BÀI TIỂU LUẬN
MƠN:LỊCH SỬ BÁO CHÍ THẾ GIỚI
Tên đề tài “ Tại sao báo chí Châu Á có tính chính trị cao, phân
tích, chứng minh”
I. PHẦN MỞ ĐẦU.
Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hóa nhân loại, báo
chí là một hiện tượng xã hội. Báo chí ra đời do nhu cầu thơng tin –
giao tiếp, giải trí và nhận thức của con người. Một khi xã hội phát
triển, đời sống con người được nâng cao, trình độ dân trí ngày càng
tăng, thì báo chí cũng bước lên những tầm cao mới. Đặc điểm xã
hội, con người ảnh hưởng sâu sắc đến báo chí. Vì thế, sự ra đời và
phát triển của báo chí khác nhau ở những nơi khác nhau. Mỗi quốc
gia, mỗi khu vực, mỗi châu lục đều có những đặc điểm phát triển
báo chí của riêng mình, do sự khác nhau về môi trường kinh tế, môi
trường dân tộc, môi trường chính trị…
Trong khn khổ ngắn gọn của bài luận này, tơi xin đề cập đến
sự hình thành và phát triển báo chí ở châu lục trong đó trọng tâm là
tính chính trị của nền báo chí đơng dân nhất trên thế giới – Châu Á.
Bởi hiện nay, Châu Á là một trong những trung tâm báo chí lớn nhất
thế giới. Sự phát triển và tầm ảnh hưởng của nền báo chí châu lục
này đến những châu lục khác trên thế giới là vô cùng lớn và mạnh
mẽ. Thiết nghĩ, sự đánh giá khách quan sự hình thành và phát triển
của báo chí Châu Á trong đó có tính cả yếu tố chính trị là quan
trọng và mang tính thời sự cao.
Hơn nữa, việc đánh giá này sẽ đem lại cái nhìn tương quan về
nền báo chí trong khu vực và châu lục, giữa báo chí Châu Á với báo
chí ở các châu lục khác giúp cho chúng ta có thể đánh giá được
những điểm mạnh, điểm yếu, những tiềm năng, nét đặc trưng và
khác biệt với báo chí châu lục khác; đồng thời chỉ ra khuynh hướng,
con đường phát triển cho báo chí Châu Á.
2
II. PHẦN NỘI DUNG (TỔNG QUAN SỰ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BÁO CHÍ CHÂU Á).
1.SỰ HÌNH THÀNH.
Mặc dù cơ sở của báo chí, đặc biệt là của báo in là kĩ thuật in và
giấy đều xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc - một quốc gia Châu Á,
nhưng báo chí ở lục địa này xuất hiện muộn hơn so với nền báo chí
ở Châu Âu hay Châu Mỹ.
Từ thế kỉ thứ III trước Công Nguyên, ở Trung Quốc đã xuất
hiện kĩ thuật in. Sau đó, nghề in ở đây bắt đầu vào đời Tống thế kỉ
thứ X. Ở Việt Nam, theo truyền thuyết nghề in có từ rất sớm, đặc
biệt là vùng đồng bằng sông Hồng ( Hà Nội, làng Bưởi, làng
Láng…). Có thuyết cho rằng, đất Luy Lâu xưa, một trung tâm Phật
giáo từ thế kỉ thứ I đến III đã khắc in Kinh Phật. Ở Nhật Bản, trước
khi xuất hiện kĩ thuật in ấn, đã có các “tờ báo” bằng đất nung có
khắc tin tức. Thế nhưng, do những cải tiến kĩ thuật, và trình độ phát
triển cao ở Châu Âu hay Châu Mỹ, nên ở các châu lục này báo chí
xuất hiện sớm hơn, với những thành tựu nổi bật và vượt trội so với
báo chí Châu Á.
Báo chí Châu Á chủ yếu được hình thành do nhu cầu truyền bá
những thông tư, mệnh lệnh của cấp trên xuống cấp dưới, những tác phẩm
mang đặc trưng rõ nét của những nền văn minh lớn (văn minh Trung
Hoa, văn minh Ấn Độ…), hay những sản phẩm của đời sống tôn giáo rất
phong phú, đa dạng ở châu lục này (Châu Á là cái nơi hình thành của hầu
hết tơn giáo trên thế giới)… Vai trị của báo chí Châu Á giai đoạn khởi
thuỷ, chủ yếu là:
3
Phục vụ tầng lớp thực dân và quý tộc;
Giao thương;
Truyền giáo;
Phát triển văn học và ngôn ngữ;
Phổ biến tin tức cấp trên đến người dân.
