Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

BÀI GIẢNG đánh giá giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (748.42 KB, 100 trang )

LỜI NĨI ĐẦU
Đo lường đánh giá trong giáo dục nói chung, đo lường đánh giá kết quả
học tập của người học nói riêng là những hoạt động tuy khác nhau về chủ thể
đánh giá, đối tượng đánh giá, qui mô đánh giá, phạm vi sử dụng kết quả đánh
giá.... Tuy nhiên cả hai hoạt động đều có bản chất giống nhau ở chỗ đều là quá
trình thu thập và xử lí các nguồn thơng tin một cách có hệ thống để có những
quyết định tương ứng. Do vậy, cả hai loại đánh giá này được tổ chức trong một
chuyên đề là “Đo lường đánh giá trong giáo dục”. Chuyên đề này được giảng
dạy cho các lớp cao học và cử nhân sư phạm cũng như cho các lớp nghiệp vụ sư
phạm (có điều chỉnh). Đối với các lớp cao học, ngoài các mục tiêu chung với
các lớp cử nhân và nghiệp vụ sư phạm, sau khi học xong chuyên đề này, học
viên có thể:
1. Có những hiểu biết bước đầu cơ bản về khoa học đánh giá giáo dục, như
hệ thống khái niệm, các phương pháp cơ bản dùng trong đánh giá giáo
dục, các kiểu phân loại đánh giá giáo dục.
2. Hiểu và vận dụng các mơ hình đánh giá giáo dục phổ biến
3. Xây dựng được qui trình đánh giá hoạt động giáo dục
Chuyên đề dành phần 1 - “Cơ sở lí luận và thực tiễn của đánh giá giáo
dục” để giải quyết các vấn đề lí luận và chủ yếu dành cho học viên cao học.
Phần 2 - “Đo lường đánh giá kết quả học tập” dành cho các lớp cử nhân và
Nghiệp vụ sư phạm.
Đối với các lớp cử nhân và Nghiệp vụ sư phạm, sau khi học xong chun
đề, người học có thể:
1. Mơ tả những khái niệm cơ bản của khoa học đo lường và đánh giá, xác
định vị trí, vai trị, chức năng của kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy
học.
2. Xác định được mục tiêu giảng dạy môn học, bài học, làm cơ sở cho qui
trình dạy - học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập.
3. Phân biệt và sử dụng được các phương pháp, hình thức kiểm tra đánh giá
trong quá trìn dạy - học (Quan sát, viết, vấn đáp), nhận định những điểm


1


khác biệt và tương đồng giữa trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự
luận, những ưu khuyết điểm của từng loại.
4. Xây dựng được một qui trình với các cơng đoạn, các hoạt động của quá
trình tổ chức một bài kiểm tra hay thi.
5. Xác định được tính tin cậy và giá trị của đo lường đánh giá trong giáo
dục.
6. Soạn thảo được các câu trắc nghiệm theo 5 loại - Đúng/sai, nhiều lựa
chọn, ghép đôi, trả lời ngắn, điền khuyết, các câu tự luận có cấu trúc; phân
tích các câu hỏi theo độ khó, độ phân biệt, tính độ tin cậy, độ giá trị của
một bài trắc nghiệm.
7. Và cuối cùng là lập được kế hoạch kiểm tra đánh giá cho cả môn học từ
khi bắt đầu tới khi kết thúc môn học.
Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên, nội dung của chuyên đề được tổ chức
như sau:
Phần 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của đánh giá giáo dục
Phần 1 gồm 3 chương:
Chương 1- Khái lược về đánh giá giáo dục - giải thích nội hàm khái
niệm đánh giá giáo dục và các khái niệm liên quan, như giá trị, nhận thức, thực
tiễn, chủ thể và khách thể đánh giá
Chương 1 cũng giới thiệu những chức năng cơ bản của đánh giá giáo dục
Chương 2 - Các loại hình đánh giá, đối tượng, nội dung, phương pháp
đánh giá - giới thiệu một số cách phân chia loại hình đánh giá giáo dục, xác
định rõ đối tượng và nội dung nghiên cứu của đánh giá giáo dục. Với tư cách là
một ngành khoa học quản lí, đánh giá giáo dục cũng có những phương pháp
nghiên cứu đặc thù, như phương pháp lịch sử, phương pháp điều tra v.v và đó
cũng là một phần của nội dung chương 2.
Chương 3 - Các mơ hình đánh giá giáo dục, Qui trình tổ chức đánh

giá giáo dục, cung cấp cho học viên những mơ hình đánh giá giáo dục phổ
biến, ưu khuyết điểm của mỗi loại. Đồng thời chương này cũng giúp người học

2


nắm vững một qui trình đánh giá và bước đầu rèn luyện kĩ năng này trong thực
tiễn.
Phần 2. Đo lường đánh giá kết quả học tập
Chương 1 - Một số vấn đề chung - Giới thiệu một số khái niệm, thuật
ngữ thường dùng trong đo lường đánh giá.
Chương 2 - Xây dựng mục tiêu dạy học - Giới thiệu vị trí, vai trị của
mục tiêu trong q trình dạy học, các cấp độ của mục tiêu và bước đầu giúp
người học rèn luyện kĩ năng tự xác định mục tiêu của môn học, bài học làm cơ
sở cho việc lựa chọn hình thức tổ chức dạy - học, phương pháp dạy - học và các
hình thức kiểm tra đánh giá.
Chương 3 - Các phương pháp đánh giá thường được dùng trong giáo
dục - Giới thiệu các phương pháp kiểm tra đánh giá được dùng trong giáo dục,
như quan sát, viết, vấn đáp. Chương 3 đi sâu giới thiệu phương pháp kiểm tra
đánh giá dưới hình thức viết bằng các câu hỏi trắc nghiệm khách quan. Sự khác
biệt và tương đồng giữa câu hỏi trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận,
ưu nhược điểm của mỗi loại.
Chương này bước đầu giúp người học rèn luyện kĩ năng viết các câu hỏi
trắc nghiệm khách quan, tính tốn độ khó, độ phận biệt của các câu hỏi trắc
nghiệm khách quan, độ giá trị, độ tin cậy của một bài thi bằng các câu hỏi trắc
nghiệm khách quan và qui trình tổ chức một bài thi, kiểm tra bằng hình thức trắc
nghiệm khách quan.
Khoa học đo lường và đánh giá trong giáo dục dù đã có lịch sử phát triển
gần 1 thế kỉ trong các nước phát triển, nhưng ở nước ta nó cịn q mới mẻ, các
cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực này mới được một số ít tác giả như Dương

