Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người là vấn đề muôn thuở của triết học. Thế giới xung quanh
chúng ta ln vận động, biến đổi khơng ngừng, thì vấn đề con người đặt ra
cũng ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp.
Hiện nay, con người đang trở thành vấn đề thực tiễn sống còn của mỗi
quốc gia. Đó khơng chỉ là đối tượng nghiên cứu của Triết học mà còn là
tâm điểm của nhiều khoa học khác. Tư tưởng về con người Mác - Ăngghen
được hình thành trên cơ sở kế thừa biện chứng những tư tưởng tiến bộ của
nhân loại. Trong tư tưởng khoa học, cách mạng ấy, con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực phát triển lịch sử. Bản chất nhân đạo, mục tiêu cao cả,
thước đo nhân văn của sự phát triển xã hội là “phát triển vì con người”,
đưa con người từ tất yếu sang tự do. Mác - Ăngghen đã đặt ra cho mình và
đề cập tới vấn đề con người cũng như sự giải phóng con người ở hai
phương diện, lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc, phê phán
tư tưởng của các bậc tiền bối, Mác và Ăngghen đã xây dựng một học
thuyết độc đáo, khoa học và đầy tính thuyết phục về con người cũng như sự
giải phóng con người. Đến nay, học thuyết đó vẫn cịn ngun giá giá trị
trong việc phát triển con người, phát triển xã hội.
Công cuộc đổi mới mà đất nước ta đang tiến hành, về mọi phương
diện, chính là một q trình giải phóng sản xuất, giải phóng tinh thần. Con
người với tư cách “vừa là động lực, vừa là mục đích của cách mạng của sự
nghiệp đổi mới” chính là trung tâm của q trình giải phóng đó.
Ln trung thành với tư tưởng cốt lõi của học thuyết Mác - Ăngghen:
“vì con người và giải phóng nhân loại”. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định:
“con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục
tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta”. Cơng nghiệp hố gắn với hiện đại
hoá phải lấy việc “phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững”. Đầu tư cho phát triển con người hiện nay
chính là làm sâu sắc hơn giá trị khoa học, bản chất cách mạng trong quan
điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác. Đó là cơ sở đưa sự nghiệp cách
mạng trên con đường cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước đi đến thắng
lợi.
Nhận thức được tầm quan trọng đó của việc xây dựng con người trong
thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước chính là lý do để em chọn
đề tài: “Quan điểm của C.Mác - Ăngghen về con người và ý nghĩa của
nó với việc xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hố,
hiện đại hố” là tiểu luận cho mơn học Lịch sử triết học Mác.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Để đáp ứng yêu cầu của môn học Lịch sử triết học Mác cũng như
nhu cầu hiểu biết tư tưởng triết học C.Mác - Ph. Ăngghen về con người.
- Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của triết
học Mác để nhận thức đúng, sâu sắc và có hệ thống tư tưởng Triết học về
con người. Từ đó, liên hệ với việc xây dựng con người Việt Nam trong thời
kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích đã đề ra, tiểu luận tập trung giải quyết những
nhiệm vụ sau:
- Phân tích và trình bày một cách khái qt các quan điểm của C.Mác
- Ăngghen về con người, bản chất con người và sự giải phóng con người
thơng qua việc các ông phê phán quan điểm của các nhà triết học đi trước.
- Giải quyết vấn đề kế thừa những giá trị tư tưởng của C.Mác Ăngghen với việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay.
3. Phạm vi đề tài và phương pháp nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Với một đề tài không lớn, nên em chỉ có thể nghiên cứu dựa trên
những kiến thức hiểu biết từ một số tài liệu sau:
- Giáo trình Lịch sử Triết học Mác - Lênin.
- Một số tác phẩm kinh điển của Mác - Lênin.
- Một số văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam khoá (VII, IX,
X).
- Một số tài liệu viết về vấn đề con người của các nhà khoa học.
- Tài liệu, sách báo, tạp chí có liên quan.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên những nghiên cứu của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, từ chính các tác phẩm của C.Mác Ph.Ăngghen, đồng thời có tham khảo các tài liệu nghiên cứu khác liên quan
tới đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày, đề tài sử dụng các phương
pháp khác như: Phân tích, tổng hợp, lơgíc và lịch sử, hệ thống hố, khái
qt hố, so sánh…
4. Cấu trúc của đề tài
Đề tài: “Quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về con người và ý
nghĩa của nó với việc xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ cơng
nghiệp hố, hiện đại hố” gồm ba phần:
Mở đầu
Nội dung
Kết luận
Phần nội dung gồm 2 chương:
Chương 1. Những quan điểm cơ bản của C.Mác và Ph.Ăngghen
về con người
1. Vài nét sự hình thành quan niệm về con người trong lịch sử
1.1. Quan điểm của các nhà triết học trước C.Mác
1.2. Bước chuyển trong quan niệm về con người Mác - Ăngghen
2. Những quan điểm cơ bản của C.Mác - Ph.Ăngghen về con người
2.1. Nguồn gốc của loài người
2.2. Bản chất con người
2.3. Mối quan hệ của con người với tự nhiên và xã hội
2.4. Vấn đề giải phóng con người
Chương 2. Ý nghĩa tư tưởng triết học về con người của Mác Ăngghen với việc xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ cơng
nghiệp hố, hiện đại hố
1. Cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá và vấn đề phát triển con người ở
Việt Nam trong thời gian qua
2. Xây dựng con người Việt Nam hiện nay - một số vấn đề đang đặt ra
Nội dung
Chương 1
Những quan điểm cơ bản của C.Mác - Ph.Ăngghen về con người
1. Vài nét sự hình thành quan niệm về con người trong lịch sử
triết học
1.1. Quan niệm của các nhà triết học trước C.Mác
Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng triết học về con người
là một q trình biện chứng và đa dạng. Nó vừa chịu sự quy định của
những điều kiện vật chất và tinh thần của xã hội, vừa bị chi phối bởi những
quy luật nội tại của triết học cũng như của bản thân những tri thức triết học
về con người.
