Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển cơ cấu thành phần kinh tế ở nướ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.29 KB, 16 trang )

lOMoARcPSD|11424851

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ KINH TẾ SỐ

BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu
thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự vận
dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển cơ cấu
thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay.

Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Thảo
MSV: 11218219
Lớp tín chỉ: LLTT1101(122)_36
Giảng viên: Nguyễn Chí Thiện

HÀ NỘI – 2022


lOMoARcPSD|11424851

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................3
NỘI DUNG........................................................................................................................ 3
I. QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU KINH TẾ NHIỀU THÀNH
PHẦN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM..3
1. Quan điểm của V.L.Lênin về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
quá độ ở Liên Xô........................................................................................................3
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ


quá độ lên CNXH ở Việt Nam..................................................................................4
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần
với nhiều loại hình sở hữu.....................................................................................4
2.1.1. Tính tất yếu cần xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần.....................5
2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền kinh tế có nhiều loại hình sở hữu và
nhiều thành phần kinh tế...................................................................................5
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc phát triển các thành phần kinh tế trong
thời kỳ quả độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.................................................9
2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc, biện pháp xây dựng nền kinh tế
nhiều thành phần thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.....................................10
II. SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CỦA ĐẢNG TRONG VIỆC
PHÁT TRIỂN CƠ CẤU THÀNH PHẦN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY.............11
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................15

2


lOMoARcPSD|11424851

LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình lãnh đạo Đảng và nhân dân tiến hành kháng chiến, kiến quốc, Hồ
Chí Minh nhận ra rằng trong bối cảnh, điều kiện như Việt Nam phát triển kinh tế nhiều
thành phần là một trong những đường lối đúng đắn, phù hợp. Người đã xây dựng hệ thống
các quan điểm về mơ hình kinh tế nhiều thành phần, vai trò của các thành phần kinh tế
trong nền kinh tế quốc dân, đó là kết quả của sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác -Lê Nin
vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, kế thừa những giá trị truyền thống và tinh hoa văn
hóa nhân loại, dựa trên nền tảng tư duy khoa học, biện chứng của Hồ Chí Minh. Những tư
tưởng đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị, trở thành những định hướng quan trọng, là tài
sản quý giá của toàn Đảng, toàn dân ta trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì

vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế nhiều thành phần khơng chỉ có ý nghĩa
về mặt lý luận mà cịn có ý nghĩa về mặt thực tiễn sâu sắc. Vì vậy, trong bài tiểu luận dưới
đây, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu, nghiên cứu quan điểm của Người để làm sáng tỏ quan
điểm trên.

NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU KINH TẾ NHIỀU
THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM
1. Quan điểm của V.L.Lênin về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá
độ ở Liên Xô.
Tháng 2 năm 1921, tại Hội nghị lần thứ XI, Đảng Cộng sản Nga đã nhất trí thơng
qua chính sách kinh tế mới. Đảng đã quyết định áp dụng ở nước Nga Xô viết những biện
pháp khẩn cấp, kiên quyết nhằm cải thiện tình cảnh của nơng dân và phát triển lực lượng
sản xuất ở nông thôn.
V.I.Lênin đã rút ra kết luận là: Trong điều kiện thực tế của nước Nga, giai cấp vô
sản đã giảm nhiều sau hai cuộc chiến tranh lại vừa mới giành chính quyền về tay, họ
khơng có kinh nghiệm quản lý và do vậy, khơng có khả năng khẳng định sở hữu xã hội
đối với tất cả các tư liệu sản xuất của xã hội. Đế phát triển lực lượng sản xuất trong điều
kiện mới hình thành, cần phải kiên quyết duy trì nền kinh tể nhiều thành phần. Điều đó có
nghĩa là, ngoài phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa mới chỉ phôi thai và về nguyên tắc,
được công nhận là có vai trị chủ đạo, cần phải cho phép tồn tại những phương thức sản
xuất khác và hơn nữa cần phải phát triến ở mức độ nhất định một số thành phần kinh tế
khác.
3


lOMoARcPSD|11424851

Thực tế, Lênin đã đề cập đến việc thay đổi chính sách kinh tế một cách tồn diện

từ năm 1981. Ông đã chỉ rõ: “Nếu giai cấp vô sản giành được chính quyền ở một nước tư
bản chủ nghĩa phát triển cao, thì chỉ cần thay nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản và kế
thừa kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa được xây dụng trên những phát minh mới nhất của
khoa học hiện đại là có các điều kiện đề xây dựng chủ nghĩa xã hội [CITATION www \l
1033 ]. Ông đã nêu ra những thành phần kinh tế ở nước Nga Xô Viết trong tập " Bàn về
thuế lương thực”, bao gồm: “
1.
2.
3.
4.

Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng.
Sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nơng dân bán lúa mì)
Chủ nghĩa tư bản tư nhân.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước.
5. Chủ nghĩa xã hội" [CITATION www \l 1033 ]
Xét về thứ tự các thành phần kinh tế, Lênin đã cố tình sắp xếp các thành phần kinh
tế theo thứ tự, cấp độ tăng lên về tính chất xã hội chủ nghĩa của mỗi thành phần kinh tế; tỷ
trọng của các thành phần kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử; sự biến đổi tỷ trọng các
thành phần kinh tế phải theo hướng xã hội chủ nghĩa; tính đan xen, mâu thuẫn, đấu tranh
và thống nhất giữa các thành phần kinh tế, tạo ra một cơ cấu kinh tế bền vững, tác động
mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của đất nước và tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội.
V.L.Lênin coi chủ nghĩa tư bản nhà nước là sự chuẩn bị điều kiện vật chất đầy đủ
cho chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến so với thế lực tự phát
tiểu tư hữu. Trong giai đoạn đoạn đầu thời kỳ quá độ, thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa
mới chỉ là hạt mầm mới nhú lên. Điều quan trọng nhất là phải chăm bón cần thận, sát sao
những hạt mầm đó để nó lớn dần lên và sẽ tiến tới giữ địa vị thống trị nền kinh tế của đất
nước. Tóm lại, việc phát triển từ kinh tế nông dân kiểu gia trưởng lên đến Chủ nghĩa xã
hội là tư tưởng nhất quán trong quan điểm của Lênin. Tuy rằng mấy năm sau, Lênin qua
đời, tư tưởng của ơng trong “chính sách kinh tế mới" đã sớm bị dừng lại, khơng được phát

triển tồn nhưng nó cũng đã đóng vai trị to lớn trong việc giúp nhà nước Liên Xô khôi
phục nền kinh tế đã bị chiến tranh tàn phá nặng nề và sau đó phát triển lực lượng sản xuất
ở Nga.
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở Việt Nam
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều
loại hình sở hữu
Ngay sau khi giành chính quyền, trong những nhiệm vụ trước mắt của Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định tăng gia sản xuất, phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm. Chúng ta mới giành được chính quyền, lại bước vào
các cuộc kháng chiến của đế quốc, thực dân, đặc biệt từ một nước nông nghiệp lạc hậu,
4


lOMoARcPSD|11424851

cần phải tạo ra một động lực to lớn cho đất nước, cần phát huy mọi nguồn lực, đặc biệt
cần tạo điều kiện để phát triển các thành phần kinh tế đa dạng ở Việt Nam.
2.1.1. Tính tất yếu cần xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần
Theo Hồ Chí Minh, Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từ
một nước nông nghiệp lạc hậu, “là một nước thuộc địa và nửa phong kiến. Kinh tế rất lạc
hậu và gồm có nhiều thành phần phức tạp, sức sản xuất chưa được phát triển, đời sống vật
chất và văn hóa của nhân dân ta thấp kém”[CITATION HồC11 \p 372 \l 1033 ]. Muốn đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh cần phải phát triển từ chế độ dân chủ
nhân dân lên chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Muốn thực
hiện được nhiệm vụ đó, phải cải biến, phát triển lực lượng sản xuất để phù hợp với quan
hệ sản xuất mới. Nền kinh tế nhiều thành phần cũng là bước đầu trong việc thực hiện dân
chủ trong phát triển kinh tế khi mà mọi cá nhân đều đóng góp sức người sức của trong lao
động sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm, đa dạng thể loại hơn cho xã hơi, góp phần đáp ứng

những nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người. Từ đó thúc đẩy nền kinh tế tăng
trưởng nhanh, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, phát triển các mặt của đời sống
kinh tế – xã hội. Hơn nữa, dựa trên bối cảnh Việt Nam lúc đó, việc xây dựng và phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần còn là để phục vụ công cuộc kháng chiến ở Miền Nam.
Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng miền Bắc là khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh; tiến hành công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho miền Bắc
vững mạnh, trở thành hậu phương vững chắc cho miền Nam và là căn cứ địa cách mạng
của cả nước.
2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền kinh tế có nhiều loại hình sở hữu và nhiều thành
phần kinh tế
Theo Hồ Chí Minh, Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên Chủ
nghĩa xã hội, không thông qua giai đoạn phát triển chủ nghiền tư bản số này sinh nhiều
mâu thuẫn trong các lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt là mâu thuẫn giành nhu cầu phát
triển cao của đất nước theo hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng quá
yếu ở nước ta. Chính vì vậy. Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về cơ cấu tổ chức kinh tế
nhiều thành phần, theo thực trạng đất nước tập trung phát triển kinh tế tạo đã quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong “Thường thức chính trị” (1953) và "Báo cáo Dự thảo Hiến pháp” (1959) tư
tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nói chung, từng thành phần kinh
tế nói riêng được thể hiện rất đầy đủ. Bên cạnh đó, tư tưởng của Bác cịn được thể hiện
khá rõ ràng trong tuyển tập “Hồ Chi Minh tồn tập” (12 tập). Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng.
Con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có thể khác với Liên Xơ: “Có nước thì đi
thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xô. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân
5


lOMoARcPSD|11424851

chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - như các nước Đông Âu, Trung Quốc,
Việt Nam ta..."[CITATION HồC \p 247 \l 1033 ].

Có thể hiểu, “chế độ dân chủ mới" theo lời Hồ Chủ Tịch là chế độ tương ứng với
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội của nước ta hiện nay. Điều này được người lý giải
rằng: đặc điểm to lớn của thời kỳ quá độ là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
Chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”[CITATION
HồC \p 247 \l 1033 ]. Người đã phân tích: “Trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội,
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta chưa có kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là
công việc hết sức mới mẻ đối với Đảng ta nên phải vừa làm, vừa học và có thể vấp váp,
thiếu sót. Xây dựng xã hội mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ đã
lỗi thời”[ CITATION Giá \l 1033 ].
Đối với cơ cấu kinh tế, Hồ Chí Minh đề cập đến cơ cấu các thành phần kinh tế và
cơ cấu ngành, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ. Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương
phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta trong suốt quá trình quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội. Trước cuộc kháng chiến năm 1953, theo quan điểm của HCM cơ cấu gồm 6
thành phần là:
1. Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tơ:
Thuộc chế độ xã hội phong kiến. Trong cơ cấu này, người nông dân phải làm như
một nô lệ, mướn ruộng của địa chủ phong kiến, cày cấy và lao động rồi nộp tô nhưng
không được sở hữu ruộng đất còn giai cấp địa chủ không phải lao động, là giai cấp được
ngồi mát ăn bát vàng”, nhà cao cửa rộng, cuộc sống xa hoa, phú q. Tuy nhiên, Người
khơng chủ trương xóa bỏ hình thức kinh tế này mà thực hiện việc giảm tô, nhằm giữ mối
đại đoàn kết toàn dân tộc, thủ hút một số lượng địa tô yêu nước, theo cách mạng, đóng
góp tiền của, cơng sức cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
2. Kinh tế quốc doanh
Là lực lượng kinh tế của Nhà nước, thuộc về toàn dân, phục vụ lợi ích xã hội.. Là
thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Các đơn vị, doanh nghiệp
ngoài quốc doanh bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty Cổ phần, công
ty liên doanh và các đơn vị theo hình thức Hợp tác xã. Thành phần kinh tế này ra đời
đóng một vai trò to lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Theo Hồ
Chí Minh, kinh tế quốc doanh là “nền tảng và sức lãnh đạo của nền kinh tế dân chủ mới.
Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó”[ CITATION