Thiệu Tống, Đặng Bá Lãm, Phan Trọng Ngọ, Trần Tuyết Anh, Lê Đức Ngọc
v.v... đề cập tới, do vậy người học ít có cơ hội tiếp cận các tài liệu tham khảo.
Và đây cũng là lí do tại sao trong tập bài giảng này còn nhiều hạn chế và
bất cập. Những người biên soạn rất biết ơn khi nhận được những lời góp ý của
các bạn sinh viên và đồng nghiệp.

3


PHẦN 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐÁNH GIÁ GIÁO DỤC

CHƯƠNG I
KHÁI LƯỢC VỀ ĐÁNH GIÁ GIÁO DỤC
1. Khái niệm đánh giá giáo dục
1.1. Nội hàm, ý nghĩa, hoạt động đánh giá sự nghiệp giáo dục
Đánh giá giáo dục vừa là một lĩnh vực nghiên cứu của khoa học quản lí
giáo dục, vừa là một cơng cụ hữu hiệu của quản lí giáo dục nhằm phán đốn giá
trị của sự nghiệp giáo dục để điều chỉnh, kiểm nghiệm trình độ phát triển của sự
nghiệp giáo dục và cải tiến để giáo dục ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
cộng đồng xã hội.
Với tư cách vừa là một lĩnh vực của khoa học quản lí giáo dục, vừa là một
cơng cụ của quản lí giáo dục, đánh giá sự nghiệp giáo dục bao hàm những đặc
trưng cơ bản sau:
- Tính khách quan - Cơ sở khách quan của đánh giá là những thông tin về
sự nghiệp giáo dục được thu thập một cách tồn diện, có hệ thống.
- Tính khoa học - Những thơng tin được xử lí một cách khoa học, được
phân tích, lưu giữ thuận tiện cho việc phán đốn chính xác.
- Tính thích ứng phổ biến - Khái niệm đánh giá sự nghiệp giáo dục phải
thích ứng và dễ dàng sử dụng trong tồn bộ hệ thống giáo dục.
- Tính mục đích - Đánh giá không phải là hoạt động tự thân. Kết quả đánh

giá phải được phản hồi cho những tổ chức và cá nhân tương ứng để họ có thể có
những quyết sách phù hợp, thúc đẩy cải cách giáo dục, nâng cao chất lượng,
hiệu quả của sự nghiệp giáo dục.
Từ phân tích trên, có thể định nghĩa đánh giá giáo dục là “Sự thu thập,
chỉnh lí, xử lí, phân tích một cách tồn diện, khoa học, hệ thống những thơng tin
về sự nghiệp giáo dục, để rồi phán đoán giá trị của nó nhằm thúc đẩy cơng cuộc
cải cách giáo dục, nâng cao trình độ phát triển của giáo dục, đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của cộng đồng xã hội”.

4


1.2. Đánh giá và giá trị
Khái niệm đánh giá luôn gắn với khái niệm giá trị vì thực chất của đánh
giá là sự phán đoán giá trị của sự vật hiện tượng. Quan điểm về giá trị đóng vai
trị đặc biệt quan trọng trong quá trình đánh giá, phải thống nhất được cách hiểu
khái niệm này mới có thể có được sự đồng thuận trong đánh giá, trong nhận định
kết quả đánh giá... C.Mac đã chỉ ra rằng: “...giá trị - khái niệm phổ biến này
được nảy sinh từ trong mối quan hệ con người đối xử với thế giới vật chất bên
ngoài thoả mãn nhu cầu của họ” (C.Mac tồn tập, tập 19).
Từ đó có thể thấy giá trị phản ánh quan hệ giữa chủ thể và khách thể, là sự
thoả mãn của khách thể đối với nhu cầu của chủ thể. Chỉ khi chủ thể có nhu cầu
và bản thân khách thể với các thuộc tính khách quan thoả mãn nhu cầu của chủ
thể thì mới xuất hiện giá trị.
Chủ thể ở đây là con người thực tiễn, con người nhận thức hoặc là con
người hoạt động, con người hành vi, còn khách thể là sự vật, hiện tượng trong
thực tiễn khách quan, là đối tượng của nhận thức hay đối tượng của hành vi của
chủ thể.
Mối quan hệ tương hỗ giữa chủ thể và khách thể thường được biểu hiện:
Một là, sự phản ánh của chủ thể đối với khách thể trong thực tiễn, trong

nhận thức, là sự tiếp nhận hay “phục tùng”, tức là thừa nhận sự tác động của
khách thể lên chủ thể.
Hai là sự tác động của chủ thể lên khách thể, để khách thể phục vụ chủ
thể, thoả mãn nhu cầu của chủ thể.
Trên quan điểm hệ thống để phân tích khái niệm giá trị, dễ dàng phát hiện
hai yếu tố trong mối quan hệ qua lại với nhau tạo ra giá trị: thuộc tính khách
quan của sự vật, hiện tượng và nhu cầu chủ quan của chủ thể. Do thuộc tính
khách quan của sự vật, hiện tượng rất đa dạng, nhu cầu chủ quan của chủ thể
cũng vô cùng phong phú, lại khác nhau ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, ở
các thế hệ khác nhau, nên giá trị của sự vật mang tính lịch sử và tương đối. Để
hình thành một giá trị, nhu cầu của chủ thể và thuộc tính khách quan của sự vật
phải gắn kết với nhau theo một phương thức nhất định, và điều đó phản ánh tính
tương quan của giá trị. Tính tương quan, tính lịch sử và tương đối của giá trị sự