Một nét đặc trưng nữa của sự hình thành báo chí chính thống ở
Châu Á là sự ảnh hưởng mạnh mẽ của báo chí các nước đi xâm
lược, và hình thành dịng báo chí thuộc địa. Nền báo chí này phát
triển do các nước đế quốc đem đến phương tiện, cơng nhân in ấn,
dịch giả, phóng viên…Điển hình cho báo chí thuộc địa là ở những
nước như: Ấn Độ, Trung Quốc, Inđônêxia, Việt Nam… Ở Ấn Độ,
tờ báo đầu tiên xuất hiện vào năm 1670 do sự điều hành của đế quốc
Anh ở Bombay. Tại đây, có thời kỳ xuất hiện hơn 3500 ấn phẩm
bằng tiếng Anh. Trung Quốc thế kỉ XVII có tờ “Người Pháp ở Bắc
Kinh” được xuất bản bằng tiếng Pháp. Thế kỷ XVII, Inđơnêxia có
những tờ báo được cơng ty in ấn Hà Lan xuất bản. “Nam kỳ viễn
chinh công báo” được Pháp xuất bản năm 1861 ở Việt Nam. Tờ báo
Quốc ngữ đầu tiên “ Gia Định báo” cũng được Pháp chỉ định xuất
bản(1865). Như vậy, nền báo chí phương tây đã ảnh hưởng sâu sắc
đến sự hình thành báo chí các nước Châu Á.
Không mang bề dày lịch sử như báo chí Châu Âu nhưng sự
hình thành báo chí Châu Á là nền tảng vững chắc cho sự phát triển
sau này của một nền báo chí đa dạng và mang nhiều tiềm năng.
2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
Châu Á là châu lục với số dân và diện tích lớn nhất thế giới. Ở
đây, nền kinh tế- xã hội đang phát triển và vươn lên. Tuy nhiên, sự
4
mất cân bằng, chênh lệch giữa các nền kinh tế đang là một vấn đề
lớn. Nó ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, và báo
chí cũng nằm trong số đó. Có thể nói rằng, Châu Á là điển hình cho
sự phát triển báo chí khơng đồng đều và mất cân bằng. Tuy sự
không đồng đều này tạo ra sự đa dạng nhưng nó là một ngăn trở lớn
cho sự phát triển báo chí cách vững bền và sự hợp tác, quốc tế hóa
báo chí ở Châu Á.
Có những nước với nền báo chí đứng nhất, nhì thế giới về số
lượng sản phẩm báo chí, về kĩ thuật và phương tiện làm báo, như
Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Singapo…, nhưng có những nước
thì hồn tồn ngược lại, như Pakistan, Irắc...(những nước thường
xảy ra chiến tranh), các nước Đông Nam Á.
Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản đang dẫn đầu thế giới về tổng
lượng Nhật báo phát hành hàng ngày, với lần lượt là 100 triệu, 112
triệu, 70 triệu bản. Tại Nhật, tờ Yomiuri Shimbun, trong suốt nhiều
năm qua, được Kỷ lục Guiness công nhận là tờ nhật báo lớn nhất thế
giới hiện đại với số lượng phát hành lên tới hơn 14 triệu bản mỗi
ngày. Số lượng này nhiều hơn tổng số lượng phát hành của cả 17
nhật báo lớn nhất nước Mỹ cộng lại. Yomiuri hoạt động rộng khắp
thế giới với 436 phân xã, văn phòng đại diện tại Nhật Bản và 28
phân xã tại nước ngồi. Tờ báo này có hơn 3.100 phóng viên; nhiều
gấp bốn lần tờ New York Times. Tờ báo thông thường có từ 24 đến
32 trang với số lượng in khổng lồ và in tại rất nhiều nhà in tại nhiều
địa phương (Theo Hiệp hội Báo chí Thế giới). Nhật Bản cũng là
quốc gia có chỉ số Nhật báo/ 1000 người cao nhất thế giới (cùng với
5
Nauy) là 644 bản/1000 người. Ngoài ra, Nhật Bản cũng có một số
tờ báo với số độc giả lớn như: The Asahi Shimbun, 12.121.000;
Mainichi Shimbun, 5.587.000; Seikyou Shimbun, 5.500.000 độc
giả...Hai hãng thông tấn cung cấp thông tin cho các báo tại Nhật
Bản là Kyodo Tshushin và Tiji Tshushin cùng thành lập vào
1/11/1945.