Thư \l 1033 ].
3. Kinh tế hợp tác xã

6


lOMoARcPSD|11424851

Theo Hồ Chí Minh, hợp tác xã “là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động,
Nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ cho nó phát triển”[CITATION
HồC11 \p 373 \l 1033 ]. Trong bối cảnh Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ vừa chiến
tranh vừa xây dựng nền tảng của chủ nghĩa xã hội, hợp tác xã đóng vai trị rất quan trọng.
Theo Người, đây là phương thức tổ chức hoạt động kinh tế, đời sống xã hội văn minh.
Các thành viên trong xã hội đều được hưởng lợi, không ai bị bỏ lại phía sau.
4. Kinh tế cá thể tiểu chủ
Đây là nền kinh tế của cá nhân, hộ gia đình, bn bán nhỏ, tiểu thủ công nghiệp.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cần thiết phải tạo điều kiện hỗ trợ giúp đỡ họ
phát triển. Đối với thành phần kinh tế này, Hồ Chí Minh cho rằng “đối với người làm
nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản
xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ
chức các hợp tác xãsản xuất theo nguyên tắc tự nguyện”[CITATION HồC11 \p 373 \l
1033 ], từ đó hăng hái làm ăn, bn bán, đóng góp vào sự nghiệp chung của tổ quốc.
5. Kinh tế tư bản tư nhân
Là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. Đây là thành phần
kinh tế của giai cấp tư sản dân tộc. Tuy giai cấp này ở nước ta cịn bị chèn ép bởi tư bản
nước ngồi vì mới ra đời nhưng “về mặt sản xuất so với chế độ phong kiến thì chế độ tư
bản là một tiến bộ to”[ CITATION Thư \l 1033 ]. Họ có nhiều tư duy tiến bộ, năng lực
phát triển mạnh “cho nên, chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự
lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải phù hợp với lợi ích của đại đa số nhân

dân”[ CITATION Thư \l 1033 ]. Người cũng khẳng định “Khơng xóa bỏ quyền sở hữu về
tư liệu sản xuất và của cải khác của họ, mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi
cho quốc kế dân sinh phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế của Nhà nước. Đồng thời
Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức cơng
tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác”[CITATION HồC11 \p 373 \l 1033 ]
6. Kinh tế tư bản nhà nước
Đây là thành phần kinh tế có sự hợp tác giữa Nhà nước với tư bản trong đầu tư
phát triển kinh tế. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ có những xí nghiệp lớn, song
để phục vụ cho các lĩnh vực đời sống xã hội chung, Nhà nước cũng cần kêu gọi giai cấp
tư sản tham gia cùng Nhà nước đầu tư vào một số lĩnh vực. Người nói “ta sẽ khun các
nhà tư sản –khơng phải bắt ép mà giáo dục thuyết phục họ - chung vốn với Chính phủ.
Các nhà tư bản sẽ hợp tác với Chính phủ để sản xuất dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân”[CITATION HồC112 \p 392 \l 1033 ]. Khi các nhà tư bản thấy được công tư hợp
doanh có lợi, khơng có hại, họ sẽ dần dần nhận thấy nhất định tiến lên chủ nghĩa xã hội.
7


lOMoARcPSD|11424851

Họ sẽ nhận thấy nếu họ kinh doanh một mình, họ sẽ khó có đường ra. Dù cho họ bn
bán to đến mấy cũng không thể chống lại các công ty mậu dịch, công ty Nhà nước, không
thể cạnh tranh nổi, từ đó họ tự thấy cơ hội và tiền đồ của họ.
Cho đến sau khi miền bắc giải phóng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, chế
độ địa chủ phong kiến bị đánh đổ. Người cho rằng: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm
loại kinh tế khác nhau:
- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân).
- Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội).
- Kinh tế của cá nhân, nơng dân và thủ cơng nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là
nửa chủ nghĩa xã hội).
- Tư bản của tư nhân.

- Tư bản của nhà nước.
Trong năm loại ấy, kinh tế quốc doanh là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn
cả, cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng
chủ nghĩa tư bản”[CITATION HồC \p 247-248 \l 1033 ].
Trên đây là năm thành phần cơ cấu kinh tế tồn tại xuyên suốt thời kỳ q độ vì vậy
chúng ta cần xây dựng chính sách hợp lý nhằm tối ưu lợi ích kinh tế, giúp phát triển nền
sản xuất của xã hội.
Nói về vai trò và mối quan hệ của các thành phần kinh tế trên, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ:
“Chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm có mấy điều:
1. Công tư đều lợi: Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tăng và sức lãnh đạo của
kinh tế dân chủ mới(...). Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân
và thủ cơng nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà.
Cho nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh
tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân.
2. Chủ thợ đều lợi. Nhà tư bản thì khơng khỏi bóc lột. Nhung Chính phủ ngăn cấm
họ bóc lột cơng nhân q tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của cơng nhân. Đồng thời,
vì lợi ích lâu dài, anh chị con thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu cầu quá
mức. Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả hai bên.
3. Công nông giúp nhau: Là quan hệ tương hỗ giữa hai giai cấp nông dân và công
nhân, công nhân sản xuất tạo ra công cụ tốt, các sản phẩm khác giúp nông dân tăng gia
sản xuất, đạt năng suất cao, tiến độ nhanh, tạo ra sản lượn lớn. Ngược lại nông dân tạo ra
8