5


vật gắn kết với nhau tạo thành tính chỉnh thể của giá trị sự vật. Và nếu xét trên
quan điểm hệ thống, định giá trị thực chất là sự phản ánh tính chỉnh thể của giá
trị sự vật.
1.3. Đánh giá và nhận thức
Đánh giá nói chung là một hoạt động của nhận thức. Thông qua đánh giá
con người nhận thức được bản chất của thế giới khách quan, xác định được thái
độ của con người đối với thế giới khách quan đó, để rồi hoặc chấp nhận nó, hoặc
cải tạo nó phục vụ cho lợi ích con người.
Do giá trị mang tính tương đối, tính lịch sử nên khơng dễ có thể xác định
được tính chỉnh thể của giá trị. Như nói ở trên, muốn phán đốn giá trị hay định
giá trị cần tìm hiểu và nhận thức 3 loại thơng tin:
- Thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng khách quan
- Nhu cầu của chủ thể

- Mức độ, phương thức liên kết tương hỗ giữa nhu cầu của chủ thể và
thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng.
Hai loại thơng tin sau rất khó xác định và gây khó khăn trong việc xác
định tính chỉnh thể của giá trị sự vật, hay nói cách khác là đánh giá được giá trị
của sự vật.
Định giá trị không tách rời nhu cầu của chủ thể, nhưng chủ thể đó cũng
không tự ý quyết định thái độ chủ quan của mình, mà cịn tuỳ thuộc vào bối
cảnh lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ của cộng
đồng xã hội nơi chủ thể đó sinh sống.
Chỉ khi có một nhận thức luận đúng đắn, một quan điểm lịch sử, khoa
học, khách quan trong đánh giá mới có thể đảm bảo xác định được tính chỉnh
thể của giá trị sự vật, mới có được những kết luận đánh giá có giá trị, có tác
dụng đổi mới, cải tạo hoặc chí ít là thích ứng với các sự vật, hiện tượng của thế
giới khách quan.
1.4. Đánh giá và thực tiễn
Nhận thức con người không thể tách rời thực tiễn. Thực tiễn là nguồn gốc
của nhận thức và cũng là mục đích của nhận thức. Cơ sở của nhận thức là thực

6


tiễn, và ngược lại nhận thức chỉ đạo thực tiễn. Quá trình nhận thức bắt đầu từ
thực tiễn và rồi lại quay trở lại kiểm nghiệm qua thực tiễn. Hoạt động đánh giá
với tư cách là một hoạt động nhận thức cũng phải trải qua việc nghiên cứu, nhận
thức đối tượng đánh giá và kết quả của quá trình nhận thức đó lại phải được
kiểm nghiệm trong thực tiễn.
Đối với những phương pháp, lí luận về đánh giá là những thành quả thu
được sau quá trình nghiên cứu thực tiễn phải được kiểm nghiệm lại qua những
thành quả mà các phương pháp hay lí luận đó mang lại. Cịn những kết quả đánh
giá tức là giá trị của sự vật, hiện tượng mà ta thu được sau đánh giá cũng cần

được kiểm nghiệm qua thực tiễn. Sự kiểm nghiệm này được thực hiện trên 3
phương diện:
Một là, mức độ phát triển của khách thể giá trị có phù hợp với kết quả
đánh giá không?
Hai là, mức độ thoả mãn nhu cầu của chủ thể giá trị có phù hợp với kết
quả đánh giá không?
Ba là, nguyện vọng chủ quan của chủ thể đánh giá có được đáp ứng
khơng?
Kiểm nghiệm kết quả đánh giá thường thông qua việc đối chiếu với một
hệ thống giá trị được xác định từ trước, và nhờ vậy, hoạt động đánh giá được
tiến hành liên tục, và có thể dùng kết quả đánh giá lần sau để kiểm nghiệm kết
quả đánh giá lần trước. Nếu công việc được tiến hành liên tục, hoạt động đánh
giá ngày càng khách quan, khoa học và chuẩn xác hơn.
Như vậy, đánh giá trong giáo dục về thực chất cũng là q trình phán
đốn mức độ cao thấp của giá trị sự nghiệp giáo dục. Vậy giá trị của giáo dục là
gì? Theo cách phân tích ở trên, giá trị của giáo dục là nhằm chỉ mối quan hệ
giữa đặc tính, tính chất của sự nghiệp giáo dục với nhu cầu của con người chủ
thể trong thực tiễn xã hội. Sự thoả mãn của sự nghiệp giáo dục đối với nhu cầu
đa dạng, phong phú của con người chủ thể trong một giai đoạn nhất định của
thực tiễn xã hội tạo nên giá trị của sự nghiệp giáo dục ở giai đoạn đó.
Như vậy, chủ thể ở đây bao gồm:

7


Một là, cộng đồng xã hội và con người trong một giai đoạn lịch sử, một
trình độ phát triển KT-XH, KH – CN nhất định. Ở mỗi giai đoạn phát triển của
lịch sử, nhu cầu của cộng đồng xã hội đối với giáo dục, tiêu chuẩn đối với hoạt
động của giáo dục không giống như ở giai đoạn khác. Từng cá nhân trong cộng
đồng đó cũng được chế ước bởi cộng đồng xã hội giai đoạn đó cũng có nhu cầu