Trung Quốc có Hãng thơng tấn Tân Hoa Xã là một trong
những hãng thông tấn lớn nhất thế giới hiện nay. Trong lĩnh vực
phát thanh, Châu Á có những Đài phát thanh với tầm ảnh hưởng
rộng khắp, như Radio Bắc Kinh, CRI (Trung Quốc); NHK ( Nippon
Hiso Kyobai – Nhật Bản); All Indian Radio ( Ấn Độ )…Truyền
hình Châu Á cũng phát triển với sự đóng ghóp của những cái tên
như: NHK ( Nhật Bản), KBS ( Hàn Quốc ), CCTV (Trung Quốc)…
Tại Ấn Độ, trên tồn quốc có 20 nghìn ấn phẩm thường kỳ,
tổng số trên 50 triệu bản phát hành, trong đó có 1200 ấn phẩm là
nhật báo. Ấn Độ cũng là quốc gia đang nắm giữ kỷ lục về số cơ
quan Nhật báo với 5638 cơ quan. Tại đây, năm 2009 vừa qua, theo
cuộc thống kê mang tên Indian Readership Survey cho biết, lượng
độc giả của nhiều tờ báo đã đạt tới mức rất lớn như tờ Dainik
Jagran (55,7 triệu độc giả), tờ Dainik Bhaskar (31,9 triệu độc giả),
cả hai tờ báo này đều xuất bản bằng tiếng Hindi. Tờ Times of India
là tờ báo tiếng Anh nổi tiếng với 13,3 triệu độc giả, tiếp đến là tờ
Hindustan Times (6,3 triệu), The Hindu (5,2 triệu)... Báo và tạp chí
Ấn Độ ra bằng 87 ngơn ngữ của đất nước. Phần lớn báo xuất bản
bằng tiếng Hin đu- ngôn ngữ chính của Ấn Độ. Tờ có số lượng lớn
6
nhất, phổ biến nhất phát hành bằng tiếng Hin đu là “Nav Bharat
time”, xuất bản năm 1950.
Phương tiện thông tin đại chúng của Ixraen có trình độ kĩ thuật
cao. Chiếm đầu là các báo Davar (1925), hãng Hararet (1918),
Yedioth Aharonth (1939). Báo chí các nước Arập phát triển khá
mạnh. Tại Cơt và Ảrập Xêut có 8-10 tờ nhật báo có cơ sở in ấn tốt
và hiện đại trên thế giới. Thường thì tất cả các nước Arập khai thác
dầu mỏ đều có điều kiện để phát triển báo chí.
Đối ngược với những quốc gia này, các nước như Pakistan,
Irắc, hay một số nước Đơng Nam Á… thì báo chí đang ở một trình
độ khá thấp, với những yếu kém về kĩ thuật và các phương tiện tác
nghiệp, với số lượng các tờ báo cịn ít ỏi, mức độ chun nghiệp
trong báo chí cịn hạn chế. Sỡ dĩ xảy ra điều này chủ yếu là do 3
nguyên sau:
- Do điều kiện kinh tế - xã hội giữa các nước và các vùng trong
nước khác nhau, chất lượng đời sống của người dân có sự chênh
lệch, nên dẫn tới có sự phân bố thông tin không đồng đều.
- Do sự phát triển của Khoa học kĩ thuật : đối với các nước phát
triển, việc áp dụng các thành tựu của Khoa học kĩ thuật vào đời
sống, tạo điều kiện cho lĩnh vực truyền thơng phát triển. Cịn đối với
những nước kém hay chậm phát triển, do không đủ phương tiện
cũng như trang thiết bị hiện đại để có thể hịa vào mạng thông tin
phát triển của thế giới.
- Tỷ lệ mù chữ cao, gia thành giấy báo đắt, trình độ nhà báo còn
tấp kém…
7
- Sự tác động của một số yếu tố bên ngồi: chiến tranh, khủng
bố, sắc lệnh tơn giáo hà khắc…
Một số chỉ số cụ thể để chứng minh sự phân bố báo chí khơng
đồng đều ở Châu Á:
- Về báo in, trong khi Nhật Bản có chỉ số báo in cao nhất là 644
bản in/ 1000 dân, thì ở Việt Nam, con số này chỉ là 10- 15 bản in/
1000 dân.
- Về truyền hình, ở Châu Á thì Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore… vẫn là những quốc gia có chỉ số máy thu hình/ 1000 dân
cao, cịn ở những nước kém phát triển, do hạn chế về điện, nguồn phát
sóng, điều kiện núi non… nên chỉ có dưới 10 máy/ 1000 dân.
- Số lượng máy tính trên 1000 dân ở các nước phát triển của
Châu Á cũng cách xa so với những nước đang phát triên và kém
phát triển.
