nghiên cứu đánh giá hiệu quả
KT - MT trong lâm nghiệp đều áp dụng hình thức tiếp cận lý sinh.



18

Ngồi ra, có thể kể đến một số luận văn thạc sỹ của các tác giả Trần
Mạnh Hùng (2000), Đoàn Thị Mai (1997) v.v… Các tác giả cũng đã đánh giá
được HQKT của các mơ hình NLN mang lại.
(3) Nghiên cứu HQMT
a) Khả năng giữ nước của đất rừng
Như chúng ta biết khả năng giữ nước của đất phụ thuộc chặt chẽ vào
khả năng bốc hơi vật lý của đất. Theo Hồng Văn Thế (1986) thì khả năng
bốc hơi vật lý là khả năng bốc hơi từ đất trần còn gọi là bốc hơi khoảng trống,
nó phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, thời tiết, địa hình.
Nghiên cứu ảnh hưởng của độ ẩm đất đối với cường độ bốc hơi thực tế
được Trần Viết Ổn và Trần Công Tấu (1992) [21] tìm hiểu trên đất Feralit
vàng đỏ phát triển trên phù sa cổ Acrisols huyện Ba Vì – Hà Tây. Kết quả cho
thấy lượng bốc hơi phụ thuộc chặt chẽ vào độ ẩm đất qua phương trình:
Et = 0,18W – 2,7
Trong đó: Et là lượng bốc hơi, W là độ ẩm
Theo Trần Công Tấu, Nguyễn Thị Dần (2000) khả năng giữ nước của
đất có quan hệ chặt chẽ với thành phần cơ giới đất. Đất có thành phần cơ
giới nặng nhất, khả năng giữ nước cũng lớn nhất và độ trữ ẩm cực đại có
giá trị lớn nhất.
b) Khả năng bảo vệ đất chống xói mịn
Ở Việt Nam, các cơng trình nghiên cứu bảo vệ đất đầu tiên được tiến
hành từ những năm 1960. Nghiên cứu trong lĩnh vực này được thực hiện ở
Viện nơng hố thổ nhưỡng, trường Đại học tổng hợp, Đại học nông nghiệp, Đại
học lâm nghiệp, Đại học sư phạm Hà Nội và một số trung tâm nghiên cứu
khác, Huỳnh Đức Nhân (1993) [45], O.Kardell (1993) [40], Thái Phiên,
Nguyễn Tử Siêm (1991) [29], Vương Văn Quỳnh v.v… phương tiện hiện đại,



19

nên những cơng trình nghiên cứu cịn ít, chưa hệ thống, các phương pháp
nghiên cứu còn đơn giản (bãi đo dịng chảy tạm thời, đóng cọc đo chiều cao
mặt đất v.v…).
Đầu những năm 1990, khi nước ta thực hiện chương trình 327 với đối
tượng chủ yếu là rừng phịng hộ, nghiên cứu về thủy văn rừng cũng được đẩy
mạnh một bước. Nghiên cứu của Võ Đại Hải (1996) [10], Nguyễn Ngọc Lung
và Võ Đại Hải (1997) [19] cho thấy vai trị điều tiết nước, chống xói mịn đất
của rừng rất lớn: lượng nước mưa bị tán rừng ngăn cản dao động từ 5,7% đến
11,6% tùy thuộc vào từng loại rừng; lượng nước tạo thành dòng chảy ngầm và
các dạng khác từ 88,2% đến 92,5% tổng lượng nước mưa; lượng nước mưa
tạo thành dịng chảy mặt ở những nơi có rừng rất thấp, qua đó hạn chế khả
năng hình thành lũ và lũ qt. Đây là những cơng trình nghiên cứu tương đối
toàn diện về thủy văn rừng ở nước ta, từ khả năng giữ nước của tán rừng,
dòng chảy mặt, dòng chảy men thân, tốc độ thấm nước,… cho tới khả năng
giữ nước của tầng thảm tươi cây bụi, lớp thảm mục,…Kết quả nghiên cứu này
bước đầu đã xây dựng được một số cơ sở khoa học cho việc xây dựng rừng
phòng hộ giữ nước, giữ đất ở nước ta trong thời gian qua. Tuy vậy, do số các
dạng rừng nghiên cứu chưa được nhiều, đặc biệt là các dạng rừng trồng nên
khả năng ứng dụng trong thực tiễn chưa cao.
Một thành quả nữa được thể hiện rõ nét qua cơng trình nghiên cứu của
Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại Hải (1997) [19], là việc xác định cấu trúc hợp
lý của thảm thực vật rừng chống xói mịn đất. Hai tác giả đã xây dựng được
bảng tra hệ số thảm thực vật (hệ số C) tương ứng với đặc điểm và cấu trúc của
một số thảm rừng.
Vương Văn Quỳnh và cộng sự (1994a, 1994b, 1996, 1997, 1999) [23,
24, 25, 26] đã xây dựng phương trình dự báo xói mịn đất ở Việt Nam.