Là hạt nhân và cũng là mục tiêu của nhận thức triết học, “chủ đề con
người” có quan hệ hữu cơ với tồn bộ tư tưởng triết học nói chung. Vì thế,
các nấc thang tiến triển của triết học không tách rời những thành tựu trong
việc “tìm kiếm con người” dưới con mắt triết học. Con người là cái gì và
bản chất của nó như thế nào? Con người giữ vai trò như thế nào trong thế
giới hiện thực? Ý nghĩa, giá trị của cuộc sống và bước đường tiến tới của
con người ở đâu? Đó là những câu hỏi thiết yếu của tư tưởng triết học về
con người, nhưng đồng thời, cũng là những vấn đề cốt lõi của chính triết
học.
Từ khi triết học Mác xuất hiện đến nay, triết học càng ngày càng đi
sâu tìm hiểu về con người, đưa ra những khám phá mới có tính khoa học,
thực tiễn và cách mạng về con người. Đó là bước phát triển mới trong tri
thức của chúng ta.
Lịch sử phát triển của tư tưởng triết học về con người gắn liền với
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học.
Qua niệm duy vật tự nhiên cổ đại coi bản chất của con người như một tiểu
vũ trụ với các nguyên tử hoặc quy đặc trưng bản chất con người về bản
chất tự nhiên thuần tuý. Còn quan điểm duy tâm lại xem nguyên bản con
người là linh hồn bất tử, là tinh thần ý thức thuần khiết, là “đạo” (phương
Đơng) mang tính thuần bí. Tính chất siêu hình của các quan niệm trước
Mác về bản chất con người được thể hiện ở chỗ, xem bản chất con người
như cái trừu tượng, bất biến, độc lập tuyệt đối với mọi mối liên hệ hiện
thực. Dù có những đóng góp trong việc xác định bản chất con người, nhưng
triết học tư sản hiện đại vẫn chưa thoát khỏi quan niệm duy tâm siêu hình
và chiết trung khi lý giải cuộc sống và xã hội mà con người đang hiện diện.
Xét đến cùng, cuộc đấu tranh giữa quan niệm duy vật và quan niệm
duy tâm về vấn đề con người là biểu hiện cuộc đấu tranh hệ tư tưởng và lợi
ích giai cấp giữa các giai cấp đối địch nhau trong xã hội. Tuy nhiên, mối
liên hệ nội tại của chúng thường ảnh hưởng, tác động, thâm nhập lẫn nhau,
tiếp thu, lọc bỏ, bổ sung lẫn nhau. Thậm chí, trong khơng ít trường hợp,
như trong triết học Phương Đơng, có sự đan cài giữa chúng ngay trong một
trường phái, một tác gia hay một quan niệm cụ thể nào đó. Ở đây, bức tranh
triết học về con người thật sự phức tạp và sinh động trong tính mâu thuẫn
và phát triển, tính lơgic biện chứng và tinh tất yếu khách quan của nó.
1.2. Bước chuyển trong quan niệm của Mác - Ăngghen
Trước khi học thuyết Mác ra đời, những cố gắng của tư duy triết học
nhằm tìm hiểu bản chất con người đều không đem lại câu trả lời thích đáng.
Bởi lẽ, các nhà triết học trước đó, kể cả các nhà duy vật cũng không thấy
được con người trong hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội.
Do vậy, họ không hiểu được bản chất con người, cũng như khơng hiểu
được vai trị thực tiễn cách mạng dưới sự hình thành và phát triển con
người. Đó cũng là lý do giải thích tại sao trước Mác, người ta chưa thể có
được một lý luận khoa học soi đường trong việc nghiên cứu con người.
Lịch sử đã dành nhiệm vụ khó khăn và vinh dự ấy cho các nhà triết học
của giai cấp vô sản.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã bộc lộ những mâu thuẫn đối kháng không thể điều hoà được. “Độc
lập, tự do, cơm no, áo ấm” vốn là những khát vọng thiêng liêng và nhu cầu
bức thiết nhất của con người. Nhưng, giai cấp tư sản đã đến lúc khơng thể
đáp ứng được mà cịn chà đạp, áp bức. Vì thế, một làn sóng căm phẫn và
đấu tranh của giai cấp công - nông đã diễn ra ở nhiều nước. Nhiệm vụ giải
quyết những đòi hỏi thực tế của con người, chứ không phải là những cuộc
bàn cãi triền miên của các nhà triết học, đã được đặt lên hàng đầu trong đời
sống chính trị. Chính vào lúc đó, hai nhà vơ sản vĩ đại C.Mác và
Ph.Ăngghen chú ý tới vấn đề con người.