Trong khi đó, báo chí Châu Âu phát triển khá mạnh và cân đối,
đồng đều về tất cả các mảng: truyền hình, phát thanh, báo viết, báo
in… Giữa các nước ở châu lục này có sự cân bằng về phát triển báo
chí, tạo sự hợp tác rất đa dạng trên nhiều lĩnh vực
3. BÁO CHÍ CHÂU Á MANG TÍNH CHÍNH TRỊ CAO.
Đây được coi là đặc trưng rõ nét của báo chí Châu Á. Đời sống
chính trị- xã hội ở các nước Châu Á đa dạng, mn mặt như thế nào
thì báo chí cũng đa dạng, mn màu như thế.Tính chính trị chí phối
hầu như các hoạt động của báo chí, truyền thơng dù là Đảng này hay
Đảng kia nắm quyền lãnh đạo đất nước,điều này xuất phát từ nền
văn hóa truyền thống của từng khu vực, vùng lãnh thổ, đặc điểm
8
chính trị tơn giáo.Bên cạnh đó sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền
thơng qua cương lĩnh,đường lối, chính sách lãnh đạo cũng là yếu tố
hàng đầu ảnh hưởng tới sự phát triển của nền báo chí,truyền thơng,
ngồi ra cịn do yếu tố của quá trình phát triển đất nước quá trình
tiếp thu những luồng tư tưởng khác nhau mà báo chí Châu Á nói
chung đều mang một sắc thái, đó là ln đề cao tính chính trị. Tất cả
những sự kiện chính trị- xã hội, những con người, những chính
sách, quy định trong xã hội đều được báo chí thể hiện cách đầy đủ
từ nội dung, cách thể hiện bài báo, đến các nhà báo, các chính sách,
luật báo chí…
Báo chí Châu Á được xem là một nhân tố quan trọng trong việc
bình ổn xã hội, đảm bảo trật tự chính trị và xã hội. Tổng thống
Suharto – Indonesia đã từng chia sẻ: “…báo chí có vai trị quan
trọng trong việc hỗ trợ điều hành quản lý một quốc gia đa sắc tộc
thông qua việc truyền bá thông tin, ý kiến, tý tưởng. niềm tin…
Nhiệm vụ của báo chí là phải góp phần xây dựng và củng cố sự
thống nhất và hồ hợp quốc gia”. Báo chí cũng đóng vai trị khơng
thể thiếu trong việc định hình những thay đổi chính trị trong các giai
đoạn khủng hoảng. Ví dụ: Việc lật đổ chế độ Marcos tại Philippines
năm 1986; các cuộc biểu tình dân chủ ở Thái Lan 1992;…tất cả đều
được báo chí can thiệp.
Ở Châu Á, mối quan hệ giữa báo chí và đảng phái được thể
hiện qua các mặt sau:
- “Nhà cầm quyền” đặc biệt quan trọng trong bối cảnh
báo chí Châu Á;
9
- Chính phủ kiểm duyệt trực tiếp;
- Độc quyền phân phối báo chí;
- Quyền lực khơng giới hạn trong việc can thiệp vào nội
dung và tổ chức báo chí;
- Báo chí là cơ quan ngơn luận của Đảng cầm quyền.
Đặc biệt ở khu vực Đông Nam Á, vấn đề sở hữu báo chí thể
hiện nhiều quan niệm rõ nét về tính chính trị: hầu hết những người
nắm truyền thơng là những người có quyền (nhiều hơn là có tiền).
Ví dụ như cựu Bộ trưởng thơng tin của Indonesia Harmoko có cổ
phần trong 31 tờ báo (không mua mà được biếu); Nhà nghiên cứu
Duncan Mc Cargo cho rằng có hai kiểu sở hữu: những người nắm
cổ phần công khai và những người nắm cổ phần “trong bóng tối”.
Nền báo chí của từng quốc gia phát triển tuỳ thuộc vào bối cảnh
kinh tế, xã hội, chính trị của mỗi quốc gia. Bối cảnh xã hội ảnh
hưởng sâu sắc đến từng khía cạnh trong báo chí. Hiện nay, báo chí
Đơng Nam Á đang lấy khẩu hiệu chung: vì sự hiểu biết lẫn nhau;
thúc đẩy sự tiến bộ, cơng bằng xã hội và hồ bình trong khu vực.
Các mơ hình chủ yếu của báo chí Đơng Nam Á hiện đại:
- Kiểu 1: Nhà nước trực tiếp quản lý: Myanmar, Việt Nam và Lào;
- Kiểu 2: quản lý truyền thông tư nhân bằng giấy phép:
Singapore, Malaysia, Indonesia;
- Kiểu 3: báo chí tự do: Thái Lan, Philippines, Indonesia (hậu Suharto).
Mối quan hệ giữa báo chí và chính trị trong báo chí Đơng Nam
Á được thể hiện rõ nét. Chính phủ buộc báo chí khi đưa tin và tường
thuật không được xâm phạm đến các lĩnh vực: cộng đồng sắc tộc,
10
tơn giáo, chủng tộc, và quan hệ giữa các nhóm cộng đồng. Các nhà cầm
quyền quy định và nắm trực tiếp nhiều hoạt động trong báo chí.
Hiện nay, Báo chí Đơng Nam Á đang chịu ảnh hưởng từ q
trình tồn cầu hố, quốc tế hóa và hợp tác cùng phát triển, cụ thể là:
- Chịu ảnh hưởng các chương trình Âu – Mỹ (MTV, HBO…);
- Bản địa hoá cho phù hợp với khán giả từng quốc gia;
- Sự có mặt của những báo, đài, hãng thông tấn lớn trong khu
vực (thường đặt trụ sở ở Singapore, Thái Lan và Philippines);
- Cung cấp thông tin cho các báo, đài, hãng thông tấn nước ngồi.