đối với sự nghiệp giáo dục rất riêng.
Hai là, những người làm giáo dục (cán bộ quản lí, đội ngũ giáo viên…)
trong mỗi giai đoạn lịch sử cũng có những xu hướng riêng về khái niệm giá trị,
mặc dù vẫn chịu sự chế ước của cộng đồng xã hội với trình độ phát triển của giai
đoạn lịch sử này.
Cịn khách thể của giá trị trong trường hợp này bao gồm tồn bộ các đối
tượng có thể thoả mãn nhu cầu của chủ thể, có thể là vật chất, có thể là tinh thần,
nói chung là rất đa dạng và phong phú.
Trong thực tế đánh giá các hoạt động giáo dục, các giá trị thường được
chuyển dịch từ các phạm trù trừu tượng thành những tiêu chuẩn cụ thể. Những
tiêu chuẩn này phản ánh nhu cầu và lợi ích của các chủ thể và cũng là những
điều chủ thể mong muốn sẽ là những thuộc tính của sự nghiệp giáo dục. Tuy
nhiên, tuỳ theo mục đích đánh giá, nhu cầu của chủ thể đánh giá, thực trạng của
đối tượng đánh giá… mà các tiêu chuẩn này có thể được điều chỉnh, bổ sung và
khơng ngừng hồn thiện.
1.5. Mối quan hệ giữa chủ thể đánh giá và khách thể đánh giá
Xác định rõ ràng chủ thể và khách thể đánh giá trong đánh giá sự nghiệp
giáo dục là việc làm cần thiết để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sự công bằng
trong đánh giá.
Thông thường chủ thể và khách thể trong đánh giá sự nghiệp giáo dục là
tương đối, có thể hốn vị cho nhau tuỳ theo mục đích đánh giá.
Trong đánh giá giáo dục, chủ yếu có 5 mối quan hệ sau:
1- Hệ thống xã hội là chủ thể đánh giá, toàn bộ hệ thống giáo dục quốc
dân là khách thể đánh giá. Giá trị cần phán đoán (đánh giá) ở đây là nhu cầu
phát triển của xã hội được hệ thống giáo dục thoả mãn ở mức độ nào.

8


2 - Hệ thống giáo dục quốc dân là chủ thể đánh giá, hệ thống xã hội và

mối quan hệ của nó với hệ thống giáo dục là khách thể đánh giá, giá trị cần phán
đoán ở đây là sự thoả mãn nhu cầu phát triển giáo dục của hệ thống xã hội.
3 - Cơ quan giáo dục cấp trên là chủ thể đánh giá, cơ quan giáo dục cấp
dưới là khách thể đnáh giá, giá trị cần phán đoán là sự phù hợp của một chính
sách, một nhiệm vụ trong tâm nào đó đối với nhu cầu phát triển của cơ sở giáo
dục nhằm đáp ứng nhu cầu giáo dục của cộng đồng.
4 - Một cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục là chủ thể đánh giá, các
hoạt động dạy - học của cơ sở đó là khách thể đánh giá, giá trị cần phán đoán là
việc thực hiện các mục tiêu của đơn vị, các chế độ, chính sách của đơn vị, nhu
cầu, nguyện vọng của các thành viên.
5 - Một tổ chức đánh giá độc lập là chủ thể đánh giá, một cơ sở trong hệ
thống giáo dục là khách thể đánh giá, giá trị cần phán đoán trong trường hợp này
là sự thoả mãn nhu cầu của xã hội, của cộng đồng của cơ sở đó trong mối tương
quan với các cơ sở khác trong hệ thống giáo dục cũng như với toàn bộ thiết chế
xã hội nói chung.
2. Chức năng của đánh giá giáo dục
Chức năng của đánh giá giáo dục được hiểu là sự tác động của quá trình
đánh giá lên đối tượng đánh giá, được phát huy trước, trong và sau đánh giá theo
chiều hướng mà chủ thể đánh giá mong muốn.
Chức năng của đánh giá giáo dục tuỳ thuộc vào mục đích đánh giá. Mục
đích đánh giá khác nhau, đánh giá sẽ thực hiện các chức năng khác nhau.
Một hoạt động giáo dục bao giờ cũng diễn ra theo một qui trình gồm 3
bước: Trước->trong-> sau.
Như vậy, đánh giá một hoạt động giáo dục cũng được tiến hành tương
ứng với 3 giai đoạn đó là đánh giá chẩn đốn, đánh giá điều chỉnh và đánh giá
tổng kết. Ở cả 3 giai đoạn này đánh giá chủ yếu phát huy chức năng “xác định
đối tượng đánh giá có phù hợp với mục tiêu, với chuẩn không để điều chỉnh hoạt
động nhằm phát huy kết quả đánh giá, nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt
động giáo dục”.


9


Ngoài 3 kiểu đánh giá trên, cần tiến hành loại đánh giá mang tính tổng
hợp nhằm thu thập nguồn thơng tin phục vụ cho việc hoạch định các chính sách
trong lĩnh vực giáo dục sau này.
Thông thường, một hoạt động đánh giá bao gồm 4 bước
- Chuẩn bị phương án đánh giá
- Thực thi phương án đánh giá
- Soạn thảo báo cáo đánh giá
- Phản hồi kết quả đánh giá
Từ đây có thể xác định những chức năng chủ yếu của đánh giá trong giáo
dục như sau:
1. Chức năng định hướng
Khi tiến hành hoạt động đánh giá, việc đầu tiên cần làm là xây dựng
phương án đánh giá, trong đó việc xác định tiêu chuẩn đánh giá là quan trọng
nhất. Những tiêu chuẩn đánh giá vừa thoả mãn nhu cầu của xã hội, vừa thoả mãn
nhu cầu của đối tượng đánh giá, hướng dẫn họ hoạt động theo đúng qui luật phát
triển, đồng thời vẫn thoả mãn nhu cầu của từng cá nhân trong tổ chức đó.
2. Chức năng chẩn đốn, điều chỉnh
Trong q trình thực thi phương án đánh giá, thu thập và xử lí các loại
thơng tin, người đánh giá có thể phát hiện những khó khăn, sự chệch hướng (có
thể) trong hoạt động của đối tượng đánh giá. Từ đây có thể có những cảnh báo,
hoặc điều chỉnh giúp cơ sở được đánh giá đi đúng quĩ đạo hoặc đẩy nhanh tiến
trình hoạt động của đơn vị mình.
3. Chức năng kích thích, khích lệ
Kết quả đánh giá một khi được thông tin phản hồi cho cơ sở được đánh
giá sẽ mang lại sự thoả mãn, động lực mới trong công tác cho các thành viên.
Mặt khác khi nhận được những thông tin về các điểm yếu và cách khắc phục,
các thành viên cũng thấy cần nỗ lực khắc phục khiếm khuyết để vươn lên.