Các Mác (1818 - 1883), sinh ra trong một gia đình trí thức ở Tơrevơ,
một vùng có nhiều ảnh hưởng của cách mạng Pháp. Những ảnh hưởng tốt
của giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội đã sớm hình thành và phát triển
tinh thần nhân đạo, xu hướng yêu tự do và sau này là chủ nghĩa vơ sản của
Mác. Trong q trình hoạt động lý luận và thực tiễn đấu tranh cách mạng,
Mác đã gặp Phiđơrich.Ăngghen (1820 - 1895). Tình bạn vĩ đại đã giúp hai
ông cùng nhau xây dựng hệ thống lý luận khoa học và cách mạng, dấn thân
vào cuộc đấu tranh giải phóng con người, giải phóng xã hội.
Học thuyết về con người của Mác và Ăngghen là sự khái quát về mặt
lý luận những lợi ích cơ bản của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh một
mất một còn với giai cấp tư sản. Trong khi kế thừa một cách có phê phán
những thành tựu của triết học thế giới, nhất là Hê-ghen và Phoiơbắc, học
thuyết của hai ông không những trả lời được những vấn đề của con người
do lịch sử triết học đặt ra, đáp ứng được nhiệm vụ đấu tranh trước mắt, mà
còn chỉ ra được sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản: giải phóng con người.
Khắc phục sự nghiên cứu con người một cách trừu tượng mà Hê-ghen,
Phoiơbắc, và những nhà triết học khác là một nhiệm vụ đầu tiên đặt ra
trước Mác - Ăngghen. Theo Mác - Ăngghen thì, phải thay đổi sự sùng bái
con người trừu tượng bằng một khoa học về những con người hiện thực
trong sự phát triển lịch sử của nó. Học thuyết về con người của hai ơng
“chỉ nói đến những con người, trong chừng mực họ là hiện thân của những
phạm trù kinh tế, là những kẻ đại biểu cho những quan hệ giai cấp và
những lợi ích của giai cấp nhất định”.
Nhưng, khơng phải về thế mà khái niệm con người, cá nhân trong chủ
nghĩa Mác chỉ gắn với các quan hệ chính trị, xã hội và kinh tế, mà bao gồm
ở trong đó tồn bộ sự phong phú của tất cả các mặt của con người. Con
người hiện thực, cụ thể, đối tượng đầu tiên để Mác và Ăngghen nghiên cứu
là những người vô sản.
Khi giai cấp vô sản, “tay cầm cờ đỏ bước lên vũ đài lịch sử”, thì ngay
trong những tác phẩm đầu tay, Mác đã thấy “từ bộ mặt thơ rám đi vì lao
động của họ, toả đến chúng ta sự cao quý của con người”. Ăngghen cũng
nhìn cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản bằng con mắt trìu mến, vì ơng đã
thấy “chính từ trong sự phản kháng ấy mà họ tỏ ra là dễ thương nhất, cao
q nhất”. Đấy khơng những là tình cảm ban đầu mà Mác và Ăngghen đối
với giai cấp vô sản, mà cịn là cách nhìn mới mẻ nhất trong lịch sử về
những người lao động. Đấy cũng là những động cơ thơi thúc hai ơng mau
chóng vượt ra khỏi phạm vi nhà triết học đơn thuần để trở thành người
chiến sĩ và sau này là lãnh tụ cách mạng. Mác - Ăngghen đã đem hoạt động
khoa học của mình chỉ đạo cuộc đấu tranh giành lấy quyền lợi sống còn
cho những người bị áp bức trên tồn thế giới.
Vì thế, Mác và Ăngghen đã phủ định cách xem xét và giải quyết vấn
đề con người tách ra khỏi hoạt động thực tiễn. Lần đầu tiên trong lịch sử
triết học, Mác đã giải đáp được vấn đề con người không phải từ thế giới
thần bí hay trong bản thân con người, mà là trong thực tiễn sản xuất của nó.
Luận cương về Phoiơbắc (1886) của Mác đã đánh dấu một bước ngoặt
cách mạng trong nghiên cứu người. Vì nó đã chỉ ra cái chìa khố để hiểu
bản chất con người cũng như cách giải quyết vấn đề con người. Mác đã
viết: “Đời sống xã hội về bản chất là có tính chất thực tiễn. Tất cả những
thần bí đang đẩy lý luận vào con đường chủ nghĩa thần bí, đều được giải
quyết một cách hợp lý trong thực tiễn của con người và trong sự hiểu biết
về thực tiễn đó”.
Vận dụng quan điểm thực tiễn vào việc nghiên cứu và giải quyết vấn
đề conci, Mác - Ăngghen đã chuyển vấn đề con người từ những cách giải
quyết tư biện sang cơ sở vững chắc của đời sống thực tiễn. Do đó, lý luận
của hai ơng khơng chỉ hồn thành được nhiệm vụ giải thích con người, mà
quan trọng là đã vạch ra đường cho việc giải phóng con người. Đó là cái
đích mà cuộc cách mạng vơ sản vươn tới.