Các tổ chức báo chí lớn trong khu vực:
- ACJ: (ASEAN Confederation Journalism): là tổ chức báo chí lâu đời
nhất (1975); có hàng ngàn hội viên là các nhà báo trong khu vực.
- SEAPA (South East Asian Press Alliance): là một tổ chức phi chính
phủ, phi lợi nhuận, hoạt động vì quyền tự do báo chí trong khu vực.
Một số báo, đài, trung tâm truyền thông quan trọng ở Đông Nam Á:
- The Nation;
- Thai Rath;
- Bangkok Post;
- The Strait Times;
- Channel News Asia;
- The New Strait Times;
- Manila Times;
- The Inquirer;
- Thơng tấn xã mỗi nước.
Điển hình như:
11
Báo chí Thái Lan:
Là nơi có các phương tiện truyền thông đại chúng phong phú
nhất so với các nước trong khu vực. Đa số báo thuộc sở hữu tư
nhân, còn phát thanh, truyền hình thuộc sở hữu của quân đội. Kênh
4 (1955): kênh truyền hình đầu tiên của Thái Lan và châu Á
Năm2005,Thái Lan có 200 đài phát thanh, 9 kênh truyền hình
Báo in có 150 nhật báo và 177 tạp chí, ThaiRath: 1,2 triệu
bản/ngày
Báo Thái bằng tiếng Anh: Bangkok Post, The Nation,
Bangkok World;
Luật ở Thái Lan không cho phép chính phủ tài trợ cho báo in tư
nhân và cũng khơng cho phép người nước ngồi sở hữu báo chí
nhằm tránh ảnh hưởng của nước ngoài trong lĩnh vực truyền thơng
Báo chí Malaysia:
Năm 1995, Malaysia có 77 tờ nhật báo, 80 tạp chí và các ấn
phẩm định kỳ khác. Báo in được xuất bản bằng tiếng Anh, tiếng
Hoa, tiếng Malaysia ,tiếng Tamil. Hai tập đồn báo chí lớn nhất là:
New Straits Times và Realmild Sdn Bhd.
Malaysia là nước quản lư chặt chẽ nội dung báo chí nhằm tránh
những ảnh hưởng của phương Tây, bảo vệ các giá trị truyền thống
của Malaysia và của đạo hồi, mỗi năm các tờ báo lại phải xin lại
giấy phép xuất bản.
Báo chí Indonesia
Indonesia có khoảng 250 nhật báo (1999 - sau thời kỳ của TT
Suharto); 11 đài truyền hình cấp quốc gia (1 đài của nhà nước và 10
12
đài tư nhân); doanh thu quảng cáo 1,34 tỉ USD (1995) 200 đài phát
thanh. Quy định báo chí khi đưa tin và tường thuật không được xâm
phạm đến các lĩnh vực: cộng đồng sắc tộc, tôn giáo, chủng tộc, và
quan hệ giữa các nhóm.
Báo chí Singapore
Có mật độ phát triển các phương tiện truyền thông đại chúng
cao nhất trong khu vực Báo in bằng tiếng Anh (nhiều nhất), tiếng
Hoa, tiếng Malay và tiếng Tamil.