10


CHƯƠNG 2
CÁC LOẠI HÌNH ĐÁNH GIÁ, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG,
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ GIÁO DỤC
1. Các loại hình đánh giá giáo dục
Có nhiều cách phân loại đánh giá giáo dục. Mỗi loại đánh giá nhằm tới
một đối tượng đánh giá, mục đích đánh giá nhất định. Sau đây là một vài cách
phân loại:
1.1. Phân loại theo phạm vi của đối tượng đánh giá
1.1.1. Đánh giá giáo dục tầm vĩ mơ
Đây là loại đánh giá lấy tồn bộ hệ thống giáo dục với các chính sách,
hoạt động giáo dục ở tầm vĩ mô làm đối tượng đánh giá. Trong trường hợp này
hệ thống xã hội là chủ thể đánh giá, khách thể đánh giá là hệ thống giáo dục với
tồn bộ các hoạt động của nó nhằm phục vụ cho nhu cầu phát triển của xã hội.
Giá trị cần phán đoán là mức độ phát triển của hệ thống giáo dục so với nhu cầu
về nguồn nhân lực của hệ thống xã hội. Kết quả đánh giá có thể dùng để chẩn
đoán, điểu chỉnh chiến lược phát triển giáo dục, cải tiến cơng tác quản lí giáo
dục phù hợp với nhu cầu phát triển xã hội.
1.1.2. Đánh giá giáo dục tầm vi mô
Đây là hoạt động đánh giá lấy chất lượng, hiệu quả giáo dục của một cơ
sở giáo dục làm đối tượng đánh giá. Lãnh đạo, giáo viên, học sinh của cơ sơởđó
là chủ thể đánh giá. Giá trị cần phán đốn ở đây là trình độ chất lượng, hiệu quả
của các hoạt động giáo dục được tiến hành trong nhà trường, hay nói cách khác
là sự thoả mãn nhu cầu học tập, làm việc của người học so với hệ thống chuẩn
đã đề ra trước đó. Kết quả đánh giá có tác dụng thúc đẩy cải tiến các hoạt động
giáo dục, nâng cao chất lượng, hiệu quả của các hoạt động này trong nhà trường.
1.2. Phân loại theo tiêu chuẩn giá trị đánh giá

1.2.1. Đánh giá tương đối
Trong đánh giá tương đối, một hoặc một nhóm cá thể được chọn làm
chuẩn giá trị để đánh giá những đối tượng còn lại rồi so sánh hoặc xếp thứ tự.

11


Theo cách đánh giá này, trong bất kì tập thể nào mỗi cá thể đều có thể tìm ra vị
trí tương đối của mình so với các thành viên khác.
Nhưng do thực chất của cách đánh giá này là “chọn cái cao trong nhiều
cái thấp”. “Cái cao” được chọn chưa hẳn là cao, nó chỉ mang tính tương đối
trong số những đối tượng được đem ra đánh giá, và vì vậy kết quả đánh giá
không phản ánh giá trị thực của đối tượng, khơng mang tính khách quan.
1.2.2. Đánh giá tuyệt đối
Đánh giá tuyệt đối dựa trên một bộ chuẩn được xác định một cách khách
quan và dựa vào đó người ta so sánh các đối tượng để đánh giá mức độ phù hợp
chuẩn của họ để phán đoán giá trị. Cách đánh giá dựa trên bộ chuẩn khách quan
đảm bảo đọ tin cậy, độ giá trị của kết quả đánh giá, cung cấp cho các đối tượng
đánh giá độ lệch chuẩn của họ để họ có kế hoạch phấn đấu đạt chuẩn.
Đương nhiên chuẩn cũng do con người đặt ra, khó đạt mức độ khách quan
hồn tồn. Ngồi ra cách đánh giá tuyệt đối không giúp xác định được sự tiến bộ
và vị trí của từng cá nhân trong tập thể.
1.2.3. Đánh giá sự khác biệt trong một cá thể
Cách đánh giá này lấy giá trị quá khứ của một cá thể làm chuẩn và so
sánh nó với giá trị hiện tại cũng của cá thể đó để tìm ra giá trị gia tăng về một
đặc tính nào đó của cá thể sau một quá trình giáo dục.
1.3. Phân loại theo chức năng đánh giá
1.3.1. Đánh giá chẩn đoán
Đánh giá chẩn đoán được tiến hành trước khi diễn ra một hoạt động giáo
dục nào đó. Đánh giá chẩn đốn có đối tượng là những nguồn lực tại một cơ sở

giáo dục có đáp ứng mục tiêu của hoạt động giáo dục sắp sửa diễn ra. Những
thông tin thu được giúp chẩn đốn những thuận lợi, khó khăn có thể gặp phải khi
triển khai hoạt động giáo dục và hoạch định trước những chiến lược hành động
phù hợp để việc thực thi hoạt động giáo dục thành công.
1.3.2. Đánh giá điều chỉnh
Đánh giá điều chỉnh diễn ra trong quá trình thực hiện một hoạt động giáo
dục. Đánh giá điều chỉnh có đối tượng là tồn bộ những sự kiện diễn tra trong

12


q trình thực thi hoạt động giáo dục đó. Những thông tin thu được giúp chủ thể
đánh giá điều chỉnh hoạt động của mình theo đúng hướng tới mục tiêu, nhanh
chóng rút ngắn khoảng cách tới mục tiêu. Qua đó chủ thể đánh giá có thể nghiên
cứu q trình thực thi, đúc rút những bài học kinh nghiệm để quá trình thực thi
diễn ra nhanh và hiệu quả hơn.
1.3.3. Đánh giá tổng kết
Đánh giá tổng kết diễn ra khi kết thúc một quá trình thực thi một hoạt
động giáo dục. Mục đích của đánh giá tổng kết là thu thập mọi bằng chứng để
xác định giá trị, tức là đối chiếu với hệ giá trị đã được xác định từ trước. Đánh
giá tổng kết tương đối đơn giản, dễ thực hiện, kết quả đánh giá khách quan, công
bằng. Tuy nhiên đánh giá tổng kết chỉ mang tính kiểm nghiệm sau khi cơng việc
đã hồn tất.
1.3.4. Đánh giá tổng hợp
Đánh giá tổng hợp có mục đích nghiên cứu, phân tích tồn bộ quá trình
hoạt động của sự nghiệp giáo dục đã hồn thành nhằm tổng kết kinh nghiệm
thành cơng cũng như thất bại, tìm ngun nhân sai sót để cung cấp thơng tin
hiệu quả cho q trình qui hoạch, thiết kế cách chính sách giáo dục sau này.
Đánh giá tổng hợp địi hỏi phải xử lí khối lượng thơng tin lớn, đa dạng,
phức tạp, không chỉ trong lĩnh vực giáo dục mà cả trong các lĩnh vực xã hội