20

Từ cơng thức tính cường độ xói mịn đất, Vương Văn Quỳnh và cộng
sự (1999) [26] đã xác định tiêu chuẩn bảo vệ đất của rừng và lớp phủ thực vật
nói chung thỏa mãn điều kiện d < 0,8 mm/năm (tốc độ hình thành đất nhiệt
đới trong điều kiện có canh tác, Hudson N, 1981 [15]).
Đối với cây trồng nông nghiệp, Thái Phiên, Nguyễn Tử Siêm (1999)
[29] cho biết ở những nơi đất trống (thường có cỏ tự nhiên) hoặc trồng cây
theo phương thức bình thường (khơng áp dụng các biện pháp bảo vệ đất) thì
lượng đất xói mịn hàng năm từ 7 – 23 tấn/ha.
Tóm lại, nghiên cứu vai trò giữ nước của rừng ở nước ta đã thu được
một số thành quả chính như sau: đã định lượng được những thành phần cân
bằng nước chủ yếu của một số trạng thái rừng, gồm cả rừng tự nhiên và rừng
trồng; đã xác định được hệ số bảo vệ đất cho một số thảm thực vật (hệ số C)
chủ yếu ở Việt Nam trên cơ sở áp dụng mơ hình tốn về xói mịn đất của
Wischmeier và W.H.Smith; đã xây dựng được phương trình thử nghiệm dự
báo xói mịn đất ở Việt Nam dựa trên các chỉ tiêu: độ dốc mặt đất, hệ số xói
mịn mưa, độ xốp tầng đất mặt, độ tàn che tầng cây cao, độ che phủ của cây
bụi thảm tươi, độ che phủ của vật rơi rụng, thảm mục; đã bắt đầu sử dụng
phương pháp nghiên cứu định lượng với sự hỗ trợ của các mô hình tốn và
máy tính điện tử. Những thành quả đó đã đặt nền tảng tốt cho việc xác lập cơ
sở khoa học quản lý rừng phòng hộ nguồn nước.
(4) Nghiên cứu về rừng NLKH
Nông dân Việt Nam đã sáng tạo nhiều hệ thống NLKH từ rất lâu đời,
các mơ hình NLKH có thể gặp ở mọi miền trung du và miền núi. Tuy vậy,
tổng kết đánh giá trên quan điểm khoa học nghiên cứu về NLKH mới được du
nhập vào Việt Nam trong mấy thập kỷ gần đây. Chương trình nghiên cứu
khoa học kỹ thuật cấp nhà nước về NLKH từ năm 1981 – 1985 (chương trình
số 0402) đã xúc tiến một bước quan trọng trong việc tổng kết và xây dựng các