Nhật báo lớn nhất là Trail Times với khoảng 500.000
bản/ngày. Hai tập đồn báo chí lớn sở hữu hầu hết các báo in, kênh
truyền hình của Singapore: Singapore Press Holdings và Media
Corp. Nhà nước quản lý truyền thơng chặt chẽ (trực tiếp nắm phát
thanh, truyền hình và theo dõi sát sao báo in)
Chính quyền yêu cầu các phương tiện truyền thơng phải đăng
tải quan điểm của chính quyền bên cạnh các quan điểm khác khơng
phải của chính quyền. Theo đạo luật báo chí của Singapore , nhà
nước có quyền giới hạn số lượng phát hành, rút giấy phép, đóng cửa
những tờ báo nào xuyên tạc, bóp méo sự thật (kể cả báo chí nước
ngồi nhập khẩu vào đây, các tổ chức báo chí trong khu vực: ACJ
(ASEAN Confederation Journalism): là tổ chức báo chí lâu đời nhất
(1975); có hàng ngàn hội viên là các nhà báo trong khu vực;
SEAPA (South East Asian Press Alliance): là một tổ chức phi chính
phủ,phi lợi nhuận, hoạt động vì quyền tự do báo chí trong khu vực;
Tính chính trị trong báo chí Châu Á cịn được thể hiện qua luật
báo chí. Luật báo chí ở một số nước Châu Á rất nghiêm ngặt, tạo
13
hành lang pháp lý vững chắc bảo vệ cho sự hoạt động của báo chí,
ngăn cản tất cả những gì gây hại trong q trình báo chí phản ánh
hiện thực xã hội. Ở Thổ Nhĩ Kỳ nếu vi phạm luật báo chí có thể bị
phạt 110 đến 700 năm tù. Luật báo chí Thổ Nhĩ kỳ cũng mang đậm
màu sắc lãnh đạo của giới cầm quyền. Theo Hiệp ước 1923 của
Lausanne, Thổ Nhĩ Kỳ chỉ công nhận các quyền ngôn ngữ của các
dân tộc thiểu số Do Thái, Hy Lạp và tiếng Armenia. Chính phủ bỏ
qua các Điều 39 của Hiệp ước Lausanne, mà nói rằng: “ hạn chế
trách nhiệm đối với việc sử dụng miễn phí của bất kỳ ngôn ngữ nào
của Thổ Nhĩ Kỳ trong giao hợp tư nhân, trong thương mại, tơn giáo,
trên báo chí hay trong các ấn phẩm của loại nào hoặc tại các cuộc
họp cơng cộng”. Luật báo chí ở Thái Lan khơng cho phép chính phủ
tài trợ cho báo in tư nhân và cũng khơng cho phép người nước ngồi
sở hữu báo chí nhằm tránh ảnh hưởng của nước ngoài trong lĩnh vực
truyền thơng. Với báo chí Singapore, Nhà nước quản lý truyền
thơng chặt chẽ (trực tiếp nắm phát thanh truyền hình và theo dõi sát
sao hệ thống báo in); chính quyền yêu cầu các phương tiện truyền
thông phải đăng tải quan điểm của chính quyền bên cạnh các quan
điểm khác khơng phải của chính quyền. Cũng theo đạo luật báo chí
của Singapore, nhà nước có quyền giới hạn số lượng phát hành, rút
giấy phép, đóng cửa những tờ báo nào xuyên tạc, bóp méo sự thật
(kể cả báo chí nước ngồi nhập khẩu vào đây). Hơn nữa, các tờ báo
nước ngoài phải có giấy phép để lưu hành ấn phẩm của mình tại
quốc đảo và phải bổ nhiệm một đại diện là công dân của nước sở tại
để nhận các thông báo, hoặc vấn đề liên quan tới pháp lý thay mặt
14
cho tờ báo. Đồng thời, tờ báo cũng phải nộp 126.000 USD tiền cam
kết với chính phủ.
Báo chí Ấn Độ là một quốc gia có nền báo chí với mức độ độc
quyền hóa cao và phát triển nhanh chóng chỉ riêng trong năm 2008
có thêm 11,5 triệu bạn đọc mới (doanh thu quảng cáo cũng tăng
thêm khoảng 10% – không được mạnh như hai năm trước đó nhưng
cũng rất đáng kể)
Cho đến cuối tháng 9 năm ngối, chỉ có khoảng 12,24 triệu
người Ấn Độ đăng ký Internet, chẳng là bao so với 180 triệu người
Ấn Độ đăng ký đặt báo giấy dài hạn.THE ECONOMIC TIMES ET, ra mắt vào ngày 5/3/1961,
ET là tờ báo Ấn Độ đầu tiên có bao gồm cả quan điểm chính trị
91% các
nhà hành pháp Ấn Độ đọc ET và khoảng 27% phụ nữ Ấn Độ
đọc tờ báo này. Báo và tạp chí Ấn Độ ra bằng 87 ngôn ngữ của đất
nước. Phần lớn báo xuất bản bằng tiếng Hin đu- ngơn ngữ chính của
Ấn Độ. Tờ có số lượng lớn nhất, phổ biến nhất phát hành bằng tiếng
Hin đu là “Nav Bharat time”, xuất bản năm 1950.
Báo chí Trung Quốc, các chỉ đạo của Nhà nước được chuyển
xuống các ban biên tập. Trong thời gian dài, chính phủ trung ương
Trung Quốc “bao cấp” nhiều tờ báo ở nước này. Tờ Nhân dân nhật
báo (People’s Daily) - cơ quan chính thức của đảng Cộng sản Trung
Quốc - vẫn cịn đưa lên trang nhất những cái tít “truyền thống” như
“Quan hệ Trung Quốc - Mali không ngừng phát triển”.