khác có liên quan và đóng vai trị khơng nhỏ trong việc thực thi một hoạt động
giáo dục.
1.4. Phân loại theo nội dung đánh giá
1.4.1. Đánh giá các điều kiện
Đánh giá các điều kiện để tiến hành một hoạt động giáo dục là cơ sở để
đánh giá quá trình. Về nguyên tắc để một hoạt động giáo dục đạt mục tiêu, hay
đạt chuẩn chỉ khi các điều kiện hoạt động phải đạt chuẩn. Đối tượng đánh giá là
các điều kiện về các nguồn lực để hoạt động giáo dục có thể diễn ra như mong
muốn. Việc phán đoán giá trị ở đây là xem xét sự phù hợp giữa hoạt động giáo
dục và các điều kiện nơi nó diễn ra.
1.4.2. Đánh giá quá trình

13


Đánh giá q trình có nội dung đánh giá tương tự như trong đánh giá điều
chỉnh, có nghĩa là xem đối tượng đánh giá là những sự kiện diễn ra trong các
giai đoạn. Mục đích của đánh giá q trình cũng là xác định mức độ đạt chuẩn,
phát huy kết quả đánh giá ở các giai đoạn trước và nhờ vậy thành tích ở các giai
đoạn sau ngày càng tốt hơn. Do vậy, đánh giá quá trình đang ngày càng được sử
dụng nhiều trong việc đánh giá các loại hình hoạt động giáo dục khác nhau.
1.4.3. Đánh giá kết quả
Đánh giá kết quả có nội dung gần như trong đánh giá tổng kết, có đối
tượng đánh giá là chất lượng, hiệu quả của hoạt động giáo dục trên cơ sở đối
chiếu với một hệ chuẩn được xác định từ trước. Đánh giá quá trình và đánh giá
kết quả vừa khu biệt vừa hỗ trợ lẫn nhau và trong những điều kiện nhất định có
thể chuyển hố lẫn nhau. Kết quả cuối cùng của hoạt động này có thể là tiền đề
để bắt đầu một hoạt động mới.
1.5. Phân loại theo chủ thể đánh giá
1.5.1. Tự đánh giá

Tự đánh giá là hoạt động đánh giá của chủ thể đánh giá đối với chính bản
thân mình, tổ chức của mình trên cơ sở đối chiếu với hệ chuẩn được xác định từ
trước. Hoạt động tự dánh giá giúp chủ thể nhận thức rõ hơn về bản thân, về tổ
chức của mình, giúp tự khắc phục những điểm yếu, điều chỉnh các hoạt động
theo chuẩn. Tự đánh giá cũng giúp chủ thể đánh giá có tinh thần trách nhiệm
hơn đối với cơng việc của bản thân và nhờ vậy hoạt động của tổ chức có chất
lượng và hiệu quả hơn.
1.5.2. Đánh giá từ bên ngoài
Đánh giá từ bên ngoài được tiến hành bởi các cơ quan cấp trên hoặc từ
một tổ chức đánh giá độc lập trên cơ sở một bộ chuẩn đã được xác định từ trước.
Đây cũng là đánh giá mức độ đạt chuẩn của một cơ sở giáo dục. Kết quả đánh
giá có thể được sử dụng để điều chỉnh hoạt động của cơ sở đó, hoặc để so sánh
với các tổ chức khác, và cũng có thể dùng làm cơ sở để các cơ quan hữu trách
hoạch định các chính sách, quyết định đối với giáo dục.
1.6. Phân loại theo phương pháp đánh giá
1.6.1. Đánh giá định lượng

14


Đánh giá định lượng là quá trình dùng các phương pháp phân tích định
lượng bằng các mơ hình tốn, kết quả đánh giá được lượng hoá qua các bảng
thống kê, tỉ lệ phần trăm, sơ đồ, biểu đồ v.v…
Phương pháp định lượng tuy cho những kết quả tương đối khách quan và
có sức thuyết phục, song trong q trình lượng hố những thơng tin thu được từ
các hoạt động giáo dục vẫn cần có cơ sở phân tích định tính, thơng qua phán
đốn, biện luận.
1.6.2. Đánh giá định tính
Đánh giá định tính có đối tượng là những sự vật hiện tượng khơng thể
lượng hố, mà phải đưa ra phán đốn giá trị thơng qua điều tra, quan sát, phân

tích hệ thống, phân tích logic, biện luận…
Trong đánh giá giáo dục, một hiện tượng xã hội phức tạp, đa dạng và rộng
khắp cần có sự kết hợp nhuần nhuyễn phương pháp định tính và định lượng mới
có thể dẫn tới những kết quả đánh giá có giá trị và tin cậy.
2. Đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu đánh giá giáo dục
Như đã nói ở trên, đánh giá giáo dục là một lĩnh vực nghiên cứu của khoa
học quản lí giáo dục. Là một ngành khoa học, đánh giá giáo dục cần xác định rõ
đối tượng nghiên cứu, nội dung nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu của nó.
2.1. Đối tượng nghiên cứu của đánh giá giáo dục
Đối tượng nghiên cứu của đánh giá giáo dục với tư cách là một ngành
khoa học là các loại hình hoạt động giáo dục, mối quan hệ giữa chúng, các chức
năng của hoạt động giáo dục và nhu cầu thực thi các chức năng ấy trong hệ
thống xã hội. Điều đó có nghĩa là đánh giá giáo dục nghiên cứu các phương thức
hiệu quả nhất để giáo dục có thể phát huy cao nhất hiệu quả của các nguồn lực
để đạt các mục tiêu về dân trí, nhân lực, nhân tài và nhân cách con người.
Nói cách khác, đối tượng nghiên cứu của đánh giá giáo dục là hệ thống
các mục tiêu của giáo dục, cách thức và mức độ đạt mục tiêu của các cơ sở giáo
dục, tác động của việc đạt mục tiêu đối với nhu cầu phát triển của cả hệ thống xã
hội.
2.2. Nội dung nghiên cứu của đánh giá giáo dục