21

mơ hình NLKH mới cho từng vùng, đồng thời nghiên cứu các chính sách có
liên quan đến việc phát triển sản xuất NLKH.
Với sự hỗ trợ của tổ chức nông, lâm, gỗ, củi khu vực châu Á Thái Bình
Dương (dự án GCP/RAS/131/NET), hội thảo quốc gia về NLKH ở khu vực
trung du và miền núi Việt Nam đã được tổ chức ở trường Đại học lâm nghiệp
Việt Nam vào tháng 10 năm 1992, một trong những nội dung chính của hội
thảo là đề cập tới các mơ hình NLKH trên các vùng sinh thái Tây Bắc, Đông
Bắc, Duyên hải miền trung và Tây Nguyên, ngoài ra hội thảo cũng đề cập tới
một số vấn đề có liên quan đến NLKH.
Theo Từ Quang Hiển (1994) [12] xét về thành phần, một hệ thống
NLKH gồm có:
- Các cây thân gỗ sống lâu năm.
- Các cây thân thảo (cây nông nghiệp).
- Vật nuôi (gia súc, gia cầm, thủy sản, ong…).
Theo Trần Đức Viên, Phạm Chí Thành và tập thể tác giả (1995) [34] thì
trong 4 triệu người dân tộc ít người có khoảng 2879600 người thuộc 482512
hệ thống bằng phương thức CTNR. Trong đó người Tày 7%, người Nùng
16%, người Thái 45%... Trừ người kinh ra thì 100% dân tộc ít người khác đều
có canh tác nương rẫy. Vì đất dốc chiếm tỷ lệ lớn trong tổng diện tích tự
nhiên của cả nước nên cần có phương hướng sử dụng và bảo vệ đất dốc trên
quan điểm bền vững. Các tác giả đã đưa ra các biện pháp kỹ thuật như:
- Ở độ dốc dưới 120 dùng các biện pháp canh tác nông nghiệp.
- Ở độ dốc từ 120 đến 250 có thể áp dụng các biện pháp:
+ Che phủ bằng thảm thực vật bằng các hình thức NLKH
+ Che phủ bằng vật không sống như: rơm, các tấm nhựa, nilon…
+ Các biện pháp làm thềm bậc thang, rãnh sườn dốc



22

- Ở độ dốc trên 250 dùng các biện pháp lâm nghiệp
Theo Vũ Biệt Linh (1986) [18] về phương diện sinh thái, việc kết hợp
hài hòa NLN trong sử dụng đất đai là một vấn đề mang tính nguyên tắc sống
còn, nhưng về phương diện tận dụng đất sản xuất ra sản phẩm nơng nghiệp –
lâm nghiệp, NLKH cũng có tầm quan trọng lớn.
Theo Lê Khắc Côi (1982) [4] sản xuất NLKH diễn ra trên cơ sở các
điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, truyền thống địa phương, kinh nghiệm sản
xuất rất đa dạng, nó có thể quy về một số loại mơ hình chính:
- Cùng tồn tại trong không gian và thời gian ở mức độ khác nhau.
- Kế tiếp nhau về khơng gian và thời gian có các mơ hình NLKH theo
kiểu ln canh.
Theo kết quả nghiên cứu của GS. Nguyễn Đậu và cộng sự (1991) [5] về
các hệ thống canh tác NLN ở vùng trung du, miền núi phía bắc Việt Nam cho
thấy: mơ hình canh tác cây lương thực (Sắn) xen cây Đậu đỗ, Lạc với băng
phân xanh chống xói mịn trên các loại đất phát triển trên sa thạch, phiến
thạch sét và phù sa cổ, cho thấy đó là biện pháp giải quyết phân bón tại chỗ có
hiệu quả cao để thâm canh, tăng năng suất sắn trên đất đồi dốc.
Từ năm 1996 Việt Nam và Phần Lan bắt đầu chương trình lâm nghiệp
thí điểm phát triển các hệ thống NLKH tại chợ Đồn – Bắc Kạn. Nhiều mơ
hình NLKH đã được xây dựng trong vùng và đã được các chuyên gia đánh
giá cao. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cũng gặp phải nhiều vấn đề với
các xã vùng sâu, vùng xa thì công tác vận động người dân thực hiện canh tác
NLKH cịn nhiều khó khăn, nghèo đói làm cho người dân nghĩ nhiều đến thu
nhập trước mắt hơn là những hiệu quả lâu dài đối với mơi trường. Vì vậy,
các phương thức NLKH mà chương trình đã áp dụng (Taungya và băng chắn



23

xói mịn) mới chỉ thành cơng ở một số nơi gần đường giao thơng cũng như
nơi có nhiều ruộng nước.
Từ thực tiễn NLKH ở Việt Nam, các kết quả nghiên cứu cho những
nhận xét sau: NLKH đã được coi là chủ trương, chiến lược phát triển NLN
bền vững của Đảng và Nhà nước ta với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội
miền núi. Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn phát
triển NLKH, đồng thời cũng cần phải xây dựng phương pháp luận đánh giá
hiệu quả mơ hình NLKH.