15
Báo chí Trung Quốc phát triển từ năm 1942, đặc biệt trong giai
đoạn 1968 đến 1980, số lượng các tờ báo của Trung Quốc tăng
mạnh từ 382 tờ lên hơn 2200 tờ. Trước đây, báo chí đại lục này chịu
sự bao cấp nặng nề của Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Chính phủ
nước này. Từng thơng tin, nội dung tác phẩm báo chí đều được
Đảng Cộng Sản kiểm duyệt và định hướng. Vì thế, báo chí Trung
Quốc nhiều lúc cũng bị kìm hãm và gây nhiều bức xúc trong nhân
dân. Thế nhưng năm 2003, đất nước này đã đưa ra các giải pháp tích
cực nhằm xóa bỏ sự bao cấp báo chí và đã đạt được những thành
quả khả quan. Cụ thể là từ năm 1950 đến năm 2000, số lượng các tờ
báo Trung Quốc tăng gần gấp mười lần. Năm 2011,có khoảng
2000loại báo chí hàng ngày đã được xuất bản tại Trung Quốc, lưu
hành đạt 109 triệu USD,chỉ đứng sau Ấn Độ với số lưu hành đạt
110 triệu USD. Bên cạnh đó, Trung Quốc cịn cắt giảm và hạn chế
những tờ báo hoạt động không hiệu quả. Trong năm 2003, Trung
Quốc đã đình bản 673 tờ báo từ trung ương đến địa phương vì sự
yếu kém trong hoạt động báo chí.
Trong những năm qua, việc hợp tác xuyên khu vực giữa các
phương tiện in ấn đã trở thành một xu hướng mới của báo chí Trung
Quốc. Nổi bật là Bắc Kinh Tân Báo được đầu tư và điều hành bởi
nhóm Quang Minh Nhật Báo và nhóm Nam Phương Nhật Báo, lần
đầu tiên nhận được phê duyệt chính thức từ chính phủ Trung Quốc
để xuất bản xuyên khu vực. Năm 2011, Trung Quốc đã phát triển thị
trường tiêu thụ báo chí, với 170 triệu bản/ ngày, và vẫn đang nằm
trong top dẫn đầu thế giới cho đến nay, với số lượng càng tăng.
16
Những năm gần đây, một xu hướng quan trọng nữa của báo chí
Trung Quốc là việc tổ chức lại các tờ báo. Đến nay, 39 nhóm báo đã
được thiết lập (tập đồn báo chí), như Bắc Kinh Nhật Báo, Nhóm
báo thuộc liên hợp Văn Vị Tân Dân và nhóm báo Quảng Châu Nhật
Báo,Phương Nam, Dương Thành…Ngoài ra, xu hướng gia tăng
doanh thu từ quảng cáo trên báo chí Trung Quốc hiện nay cũng là
vấn đề đang được quan tâm. Ví dụ như báo in Trung Quốc tăng
128% trong 5 năm (2001-2006).
Báo chí Trung Quốc hầu hết của các chính đảng và các cơ quan
qn đội, phục vụ mục đích, tơn chỉ của những tổ chức này. Ngoài
ra, một số tổ chức chuyên nghiệp và khoa học cũng xuất bản tờ báo
hoặc tạp chí có chứa thơng tin chun ngành trong các lĩnh vực đa
dạng như thiên văn học và côn trùng học. Một đặc điểm nữa của báo
chí Trung Quốc hiện nay là các tờ báo địa phương vào buổi sáng và
buổi tối tập trung tin tức và câu chuyện đặc trưng về người dân địa
phương và các sự kiện cực kỳ phổ biến, bán ra mỗi ngày ngay sau
khi họ đến các quầy bán báo. Tờ báo xuất bản bằng ngôn ngữ Tiếng
Anh đầu tiên của Trung Quốc là tờ Trung Quốc Nhật Báo vào tháng
6 năm 1981. Tờ báo này cung cấp cho người nước ngoài sinh sống
hoặc đi du lịch tại Trung Quốc những tin tức quốc tế, thể thao từ các
dịch vụ đường dây nước ngoài lớn cũng như các tin tức trong nước
và các bài báo thú vị.
Một số nước Đông Nam Á khác cũng thể hiện rõ nét tính chính
trị trong báo chí, ví dụ: Brunây: cấm nói xấu người đứng đầu nhà
17
nước; Thái Lan: cấm tuyên truyền về Chủ nghĩa cộng sản; Philipin,
Inđơnêxia, Malaysia : tơn trọng tín ngưỡng cơng chúng, chú ý tính
chất quốc đạo của quốc gia, mọi hành vi làm trái với quốc đạo đều
được báo chí lên án mạnh mẽ. Malaysia là nước quản lý chặt chẽ
nội dung báo chí nhằm tránh những ảnh hưởng của phương Tây,
bảo vệ các giá trị truyền thống của Malaysia và của đạo Hồi.
Nhìn chung, Nền báo chí của từng quốc gia Châu Á phát triển
tuỳ thuộc vào bối cảnh kinh tế - chính trị của mỗi quốc gia, phục vụ
và điều hành xã hội.