lOMoARcPSD|11424851

hương thực, các nguyên liệu cho công nghiên cung cấp cho q trình sản xuất của cơng
nhân.
4. Lưu thơng trong ngoài khai thác nguồn lực tự nhiên của đất nước. như hải sản,

lâm sản, khoáng sản..., các sản phẩm trong sản xuất của ta,bán cho nước bạn,nhập khẩu
các mặt hàng ta chưa sản xuất được của nước bạn, tạo lưu thông thương mại quốc tế.
Tăng cường kinh tế nhờ xuất khẩu."[CITATION HồC \p 222 \l 1033 ]
Nhờ vào trí tuệ tài ba, sáng suốt, Hồ Chí Minh đã đưa tư tưởng của mình vào việc
phát triển nền kinh tế của đất nước, giúp cho công cuộc khôi phục kinh tế 1955 - 1957
hồn thành nhanh chóng. Nền kinh tế những năm 1958 – 1960 đạt được những thành tựu
riêng, tạo đà thuận lợi cho kinh tế xã hội chủ nghĩa miền Bắc phát triển.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc phát triển các thành phần kinh tế trong thời kỳ quả độ
lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Người cũng nêu ra trong báo cáo Hiến pháp trước Quốc Hội “Trong nước ta hiện
nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sau:
- Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân.
- Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động
- Sở hữu của người lao động riêng lẻ.
- Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các hình thức khơng xã hội chủ nghĩa, làm cho
nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế Mục đích của chế độ
ta là xóa bỏ các hình thức không xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành
phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể. ”[CITATION HồC1 \p 588 \l 1033 ]
Hồ Chí Minh đã đưa sở hữu xã hội chủ nghĩa đúng ở vị trí cao nhất, đó là nền tảng
cho kinh tế ở xã hội mới, là điểm tựa cho Nhà nước nhân dân. Đối với việc giải quyết vấn
đề mối quan hệ giữa các hình thức sở hữu, hữa các thành phần kinh tế, phương châm chỉ
đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “Chúng ta phải phát triển thành phần kinh tế quốc
doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ
nghĩa.
- Hợp tác hóa nơng nghiệp là khâu chính thúc đẩy cơng cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc. Kinh nghiệm qua chứng tỏ rằng hợp tác hóa nơng nghiệp ở nước ta,
cần phải trải qua hình thức tổ đối cơng và hợp tác xã sản xuất nơng nghiệp. Đó là việc rất
cần thiết(...).

9


lOMoARcPSD|11424851

- Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ
quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm
ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện.
- Đối với những nhà tư sản cơng thương, Nhà nước khơng xóa bỏ quyền sở hữu về
tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi
cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước
khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức cơng ty hợp
doanh và những hình thức cải tạo khác"[CITATION HồC1 \p 589 \l 1033 ]
2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc, biện pháp xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Để xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, Hồ Chí Minh cho rằng,phải chú ý và
thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc, biện pháp và bước đi sau đây.
Về nguyên tắc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến nguyên tắc học tập kinh nghiệm các
nước anh em, vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác –Lê Nin vào hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam. Người nói “Muốn giải quyết tốt những vấn đề đó, muốn đỡ bớt mị mẫm,
muốn đỡ phạm sai lầm, thì chúng ta phải học tập kinh nghiệp các nước anh em và áp dụng
những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ
nghĩa Mác –Lê Nin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác –Lê Nin
mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc
điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển
của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể
của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với nước ta” [CITATION HồC111 \p 94 \l 1033
]. Người luôn nhấn mạnh học tập kinh nghiệm, nhưng không được rập khuôn máy móc,
áp dụng khơ cứng và đi theo nước khác khi chưa có sự phân tích, nghiên cứu cụ thể.
Bởi,theo Hồ Chí Minh “Ta khơng thể giống Liên Xơ, vì Liên Xơ có phong tục tập qn