 Tóm lại, tổng quan các cơng trình nghiên cứu đã cho phép rút ra một
số nhận xét dưới đây:
- Việc nghiên cứu về cấu trúc và hiệu quả KT - MT của rừng đã đạt
được những thành tựu nhất định, đã đưa ra được một số biện pháp kỹ thuật
nhằm nâng cao hiệu quả KT - MT của rừng.
- Tuy nhiên, việc nghiên cứu về cấu trúc và HQKT của rừng NLKH
vẫn cịn ít ỏi đặc biệt là ở vùng ven hồ thuỷ điện tỉnh Hồ Bình, nên chưa có
cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc kế thừa các nghiên cứu đó vào việc xây
dựng và phát triển rừng NLKH ở KVNC. Điều này, một lần nữa thể hiện sự
cần thiết của Đề tài nghiên cứu và có tác dụng định hướng mục tiêu của Đề tài
nhằm xây dựng rừng NLKH đạt cấu trúc hợp lý.


24

Chương 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Về lý luận

Xác định được một số chỉ tiêu cấu trúc và hiệu quả KT – MT của
rừng NLKH.
2.1.2. Về thực tiễn
Đề xuất được một số giải pháp kỹ thuật và KT - XH nhằm nâng cao hiệu
quả KT - MT của rừng NLKH.
2.2. Giới hạn nghiên cứu
2.2.1. Về địa bàn nghiên cứu
Địa bàn nghiên cứu cụ thể của Đề tài là vùng phòng hộ xung yếu ven
hồ thuỷ điện thuộc xã Thung Nai, huyện Cao Phong và xã Vầy Nưa, huyện
Đà Bắc, tỉnh Hồ Bình.
2.2.2. Về đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu hai nhóm đối tượng sau:
Bảng 2-1: Các đối tượng nghiên cứu của Đề tài
Loại rừng NLKH

HGĐ người dân và một số hoạt động KT-XH

KTT + N

HGĐ người dân

KTT + S

Một số hoạt động KT – XH tại KVNC

BĐT + LN
KTT + S + N


25


`(Nguồn: Số liệu điều tra hiện trường, 2010)

2.2.3. Về nội dung nghiên cứu
- Đề tài chỉ nghiên cứu một số chỉ tiêu quan trọng có liên quan đến cấu
trúc và hiệu quả KT - MT của rừng NLKH.
- Những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả môi trường như: ảnh hưởng của rừng
đến khí hậu, đa dạng sinh học, v.v… khơng thuộc phạm vi nghiên cứu của Đề
tài.
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Nghiên cứu một số chỉ tiêu biểu thị cấu trúc của rừng NLKH
- Thành phần loài cây
- Một số nhân tố cấu trúc hình thái, gồm: mật độ, độ tàn che, chiều cao
của tầng cây cao, độ che phủ của cây bụi thảm tươi, độ che phủ của vật rơi
rụng và thảm mục.
2.3.2. Nghiên cứu một số chỉ tiêu biểu thị HQKT của rừng NLKH
- Chi phí
- Thu nhập
- Giá trị hiện tại của lợi nhuận ròng (NPV)
- Tỷ suất giữa thu nhập và chi phí (BCR)
- Tỷ lệ lãi suất hồi quy (IRR)
- Chu kỳ kinh doanh
2.3.3. Nghiên cứu một số chỉ tiêu biểu thị HQMT của rừng NLKH
- Một số chỉ tiêu phản ánh độ phì của đất rừng NLKH
- Khả năng giữ nước tiềm tàng của đất rừng NLKH
- Khả năng bảo vệ đất rừng giảm xói mịn


×