15


Trong thực tế, đánh giá giáo dục có các cơng việc cụ thể sau:
- Xác lập tiêu chuẩn đánh giá. Đây là công việc quan trọng nhất.
- Áp dụng các phương pháp khoa học để thu thập, xử lí, phân tích thơng
tin đánh giá.
- Suy đốn kết luận, đề xuất kiến nghị, viết báo cáo tổng kết, cung cấp
cho các tổ chức và cá nhân hữu quan sử dung kết quả đánh giá cho các

mục đích khác nhau.
Từ các cơng việc cụ thể đó, có thể xác định những nội dung nghiên cứu
chủ yếu của đánh giá giáo dục như một ngành khoa học như sau:
1. Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của hoạt động đánh giá, như loại
hình đánh giá, qui trình đánh giá, chỉ đạo thực hiện đánh giá.
2. Nghiên cứu tìm ra các phương pháp thực thi cụ thể, như phương pháp
xác định chuẩn cho các loại hình đánh giá, phương pháp thu thập, xử lí
thơng tin của các loại hình đánh giá, nghiên cứu áp dụng cơng nghệ tiên
tiến vào q trình đánh giá v.v…
3. Nghiên cứu các loại hình đánh giá cụ thể như đánh giá kết quả học tập,
đánh giá giảng viên đại học, đánh giá phổ cập giáo dục v.v…
3. Các phương pháp nghiên cứu đánh giá giáo dục
Những phương pháp thường dùng đánh giá hoạt động giáo dục bao gồm
3.1. Phương pháp lịch sử
Đây là phương pháp nghiên cứu, tìm kiếm, phát hiện qui luật và bản chất
của sự vật trong quá trình chúng phát sinh, phát triển và triển vọng. Trong đánh
giá giáo dục, phương pháp lịch sử được sử dụng khi cần thu thập, xử lí các
thơng tin mang tính hệ thống, tính qui luật, để tìm hiểu qui luật phát triển đặc
thù, xu thế phát triển của một đối tượng nào đó trong sự nghiệp giáo dục.
3.2. Phương pháp điều tra
Đây là phương pháp thường dùng trong việc thu thập thông tin đánh giá
từ các nguồn khác nhau thông qua các công cụ như bảng hỏi, phỏng vấn, phỏng
vấn sâu, phỏng vấn cá biệt. Qua việc thu thập thông tin đánh giá từ các nguồn

16


khác nhau cho phép chủ thể đánh giá xác định mức độ tương quan của các thơng
tin, từ đó xác định được các thơng tin tin cậy và có giá trị phục vụ tốt cho q
trình phán đốn giá trị.

3.3. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp thực nghiệm cho phép thử nghiệm một biện pháp, một giả
thuyết trong điều kiện thực có đối chứng với một mẫu ở tình trạng bình thường.
Sau một thời gian nhất định so sánh, đối chiếu kết quả của 2 cơ sở có thực
nghiệm và cơ sở đối chứng từ đó có những kết quả về một kết luận đánh giá nào
đó.
3.4. Phương pháp quan sát
Quan sát là một phương pháp dễ dùng nhất trong đánh giá. Chủ thể đánh
giá có mặt trong tình huống tự nhiên của hoạt động giáo dục, quan sát có mục
đích các hoạt động đang diễn ra thơng qua đó thu được các thông tin đánh giá
cần thiết. Tuy nhiên trong đánh giá giáo dục, quan sát chỉ cung cấp các thông tin
trên bề mặt các sự kiện. Cần thêm thông tin từ nhiều nguồn khác nhau mới có
được cơ sở khoa học cho các phán đoán giá trị.
3.5. Phương pháp toán thống kê
Các phương pháp thường dùng là thống kê, mơ hình tốn…có sử dụng
máy tính và các thành tựu khác của công nghệ thông tin.

17


CHƯƠNG 3. CÁC MƠ HÌNH ĐÁNH GIÁ PHỔ BIẾN
VÀ QUI TRÌNH ĐÁNH GIÁ GIÁO DỤC

1. Một số mơ hình đánh giá
Có nhiều mơ hình đánh giá, và việc chọn mơ hình đánh giá cho những
mục đích đánh giá khác nhau là rất quan trọng. Mỗi loại đánh giá nhằm tới một
số nhiệm vụ nhất định, và mơ hình đánh giá sẽ giúp chủ thể đánh giá phạm trù
hoá được nhiệm vụ đánh giá, từ đó có cơ sở để thu thập, chỉnh lí và xử lí các
thơng tin đánh giá. Vấn đề là phải chọn mơ hình đánh giá phù hợp với mục đích
và nhiệm vụ của từng loại đánh giá. Sau đây là một số mơ hình đánh giá phổ

biến.
1.1. Mơ hình dánh giá theo mục tiêu (Goal-based Model) hay mơ hình E B
Taylor
Đây là mơ hình dễ dùng nhất và do vậy thường được sử dụng trong thực
tế đánh giá. Mơ hình này xem mục tiêu là cơ sở để đánh giá, mà mục đích của
đánh giá là xác định mức độ đạt mục tiêu giáo dục, đồng thời qua đó thúc đẩy
q trình đạt tới mục tiêu.
Qui trình thực hiện đánh giá theo mơ hình này bao gồm các bước sau:
1. Xác định mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể
2. Tăng cường phân tích mục tiêu cụ thể
3. Phân tích mục tiêu dưới dạng các hành vi cụ thể
4. Xác định điều kiện đạt mục tiêu cụ thể
5. Giải thích mục đích và chính sách đánh giá với những nhân viên có liên
quan đến đánh giá
6. Lựa chọn và xây dựng phương pháp trắc nghiệm
7. Thu thập minh chứng thể hiện các hành vi đã được trình diễn
8. Đối chiếu minh chứng với các mục tiêu hành vi