4.LIÊN HỆ NỀN BÁO CHÍ VIỆT NAM
Báo chí ở hầu hết các quốc gia Châu Á là cơ quan của Nhà
nước, Đảng phái để phục vụ sự nghiệp của Tổ Quốc, bảo đảm nền
văn hóa lành mạnh của các nước. Báo chí Việt Nam là một đại diện
tiêu biểu. Báo chí Việt Nam truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và thế giới quan khoa hoạc của chủ nghĩa xã
hội cho quần chúng nhân dân, làm cho hệ tư tưởng này thành hệ tư
tưởng toàn dân. Đồng thời, với tư cách là cơ quan của Nhà nước,
của Đảng, báo chí Việt Nam thực hiện nhiệm vụ của mình với
những nội dung sau: đăng tải đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước; tham gia tích cực vào xây dựng và hồn thiện những đường
lối, chủ trương ấy; phản ánh, phân tích kịp thời tình hình
Nền báo chí cách mạng nước ta được hình thành từ khi Lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập Báo Thanh niên vào năm 1925. Sau
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng, báo chí
cách mạng đã phát triển trong khói lửa đấu tranh, trong lao tù, xiềng
18
xích, trong các cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc vì lý tưởng
“Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”. Hiến pháp năm 1992 của ta
khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, có
quyền được thơng tin”. Luật Báo chí của ta ghi rõ: “Bảo đảm quyền
tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí. Nhà nước tạo
điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí,
quyền tự do ngơn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai
trị của mình”3. Luật Báo chí đã dành cả Chương II để nói về quyền
tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí của cơng dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và sự minh
định trong Hiến pháp và pháp luật về tự do báo chí, tự do ngơn luận
trên báo chí, những năm gần đây, báo chí nước ta đã có bước phát
triển mạnh mẽ, sơi động; hoạt động theo đúng tơn chỉ, mục đích;
thực sự là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của các tổ chức chính
trị, xã hội và là diễn đàn của nhân dân. Tính đến tháng 5 - 2009, cả
nước có trên 720 cơ quan báo chí, hơn 800 báo, tạp chí in, báo điện
tử, đài phát thanh, truyền hình. Hơn 15.000 nhà báo chuyên nghiệp,
hàng ngàn cán bộ, kỹ sư, nghệ sĩ, nhân viên làm việc trong các cơ
quan báo chí và hàng chục ngàn người khác là cộng tác viên, nhân
viên, lao động tham gia các công đoạn in ấn, tiếp thị, quảng cáo,
phát hành, sống chủ yếu bằng dịch vụ nghề báo. So với năm 1986
(thời điểm đất nước ta bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới) thì số
lượng các cơ quan báo chí, số lượng báo, đài, tạp chí và đội ngũ
những người làm báo hiện nay tăng từ 3 đến 4 lần. Năm 1969, mạng
thông tin toàn cầu (Internet) ra đời và gần 30 năm sau mới có mặt ở
19
Việt Nam, nhưng đến thời điểm này, số người sử dụng Internet của
Việt Nam chiếm 25% dân số, một mức khá cao ở khu vực Đông
Nam Á và châu Á. Có thể nói, báo chí ở nước ta đã và đang đáp ứng
quyền được thơng tin của nhân dân; tích cực động viên mọi tầng lớp
nhân dân hăng say lao động, sản xuất, phát triển kinh tế-xã hội,
củng cố quốc phòng- an ninh của đất nước; đấu tranh bác bỏ các
luận điệu sai trái, thù địch chống phá sự nghiệp đổi mới; chống
tham nhũng, quan liêu, lãng phí; tham gia xây dựng đời sống mới,
phê phán các hủ tục, tệ nạn xã hội; cổ vũ mạnh mẽ những nhân tố
mới, “gương người tốt, việc tốt” trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Trách nhiệm xã hội là một yêu cầu cơ bản, hàng đầu của báo
chí. Ở nước ta, Đảng Cộng sản là đại diện duy nhất hợp pháp cho
quyền lợi của nhân dân; do vậy, việc báo chí được đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng, phục vụ cho đường lối đổi mới đất nước do Đảng
khởi xướng, đồng thời cũng đồng nghĩa với việc thể hiện cao nhất,
đầy đủ nhất trách nhiệm xã hội của báo chí. Sự xa rời hoặc đi ngược
lại xu hướng đó dù với danh nghĩa gì, cũng làm cản trở tới sự phát
triển, tiến bộ của đất nước, tổn hại tới lợi ích của nhân dân. Trong
điều kiện hiện nay, khi mà toàn cầu hố kinh tế với cả hai mặt tích
cực và tiêu cực đang tác động mạnh mẽ; mặt trái cơ chế thị trường
đang tạo ra sự phân hoá mạnh mẽ các nhóm lợi ích trong xã hội...
thì hoạt động báo chí càng phải đương đầu với nhiều khó khăn,
thách thức. Những người hoạt động trong lĩnh vực báo chí phải
thường xuyên ý thức về tính Đảng của báo chí cách mạng, giữ gìn
20