2. Những quan điểm cơ bản của C.Mác - Ph.Ăngghen về con
người
2.1. Nguồn gốc của loài người
Khi nghiên cứu một vấn đề nào đó, người ta cũng thường bắt đầu bằng
việc tìm hiểu nguồn gốc của nó. Giải quyết vấn đề bản chất con người cũng
vậy, hơn nữa chúng ta sẽ thấy chính việc tìm hiểu nguồn gốc con người đã
góp phần không nhỏ vào việc nghiên cứu bản chất con người.
Thuyết tiến hoá của Đác-uyn, một phát minh lớn vào giữa thế kỷ XIX,
đã đóng góp vơ cùng quan trọng trong việc giải quyết vấn đề này. Những
nghiên cứu của Đác-uyn đã chỉ cho chúng ta thấy: Tổ tiên loài người là
vượn người, một loài động vật, tất nhiên là loài vượn hiện nay đang sống,
bao giờ cũng chỉ là met giai đoạn tiến hố của sinh vật nói chung.
Như vậy, con người thực sự trở thành người khi bắt đầu lao động và
cùng với lao động, con người có ngơn ngữ. Đó là hai điều kiện tất yếu, là
điều kiện làm cho vượn người trở thành con người. Và cùng với nó, các
giác quan đã phát triển theo, quá trình vượn người biến thành người cũng
gắn liền với quá trình bầy người vượn biến thành xã hội lồi người. Mác
khẳng định chính lao động đã sáng tạo ra con người: Lao động trước hết là
một hành vi giữa con với thiên nhiên. Bản thân người tác động vào thiên
nhiên như một sức tự nhiên. Đồng thời khi tác động vào thế giới bên ngồi
và làm cho thế giới này thay đổi, nó thay đổi cả bản thân nó và làm phát
triển khả năng tiềm tàng.
Nhờ lao động mà con người đã biến đổi (từ loài người thành vượn),
tạo ra một sự khác biệt về chất, con người lao động, vì thế, xã hội lồi
người, ý thức, ngơn ngữ hình thành… nghĩa là bản chất xã hội của con
người có được chính nhờ lao động. Vì thế, Ăngghen viết: “Lao động là
nguồn gốc của cải… Nhưng lao động cịn là một cái gì vô cùng lớn lao hơn
thế nữa, lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài
người, và như thế đến một mức mà trên ý nghĩa nào đó chúng ta phải nói:
lao động đã sáng tạo ra bản thân con người”.
Nhờ lao động, con người đã trải qua những biến đổi về mặt sinh vật và
hơn thế nữa, xét đến cùng, lao động góp phần quan trọng hình thành bản
chất con người và quy định phẩm chất xã hội đặc biệt của con người trong
những điều kiện lịch sử cụ thể. Nhờ lao động mà xã hội đã hình thành và
“lọc bỏ” cái sinh vật trong con người. Và, chính con người là chủ thể sáng
tạo ra bản thân mình, ra chủ thể của lịch sử.
2.2. Bản chất con người
Trên cơ sở tiếp tục một cách có chọn lọc, kế thừa và phát triển những
tư tưởng hợp lý của các nhà triết học trong lịch sử nhân loại, từ triết học Ấn
Độ, Trung Quốc, Hy Lạp - La Mã cổ đại, đến các nhà triết học cổ điển
Đức, Mác - Ăngghen đã khắc phục được những hạn chế của họ. Các ông đã
đưa ra được những tư tưởng đúng đắn về bản chất con người, về con người.
Khi xây dựng quan niệm duy vật về lịch sử về bản chất con người
Mác - Ăngghen đã tạo ra bước ngoặt căn bản trong quan niệm về những “ý
niệm”, “ý niệm tuyệt đối” chỉ là sản phẩm, là sự thể hiện của những điều
kiện sản xuất và giao tiếp nhất định nào đó của con người. Phê phán quan
niệm duy tâm - tư biện về bản chất con người, Mác - Ăngghen đã coi
những tư tưởng tư biện, những “ý niệm” chẳng qua là những xuyên tạc bản
chất thực sự của con người. Chẳng hạn, đối với các khái niệm “thực thể”;
“bản chất con người” mà Hêghen trước đưa ra. C.Mác nhận xét rằng: “tổng
số những lực lượng sản xuất, những tư bản và những hình thức xã hội của
sự giao tiếp mà mỗi cá nhân và mỗi thế hệ thấy hiện có, là cơ sở hiện thực
của cái mà các nhà triết học hình dung là “thực thể”, là “bản chất con
người”, của cái mà họ tơn sùng hoặc đả kích, một cơ sở hiện thực mà tác
động và ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển của con người khơng hề bị
ngăn trở bởi các nhà triết học ấy với tư cách là “tự ý thức” và “kẻ duy
nhất nổi dậy chống lại nó”.
Để tìm ra bản chất và nhận thức đời sống con người, theo Mác Ăngghen, người ta không cần đến những trừu tượng tư biện, mà phải
nghiên cứu một cách cụ thể đời sống sinh hoạt hiện thực. Chỉ bằng cách đó,
chúng ta mới biết được những hoạt động của chính con người. Cho nên,
nhiệm vụ nhận thức con người phải được tiến hành trên cơ sở quan niệm
duy vật về lịch sử.
Trong bức thư Ph.Ănggghen gửi C.Mác ngày 19/11/1844 đã chỉ rõ,
“con người” của Phoiơbắc là “cái phái sinh từ Thượng đế”. Phoiơbắc đi từ
Thượng đế đến “con người”. Vì vậy, “con người” của ơng vẫn được phủ
lên một lớp “hào quang trừu tượng thần thánh”. Ph.Ăngghen cho rằng, con
đường thật sự dẫn đến “con người” phải là con đường hoàn toàn ngược lại.