khác, có lịch sử, địa lý khác” [CITATION HồC112 \p 392 \l 1033 ]. Hơn nữa, theo Hồ Chí
Minh tùy vào hồn cảnh lịch sử, mà xác định đường lối phát triển kinh tế nhiều thành
phần một cách phù hợp với đặc điểm, nguyện vọng và nhu cầu của nhân dân.
Ngồi ra, theo Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần
“một mặt, chúng ta phải ra sức cải tiến quản lý kinh tế, nâng cao tinh thần trách nhiệm,
tăng cường kỷ luật lao động, kiên quyết chống lãng phí,tham ơ, ra sức học tập để nâng
cao trình độ chính trị, văn hóa và kỹ thuật, khiêm tốn học hỏi kinh nghiệm tiên tiến của
các nước anh em. Mặt khác, chúng ta cần nâng cao cảnh giác, ngăn ngừa bọn phá hoại,
kiên quyết giữ vững trật tự an ninh,chống đầu cơ tích trữ,ổn định thị trường, ổn định tiền
tệ hơn nữa. Đồng thời, chúng ta phải thực hiện chuyển thêm lực lượng về mặt trận sản
xuất, sửa lại chế độ tiền lương để cải thiện dần dần đời sống cho công nhân, cho cán bộ,
bội đội và nhân viên ta” [CITATION HồC111 \p 391 \l 1033 ]
10


lOMoARcPSD|11424851

Về biện pháp: Trong xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, theo Hồ Chí Minh
cần thực hiện tốt các biện pháp: cải tạo đi đôi với xây dựng, trong đó Người ln nhấn
mạnh xây dựng là chủ yếu và lâu dài. Thực hiện tốt chính sách kinh tế nhiều thành phần,
phải đảm bảo cho mọi thành phần kinh tế có cơ hội được phát triển. Phải phát huy được
sức mạnh của nhân dân “Đem tài dân, sức dân mà làm lợi cho dân”, mọi đường lối chủ
trương phát xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân. Trong xây dựng nền kinh
tế nhiều thành phần, đặc biệt xây dựng kinh tế Nhà nước, cần có những biện pháp tổ chức
thực hiện, trong đó khi thực hiện các chủ trương theo Hồ Chí Minh cần thực hiện theo
phương pháp: Chỉ tiêu một, biện pháp mười, quyết tâm hai mươi... có như vậy kế hoạch
mới phát triển được.

II. SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CỦA ĐẢNG TRONG
VIỆC PHÁT TRIỂN CƠ CẤU THÀNH PHẦN KINH TẾ NƯỚC TA

HIỆN NAY
Từ năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân bước vào thời kỳ đổi
mới, một trong những lĩnh vực được Đảng đặc biệt quan tâm đó là đường lối về phát triển
kinh tế nhiều thành phần, xây dựng mơ hình kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những tư tưởng của Hồ Chí Minh về kinh tế
nhiều thành phần đã trở thành nền tảng tư tưởng đặc biệt quan trọng giúp cho Đảng ngày
càng hoàn thiện về đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ
nghĩa,những tư tưởng này đến nay vẫn cịn ngun giá trị, là tài sản vơ giá của Đảng và
nhân dân ta. Từ Đại hội VI đến nay, quan điểm phát triển nhiều loại hình sở hữu và kinh
tế nhiều thành phần luôn được Đảng và Nhà nước ta bổ sung và ngày càng hồn thiện.
Về hình thức sở hữu của nền kinh tế: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII khẳng
định tính đa dạng của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường. Đến Đại hội IX,
Đảng ta xác định 3 hình thức sở hữu cơ bản tồn tại, bao gồm: “sở hữu toàn dân, sở hữu tư
nhân, sở hữu tập thể”[CITATION Đản10 \p 76 \l 1033 ].
Về các thành phần kinh tế: Đảng có những quan điểm phát triển kinh tế nhiều
thành phần ở các kỳ Đại hội. Trong đó, mỗi thành phần Đảng có những quan điểm
chiếnlược khác nhau, song quan điểm chiến lược của Đảng vẫn là phát triển kinh tế nhiều
thành phần. Về số lượng thành phần kinh tế mỗi kỳ Đại hội được Đảng ta xác định khác
nhau, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
được nêu lên tại Đại hội VII. Đảng đã đưa ra quan điểm phát triển kinh tế nhiều thành
phần. Đảng xác định 5 thành phần kinh tế chính: Kinh tế quốc doanh; Kinh tế tập thể;
Kinh tế cá thể; Kinh tế tư bản nhà nước; Kinh tế tư bản tư nhân liên doanh sản xuất. Đại
hội VIII (1996) của Đảng đã thừa nhận 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước; Kinh tế
hợp tác; Kinh tế tư bản nhà nước; Kinh tế cá thể, tiểu chủ; Kinh tế tư bản tư nhân. Trong
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 -2010 được Đảng nêu tại tại Đại hội đại biểu
11