18


Mơ hình đánh giá theo mục tiêu có kết cấu chặt chẽ, đơn giản, dễ thực
hiện vì vậy nó đã chiếm vị trí chủ đạo trong đánh giá giáo dục trong nhiều năm
qua.
Tuy nhiên mơ hình này cũng bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Một số học giả
cho rằng, bất kì hoạt động giáo dục nào, ngoài việc đạt các mục tiêu mong
muốn, cịn có thể nảy sinh những hiệu ứng không mong muốn. Vậy sẽ đánh giá
chúng như thế nào. Một số khác cho rằng giáo dục là quá trình hoạt động của
từng cá nhân cái tôi của người nhận sự giáo dục đó. Mỗi cá nhân đều là người
sáng tạo cuộc sống của chính mình. Mơ hình đánh giá theo mục tiêu sẽ hạn chế

sự phát triển tự do năng lực sáng tạo của họ.
Kết quả của cuộc tranh luận này là nhiều mơ hình đánh giá mới xuất hiện.
1.2. Mơ hình CIPP
Mơ hình CIPP do L.D. Stafflebeam đề xuất năm 1966. Mơ hình được cấu
thành từ đánh giá bối cảnh (Context), đánh giá đầu vào (Input), đánh giá quá
trình (Process) và đánh giá sản phẩm (Product).
Theo Stafflebeam, đánh giá giáo dục cần bắt đầu từ phân tích nhu cầu
phát triển của xã hội, hiện trạng của giáo dục để từ đó xác định được mục tiêu,
tức là đánh giá bối cảnh (C).
Tiếp đến cần đánh giá những điều kiện cần và hiện có để đạt mục tiêu, đó
là đánh giá đầu vào (I).
Bước sau đó là thơng qua các nguồn thơng tin được thu thập và xử lí bằng
các phương pháp khác nhau, so sánh quá trình dự định và quá trình thực thi hoạt
động giáo dục, tìm ra những vấn đề còn tồn tại trong kế hoạch cũng như trong
q trình thực thi hoạt động đó để có biện pháp khắc phục.
Cuối cùng là đánh giá sản phẩm của hoạt động giáo dục thông qua các
thông tin định tính và định lượng và xem đây là căn cứ để đánh giá tồn bộ hoạt
động giáo dục.
Mơ hình này vẫn coi trọng việc đánh giá theo mục tiêu, song khác với mơ
hình Taylor, mơ hình này tạo điều kiện để xác lập mục tiêu phù hợp hơn với nhu
cầu phát triển xã hội. Đồng thời thông qua việc đánh giá các điều kiện thực thi,

19


q trình thực thi, các nhà quản lí kịp thời điều chỉnh những điểm yếu và giúp
hoạt động giáo dục đạt chất lượng và hiệu quả hơn.
1.3. Mơ hình đánh giá sự khác biệt (Discrepancy Evaluation Model)
Mơ hình đánh giá sự khác biệt do Malcolm Provus (1971) đề xuất cho
rằng một chương trình giáo dục khơng tồn tại trong một khoảng không, mà trong

một cấu trúc tổ chức phức hợp. Mơ hình thừa nhận rằng mục đích của đánh giá
khơng phải chỉ là xác định mối quan hệ nhân quả, mà phải tìm được những bằng
chứng đủ để thừa nhận mối quan hệ nhân quả đó. Nói một cách khác, điều cần
quan tâm là tại sao một sự vât, hiện tượng nào đó xuất hiện, chứ khơng phải chỉ
bản thân sự xuất hiện của sự vật đó. Một chương trình giáo dục được đánh giá
phải thông qua các giai đoạn phát triển của nó và mỗi giai đoạn (theo Provus có
các giai đoạn sau: Thiết kế, thực thi q trình, sản phẩm và phân tích chi phí –
lợi ích) bao gồm một loạt các tiêu chuẩn thực hiện (Standards of performance).
Đương nhiên những người thiết kế chương trình giáo dục đã có trong đầu các
tiêu chuẩn thực hiện của chương trình đó và dùng nó để xác định xem chương
trình đó đã được thực hiện như thế nào trong thực tế. Mơ hình này giúp những
người đánh giá xác định sự khác biệt giữa các tiêu chuẩn và những điều đang
diễn ra trong thực tế.
Mơ hình đánh giá sự khác biệt bắt đầu bằng việc miêu tả chương trình cần
đánh giá. Tất cả những người tham gia thực hiện chương trình được mời đến để
giúp xác định các ý tưởng miêu tả chi tiết chương trình này. Sau đó bản miêu tả
này được đem đối chiếu với các tiêu chuẩn thiết kế. Và ở đây sự khác biệt được
phát hiện, sự khác biệt giữa tiêu chuẩn và thiết kế thực tế được thông báo lại cho
các tác giả để xem xét và điều chỉnh. Tiếp theo các đánh giá viên có thể sử dụng
bản thiết kế đã được đánh giá như một bộ chuẩn để đánh giá giai đoạn 2, giai
đoạn thực thi, đối chiếu nó với cương lĩnh hành động của chương trình giáo dục.
Đánh giá viên quan sát quá trình thực hiện chương trình của các nhân viên và
các đối tác. Và nhiệm vụ của họ là xác định sự khác biệt giữa những điều đang
diễn ra với những điều phải diễn ra theo kế hoạch. Những thông tin này cũng
được thơng báo cho những người có trách nhiệm để điều chỉnh.
Trong giai đoạn q trình cần có sự so sánh giữa những gì đã được hồn
thành tốt (do các nhân viên, đối tác…) và các sản phẩm chuyển tiếp như dự kiến

20




×