Con người sẽ mãi chỉ là nhân vật hư ảo, nếu cơ sở của nó khơng phải là
“con người mang tính kinh nghiệm”. Theo ơng, chúng ta chỉ có thể hiểu
“con người” theo đúng nghĩa của nó, khi xuất phát từ cá nhân kinh nghiệm
bằng xương, bằng thịt và chỉ có thể trên cơ sở ấy, các cá nhân mới khơng
cịn đơn giản là cá nhân mà trở thành con người hiện thực với đúng nghĩa
của nó.
Mác - Ăngghen đã đối lập một cách tồn diện, triệt để quan điểm của
mình với quan điểm của các nhà triết học cổ điển Đức là luôn nhấn mạnh
sự mới mẻ trong cách tiếp cận của mình. Con người vốn mang tính hiện
thực. Hoạt động cơ bản của con người là hoạt động sản xuất và giao tiếp.
Bởi vậy, các khái niệm dẫu có là khái niệm trừu tượng, tư biện, thì những
khái niệm ấy cũng vẫn là những khái niệm phản ánh đời sống sinh hoạt
hiện thực, phản ánh hoạt động sản xuất vật chất của con người và tất yếu
chúng phải mang tính khách quan, tính hiện thực.
Trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, giới tự nhiên bao giờ
cũng tồn tại hiện thực đối với con người và là đối tượng cho hoạt động của
con người. Song, trong mọi hoạt động, con người luôn xuất phát từ nhu cầu
của bản thân mình. Nhận thức về lịch sử khơng phải là sự nhận thức cái bề
ngồi. Lịch sử là kết quả hoạt động của chính con người, cho nên, nhận
thức về lịch sử, thực chất là sự tự nhận thức về hoạt động của chính con
người.
Thốt ly khỏi thứ triết học tự biện cổ điển Đức, Mác - Ăngghen đã căn
cứ vào các điều kiện, xu hướng và hiện thực của phong trào cách mạng do
giai cấp vô sản tiến hành để nhận thức để nghiên cứu về con người. Xã hội
tư bản trở thành đối tượng nghiên cứu mà từ đó Mác - Ăngghen nhìn nhận
sự phát triển của con người trong tính chỉnh thể của nó. Các ơng viết:
“Những tiền đề xuất phát từ chúng tôi không phải là những tiền đề tuỳ tiện,
không phải là giáo điều: đó là những tiền đề để hiện thực mà người ta chỉ
có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng mà thơi. Đó là những cá nhân hiện
thực, là hoạt động của họ và điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những
điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của
chính họ tạo ra. Như vậy, tiền đề ấy là có thể kiểm nghiệm được bằng con
đường kinh nghiệm thuần tuý”.
Mác - Ăngghen nhận thức về con người, bản chất con người với mục
đích giải phóng con người khỏi sự nơ lệ hố, tha hố, sự áp bức bất cơng,
sự bần cùng hoá. “Con người là điểm xuất phát và sự giải phóng con
người là mục tiêu cao nhất mà nhân loại cần đạt tới”.
Từ chủ nghĩa duy tâm chuyển sang chủ nghĩa duy vật, trong tác phẩm
Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen - Lời nói đầu, Mác cho
rằng, “con người không phải là một tồn tại trừu tượng ẩn náu đâu đó ở bên
ngồi thế giới, con người chính là thế giới những con người, là Nhà nước
là xã hội”.
Trong Bản thảo kinh tế triết học năm 1884, với phạm trù “lao động
bị tha hoá”, Mác đã xây dựng một triết lý có khả năng soi sáng con đường
giải phóng nhân loại, khắc phục triệt để tình trạng tha hố bản chất con
người. Mác đặt câu hỏi: Vì sao lao động bị tha hố, người cơng nhân bị tha
hoá? Đối lập với quan điểm duy tâm coi lao động bị tha hoá do người lao
động đánh mất mình, Mác chỉ ra cơ sở của sự tha hố do nền sản xuất - xã
hội có tính chất đối kháng. Trước đó, Hêghen đã dùng thuật ngữ “tha hố”
để cắt nghĩa q trình vận động của “ý niệm tuyệt đối”, cịn Phoiơbắc coi
tơn giáo, chúa trời là sự tha hố bản chất “tộc lồi” của con người. Cho
nên, chống tơn giáo là chống sự tha hố con người.
Phạm trù “tha hoá” ở Mác khác căn bản với phạm trù “tha hoá” ở
Hêghen và Phoiơbắc. Mác coi lao động là hoạt động căn bản của con
người, do đó nghiên cứu sự tha hoá trong lao động là sự nghiên cứu sự tha
hoá trong con người. Mác cũng chỉ ra rằng, “sở hữu tư nhân vừa là kết quả
vừa là hình thức biểu hiện lao động bị tha hố, nhưng đồng thời nó cịn là
điều kiện để lao động càng bị tha hoá hơn”.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác không phải là những người đầu tiên
đưa ra quan niệm gắn con người với xã hội, với chính trị. Trong lịch sử,
Aritxtốt đã từng định nghĩa: “con người là động vật chính trị”. Chỉ có điều
là trong quan niệm của Aritxtốt, mặt xã hội của con người chủ yếu gắn với
chính trị, đạo đức và nó chỉ ở tầng lớp chủ nô, tầng lớp trên, do vậy nó
mang tính đẳng cấp.