lOMoARcPSD|11424851


toàn quốc lần thứ IX năm 2001, đã xác định có 6 thành phần kinh tế chủ yếu: Kinh tế nhà
nước; Kinh tế tập thể; Kinh tế tư nhân; Kinh tế tư bản nhà nước; Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài. Đến Đại hội X Đảng hoàn thiện hơn trong việc xác định các thành phần kinh
tế, với 5 thành phần kinh tế chính: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá
thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi.
1. Đối với kinh tế quốc doanh:
Trong văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII đã viết: Khuyến khích đầy
mạnh q trình khởi nghiệp kinh doanh. Có chính sách thúc đẩy phát triển các doanh
nghiệp Việt Nam cả về số lượng và chất lượng, thật sự trở thành lực lượng nịng cốt, đi
đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là lần đầu tiên, Đảng đặt vấn đề
khuyến khích đẩy mạnh q trình khởi nghiệp kinh doanh, đó là kết quả của q trình
tổng kết thực tiễn trong nước và nghiên cứu kinh nghiệm của các nước phát triển trên thế
giới.”
2. Đối với kinh tế hợp tác xã;
Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động; nâng cao liên kết và hợp tác dựa trên
lợi ích sử dụng cách thức quản lý hiện đại, phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước có
chính sách hỗ trợ huy động nguồn vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật,
công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường, giúp việc phát triển kinh tế hợp tác xã ngày càng
tốt hơn và phát huy vai trò của kinh tế hộ gia đình.
3. Đối với kinh tế cá thể của nông dân và của thủ công nghệ:
Ban hành, sửa đổi các chính sách khuyến nơng, hình thành các doanh nghiệp kinh
doanh sản phẩm nơng nghiệp giữ vai trị liên kết trung gian, làm “ đầu kéo” cho các sản
phẩm nông nghiệp. Phân bố lại cơ cấu cây trồng, mùa vụ và giống để tôi giảm thiệt hại do
thiên tai, dịch bệnh và thích nghi điều kiện của từng vùng
4. Đối với kinh tế tư bản nhà nước:
Đảng Cộng sản Việt Nam đã áp dụng nhiều hình thức góp vốn kinh doanh giữa
Nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong và ngoài nước nhằm “tạo thể, tạo lực”
cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển, tăng khả năng hợp tác và cạnh tranh với bên
ngồi, cũng cải thiện mơi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý để thu hút có hiệu

quả vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. (Điều này được thể hiện rõ trong Hội nghị lần thứ
tư Ban Chấp hành Trung ương khoá
5. Đối với kinh tế tư bản tư nhân:

12

Downloaded by nhung nhung ()


lOMoARcPSD|11424851

Chính sách của Đảng và Nhà nước ta là khuyến khích tư bản tư nhân bỏ vốn đầu tư
phát triển sản xuất, đáp ứng các nhu cầu của dân cư. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu và
lợi ích hợp pháp của họ; xoá bỏ định kiến và tạo điều kiện thuận lợi về tín dụng, về khoa
học cơng nghệ, về đào tạo cán bộ – cho thành phần kinh tế này. Tuy nhiên, đây là thành
phần kinh tế có tính tự phát rất cao Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX đã
viết: “Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng ra trong các ngành nghề sản
xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo mơi trường kinh doanh thuận lợi về chính
sách pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà
nước
Riêng với thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể, luôn được Đảng xác
định “ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân”[CITATION Đản07 \p 147 \l
1033 ]; “là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều
tiết vĩ mô nền kinh tế, tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và một số cơ sở
công nghiệp quan trọng”[CITATION Đản \p 271 \l 1033 ]. Đối với thành phần kinh tế
khác luôn được Đảng tạo mọi điều kiện phát triển để từng bước đi vào con đường làm ăn
hợp tác trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Đảng nhấn mạnh sẽ tạo điều
kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư lâu dài.
Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh
tế khác cả trong và ngoài nước. Áp dụng phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.

“Đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ
tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất,
kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Mọi doanh
nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do luật định và được
pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác nhau hoặc đan
xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và là
bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa[CITATION Đản1 \p 271 \l 1033 ].
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII (2021), khi đánh giá kết quả thực hiện
nghị quyết Đại hội XII và cơ đồ đất nước sau 35 năm đổi mới, Đảng ta đã nhận định “Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển, kinh tế vĩ mô ổn định,
vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế duy trì ở mức khá cao, quy mô và tiềm lực
nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện”[CITATION Đản2 \p 59 \l
1033 ]. Đánh giá về các thành phần kinh tế, Đại hội XIII cho rằng “các doanh nghiệp nhà
nước từng bước được sắp xếp, tổ chức lại có hiệu quả hơn; Kinh tế tư nhân ngày càng
được khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế; Kinh tế tập thể từng bước
đổi mới gắn với cơ chế thị trường; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh, là
một bộ phận quan trọng của nền kinh tế nước ta” [CITATION Đản2 \p 60 \l 1033 ]. Trên
cơ sở đánh giá đó, Đại hội XIII cũng xác định mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội đến năm
13

Downloaded by nhung nhung ()


lOMoARcPSD|11424851

2030 và tầm nhìn 2045, Đảng nhấn mạnh mục tiêu tổng quát của chúng ta “phấn đấu đến
giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hồn tồn miền Nam, thống
nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua

mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước
đang phát triển, có cơng nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ
niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam: trở thành nước phát triển, thu nhập cao”[CITATION Đản2 \p 112 \l
1033 ]. Để đạt được mục tiêu tổng quát và những mục tiêu cụ thể đó, một trong những
giải pháp được Đảng nêu lên đó là tiếp tục hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về cơ cấu kinh tế, Đảng tiếp tục
khẳng định “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: Kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo;
Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; Kinh tế tư nhân là
một động lực quan trọng; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển
phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội” [CITATION
Đản2 \p 128-129 \l 1033 ].
Như vậy, xuyên suốt lịch sử lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi
mới, Đảng luôn thực hiện nguyên tắc xây dựng nền kinh tế có đa dạng loại hình sở hữu và
kinh tế nhiều thành phần, trong đó vẫn xác định kinh tế Nhà nước là xương sống, chủ đạo
có vai trị lãnh đạo nền kinh tế quốc dân, và cũng tạo mọi điều kiện tối đa phát triển các
thành phần kinh tế khác. Tùy vào bối cảnh lịch sử, Đảng đã có những đường lối, chính
sách phù hợp với thực tiễn để tạo nên động lực to lớn cho phát triển kinh tế -xã hội của
đất nước.

KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần là toàn bộ những
quan điểm tiến bộ, khoa học của Hồ Chí Minh về xác định tính tất yếu và vai trị của các
thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những tư tưởng
này đến nay vẫn còn nguyên giá trị, là bài học kinh nghiệm quý giá của Đảng ta trong xây
dựng đường lối nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.Tư tưởng Hồ Chí Minh về đa dạng các thành phần kinh tế khơng chỉ có ý nghĩa về
mặt lý luận mà cịn có ý nghĩa về mặt thực tiễn sâu sắc cần được tiếp tục nghiên cứu và

vận dụng sáng tạo trong bối cảnh hiện nay

14

Downloaded by nhung nhung ()


lOMoARcPSD|11424851

15

Downloaded by nhung nhung ()


lOMoARcPSD|11424851

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] "www.dangcongsan.org".
[2] Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh tồn tập, tập 12, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2011.
[3] Hồ Chí Minh, Hồ Chí MInh tồn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, 1996.
[4] Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, 2017.
[5] Thường thức Chính trị, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, 1953.
[6] Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh tồn tập, tập 10, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2011.
[7] Hồ Chí Minh, Hồ Chí MInh tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội, 2011.
[8] Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh tồn tập, tập 11, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2011.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc thời kỳ đổi mới, tập 1, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2010.

[10] Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đảng tồn tập, tập 51, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật,
2007.
[11] Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đảng tồn tập, tập 55, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2007..
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng tồn tập, tập 60, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2007.
[13] Đảng Cộngsản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb
Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.

16

Downloaded by nhung nhung ()



×