Luận cương về Phoiơbắc 1845, C.Mác đã khẳng định: “bản chất của
con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội”. Đây là luận điểm nổi bật nhất của triết học Mác Ăngghen về bản chất con người. Khó mà tìm thấy trong lịch sử nhận thức
khoa học của nhân loại một chân lý mới nhìn tưởng như đơn giản và rõ
ràng, nhưng về nhận thức chất, lại có thể sâu sắc và căn bản hơn luận điểm
của C.Mác về bản chất con người. Tuy nhiên, để đến được luận điểm đó,
Mác đã phải trải qua một quá trình nghiên cứu khoa học hết sức tỉ mỉ. Khi
tiếp thu những thành tựu của triết học, Mác - Ăngghen đã phê phán một
cách sâu sắc triệt để phương pháp trừu tượng hoá tư biện, bác bỏ tận gốc
phương pháp tự biện trong việc xác định bản chất con người. Theo các ông,
mọi hành động xác định bản chất con người trước kia và bên ngoài việc
nghiên cứu cụ thể đời sống sinh hoạt hiện thực của con người đều là sự
nhạo báng đời sống khoa học. Do vậy Mác - Ăngghen khơng nói đến con
người chung chung mà là con người hữu tình mang tính lịch sử cụ thể trong
điều kiện sinh hoạt hiện thực của nó.
Luận cương về Phoiơbắc là một tác phẩm quan trọng góp phần hình
thành quan niệm duy vật lịch sử nói chung, quan điểm về con người của
Mác nói riêng. Luận cương là sự chuẩn bị cho tác phẩm Hệ tư tưởng Đức
sau này. C.Mác cũng đã chỉ rõ rằng: “Đời sống xã hội, về thực chất có tính
chất thực tiễn. Tất cả những sự thần bí đang đưa lý luận đến chủ nghĩa
thần bí, đều được giải đáp một cách hợp lý trong thực tiễn của con người
và trong sự hiểu biết thực tiễn ấy”.
Luận cương về Phoiơbắc còn nhấn mạnh vai trò của thực tiễn: “Các
nhà khoa học đã giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn
đề là cải tạo thế giới”. Con người tồn tại trong tự nhiên, gắn bó chặt chẽ
với tự nhiên, giới tự nhiên là thân thể vốn có của con người, thân thể mà
với con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại.
Vì thế, con người là bộ phận của tự nhiên.
Trong Hệ tư tưởng Đức, Mác - Ăngghen cho rằng, con người - đó là
những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt
vật chất của họ, những điều kiện mà thấy có sẵn cũng như những điều kiện
do hoạt động của chính họ tạo ra.
Định nghĩa “bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”
mâu thuẫn với quan niệm tư biện về bản chất con người, khi “hoà tan bản
chất tôn giáo vào cơ sở trần tục của con người”. Theo Mác, vấn đề không
đơn giản ở chỗ quy bản chất của tơn giáo nói riêng, của tư tưởng nói chung
về những điều kiện sinh hoạt trần tục. “Trước hết phải hiểu bản thân trần
tục ấy trong mâu thuẫn của nó và sau đó là cách mạng hố trong thực tiễn
bằng cách xố bỏ mâu thuẫn”.
Khi giải thích sự vận động của lịch sử, Mác - Ăngghen luôn nhấn
mạnh, lịch sử của con người là do bản thân con người tạo ra. Về thực chất,
họ là những chủ thể hiện thực của lịch sử, cịn lịch sử là q trình phát triển
của họ thể hiện mối quan hệ và sự đấu tranh giữa họ với nhau. “Bản thân
con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một
bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư
liệu sinh hoạt của mình, như thế, con người đã gián tiếp sản xuất chính đời
sống vật chất của mình”.
Để tồn tại, con vật phải kiếm sống, nhưng hoạt động kiếm sống của
chúng khác hẳn hoạt động sản xuất của con người. Mác chỉ rõ: “Con vật
cũng sản xuất. Nóxây tổ, chỗ ở của nó, như con người, con hải ly, con
kiến… Nhưng, con vật chỉ sản xuất ra cái bản thân nói hoặc con nó trực
tiếp cần đến… còn con người sản xuất ngay cả khi khơng bị nhu cầu đó
ràng buộc”. Mác nhấn mạnh thêm: “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó,
cịn con người thì tái sản xuất ra tồn bộ thế giới tự nhiên”.
Hơn thế, việc tái sản xuất của con người khơng chỉ nhằm mục đích vật
chất mà cịn nhằm mục đích tinh thần. Hoạt động của con người là hoạt
động có ý thức. Và, chính hoạt động đó phân biệt con người với con vật.
Nếu thiếu điều này, người ta sẽ nhầm lẫn hoạt động của con vật với hoạt
động của con người. Cái phân biệt chính là ở chỗ con người có ý thức, có
tư duy và có khả năng nhận thức cái trừu tượng.
Mác - Ăngghen cho rằng, lao động là hoạt động bản chất của con
người. Đó chính là q trình con người chế tạo ra cơng cụ lao động và dùng
nó để tác động vào giới tự nhiên, tạo ra sản phẩm phục vụ cho cuộc sống
của mình, đồng thời, qua đó, làm biến đổi tự nhiên, sáng tạo ra thế giới của
mình. Thơng qua lao động, con người không chỉ biến đổi tự nhiên mà cịn
biến đổi chính bản thân mình. Nhờ có lao động, con người ngày càng phát
triển, ngày càng hoàn thiện, nhận thức sâu sắc về thế giới khách quan và
chinh phục tự nhiên có hiệu quả. Qua lao động, con người gắn bó với tự
nhiên và với đồng loại và bản chất của con người được biểu hiện ra. Con
người tạo ra những tư liệu sản xuất thoả mãn nhu cầu của mình, duy trì
cuộc sống như ăn, mặc, ở, đi lại… Tuy nhiên, những hành động của con
người không phải là bản năng sinh vật đơn thuần. Kể cả ngay ở những hành
động tưởng như mang tính bản năng thuần t (sinh con đẻ cái, duy trì nịi
giống…) con người cũng có ý thức điều tiết sao cho phù hợp với nhu cầu
của xã hội.
Như vậy, trong quan niệm của Mác - Ăngghen, con người, bằng hoạt
động lao động của mình đã làm biến đổi bản chất tự nhiên và tạo ra bản
chất xã hội cho chính mình. Bản chất tự nhiên của con người được chuyển
vào bản chất xã hội và được cải biến trong đó. Chỉ có trong lao động, trong
xã hội con người mới thể hiện bản chất của mình. Tự nhiên và xã hội thống
nhất với nhau trong bản chất con người. Con người là động vật xã hội,
động vật biết chế tạo và sử dụng công cụ lao động, tự nhận thức được mình
và cải tạo chính mình.
Khi nói về bản chất con người, bao giờ Mác cũng nói đến bản chất ấy
trong những hồn cảnh lịch sử cụ thể, gắn với một thời đại nhất định. Ở
những thời điểm khác nhau, bản chất con người biểu hiện ra với những đặc
điểm khác nhau. Cho nên, trong xã hội có giai cấp, bản chất con người
cũng mang tính giai cấp.
Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học - 1847, Mác đã thể hiện
quan điểm về con người của mình ở nhận xét thứ năm, chưong hai của tác
phẩm. Mác coi con người và những nhu cầu của họ, những lực lượng sản
xuất của họ, phương thức sản xuất của họ, những nguyên liệu trong sản
xuất và quan hệ giữa người với người do tất cả các điều kiện sinh tồn ấy
sinh ra, quyết định sự phát triển của tư tưởng, lý luận… Như vậy, nghĩa là
chính con người, với hoạt động có ý thức của mình đã quyết định ý thức xã
hội chứ không phải bất kỳ một lực lượng thần thánh, siêu nhiên nào.
Trong tác phẩm Tư bản xuất bản 1867, Mác - Ăngghen cũng chỉ rõ
vai trị của lao động và cơng cụ lao động với sự phát sinh, phát triển của
con người và của cả xã hội lồi người. Hoạt động có mục đích của con
người, trước hết là hoạt động sản xuất ra cơng cụ lao động phân biệt hồn
tồn lao động của con người với hoạt động tương tự của loài động vật.
“Một con nhện làm những động tác giống như những người thợ dệt, con
ong xây những tầng tháp làm cho kiến trúc sư phải xấu hổ. Nhưng một kiến
trúc sư tồi nhất cũng khác con ong giỏi nhất ở chỗ, kiến trúc sư trước khi
xây dựng thì đã xây dựng tầng đó trong óc mình rồi”.
Tư liệu lao động không những là thước đo của sự phát triển sức lao
động của con người mà còn dấu hiệu của những quan hệ xã hội trong đó.
Mác cịn viết: “Nhưng, bản thân cơng cụ lao động khơng làm được gì nếu
khơng được kết hợp bằng cách này hay cách khác lao động của công
nhân… Nhưng thời đại khác nhau trong sự phát triển kinh tế xã hội phân
biệt với nhau bởi tính chất và phương thức kết hợp lao động sống của công
nhân với công cụ sản xuất”.
Tóm lại, theo Mác - Ăngghen, con người khơng phải cái gì trừu
tượng, mà là sản phẩm của tự nhiên, của xã hội, mang tính lịch sử - cụ thể.
Bản chất của con người hiện tại, tồn tại và phát triển trong lao động, sản
xuất, chinh phục tự nhiên và trong đấu tranh giai cấp cải tạo xã hội.
Khơng có con người thì khơng có xã hội. Tuy nhiên, xã hội không
phải chỉ là tập hợp những cộng đồng con người, bởi trong xã hội, ngoài sự
hiện diện của tập hợp con người, cịn có những mối liên hệ gắn kết những
con người, những cộng đồng lại thành một hệ thống. Do đó, thấy rõ bản
chất của con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội theo Mác Ăngghen, cần hiểu rằng bản chất của con người không phải là tổng hoà đơn
giản các quan hệ phức tạp, đan chéo nhau, mà đó là sự khái quát tất thảy
những quan hệ của con người.
Sự phát triển của con người trong thời đại ngày nay, cho phép chúng
ta khẳng định chắc chắn rằng, quan niệm của Mác - Ăngghen về bản chất
con người hoàn toàn khác với quan niệm của các nhà triết học trước đó.
Với quan niệm này, các ơng đã thể hiện cách nhìn biện chứng, khoa học về
bản chất con người tạo nên bước ngoặt mang tính cách mạng trong lĩnh vực
tư tưởng về con người. Quan niệm của Mác - Ăngghen xoá tán sương mù,
mở cửa, thần bí vây quanh con người bấy lâu, đồng thời, vạch ra bản chất
đích thực, đầy sức thuyết phục về con người. Quan niệm của Mác Ăngghen có giá trị to lớn về cả mặt lý luận và thực tiễn, trở thành cơ sở
khoa học cho nhiều ngành khoa học nghiên cứu về con người, đồng thời là
cơ sở vững chắc cho lý luận đấu tranh giai cấp, giải phóng con người khỏi
lao động, bị tha hoá trong chủ nghĩa tư bản, khỏi áp bức, bóc lột, tạo điều
kiện cho con người phát triển toàn diện, vươn tới tự do. Và, “con người là
tổng hoà các quan hệ”, là sản phẩm của hoàn cảnh nhưng chính con người
lại là chủ thể của những biến đổi to lớn với hoàn cảnh khách quan. Hoàn
cảnh tạo ra con người và con người làm thay đổi hồn cảnh là sự thống
nhất biện chứng trong q trình phát triển xã hội.
2.3. Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội
2.3.1. Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
Đối với Mác - Ăngghen, vấn đề quan hệ giữa con người và tự nhiên
đã trở thành xuất phát điểm để phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen.
Mác - Ăngghen chỉ rõ khuyết điểm của Hêghen là ở chỗ Hêghen quy con
người về tự ý thức coi con người là cái thuộc về thế giới tinh thần. Đối với
Hêghen, các sự vật, các vật thể vật chất cảm tính chỉ là sản phẩm tinh thần.
Hai ông cho rằng: Từ lập trường duy tâm đó Hêghen đã đặt dấu bằng giữa
sự tha hoá và cái khách quan. Với Hêghen, khách quan là do tinh thần quy
định. Cho nên, Hêghen đã quy tính hiện thực của đời sống con người về sự
vận động của ý thức. Để có được sự nhận thức thực sự về tồn tại con người,
theo Mác - Ăngghen, cần phải từ bỏ một cách có ý thức và triệt để quan
niệm duy tâm tư biện của triết học Hêghen và chuyển sang lập trường của
chủ nghĩa duy vật.
Như vậy, khi xuấtt phát từ lập trường duy vật, từ quan niệm duy vật
lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã phát hiện ra tính khách quan
trong đời sống sinh hoạt của con người, tính khách quan các hình thức vận
động của đời sống con người. Từ đó, các ơng tới quan niệm coi con người
và đời sống xã hội của con người là hình thức tồn tại vật chất. Tự nhiên đó
có thể để có nhận thức được bản chất con người và đời sống của con người
trong tính quy định đặc thù của nó, phải xuất phát từ lập trường thế giới
quan duy vật. Trong Lútvich Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức, Ph.Ăngghen nói: “Phoiơ bắc đã hồn tồn đúng, khi ơng nói
rằng chủ nghĩa duy vật thuần tuý tự nhiên là: “cơ sở của toàn kiến trúc tri
thức con người nhưng khơng phải là bản thân tồn kiến trúc đó”
L. Phoiơbắc coi con người là một thực thể tự nhiên đặc biệt và tính
đặc thù ấy là ở chỗ, coi người là một thực thể tộc loại có khả năng hiểu
được tộc loại của mình và có quan hệ với bản thân mình như với tộc loại
của mình, và qua đó, đạt tới tính tộc loại của các sự vật khác. Cịn C.Mác
thì cho rằng: “con người khơng chỉ là thực thể tự nhiên, nó là thực thể tự
nhiên có tính chất người”. Song, những kết quả mà Mác và Phoiơbắc rút ra
từ quan niệm của mình lại rất khác nhau. Phoiơbắc đi từ chủ nghĩa duy vật
tới chủ nghĩa duy tâm, cịn Mác thì đi quan niệm duy vật nói chung đến
quan niệm duy vật lịch sử. Theo Mác “toàn bộ cái gọi là lịch sử thế giới
chẳng qua là sự sáng tạo con người kinh qua lao động của con người, sự
sinh thành của tự nhiên cho con người”.
Vai trị của lao động đối với sự hình thành và phát triển của con người
cũng được Ăngghen đề cập rõ ràng: “Tác dụng của lao động trong quá
trình chuyển biến từ vượn người là điều cơ bản, đầu tiên của toàn bộ đời
sống loài người, là cái đã sáng tạo ra bản thân người”.
Ở tác phẩm Tư bản (1848 - 1871), C.Mác chỉ rõ, lao động trước hết là
một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, trong đó bằng hoạt động
của mình, con người “làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất
giữa họ và tự nhiên”. Con người đối diện với thực thể của tự nhiên với tư
cách là một lực lượng của tự nhiên, con người vận dụng sức mạnh tự nhiên
thuộc về thân thể họ.
Tác phẩm Biện chứng của tự nhiên (1875), Ph.Ăngghen đã chứng
minh rằng, con người không chỉ là sản phẩm của tự nhiên, mà còn là sản