Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Lý thuyết nền kinh tế hỗn hợp của p a samuelson và ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu lý thuyết này đối với việt nam 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.65 KB, 20 trang )

Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU .....................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................... 2
I. LÝ THUYẾT VỀ NỀN KINH TẾ HỖN HỢP CỦA P.A.SAMUELSON...2
1. Ba vấn đề của tổ chức kinh tế............................................................................2
2. Cơ chế thị trường (bàn tay vô hình)..................................................................2
3. Vai trị chính phủ trong kinh tế thị trường (bàn tay hữu hình)..........................5
3.1. Thiết lập khn khổ pháp luật........................................................................5
3.2. Sửa chữa những thất bại của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả5
3.3. Đảm bảo sự cơng bằng...................................................................................7
3.4. Ổn định kinh tế vĩ mô.....................................................................................7
II. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU LÝ THUYẾT
“NỀN KINH TẾ HỖN HỢP” ĐỐI VỚI VIỆT NAM......................................9
1. Thực trạng phát triển nền kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.................................................................................................9
1.1 Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là tất
yếu khách quan......................................................................................................9
1. 2. Đặc trưng, bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay..............................................................................................12.
2. Ý nghĩ thực tiễn của việc nghiên cứu lý thuyết “nền kinh tế hỗn hợp” của
P.A.Samuelson đối với Việt Nam.......................................................................15
KẾT LUẬN........................................................................................................18
Tài liệu tham khảo...............................................................................................19

Học viên: Lê Thanh Hằng

Lớp 10.02C



Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới đang bước vào thời đại kinh tế mới, kinh tế thị trường phải có sự
điều tiết thích hợp của Nhà nước. Trong đó, sẽ yêu cầu cao hơn về tăng cường
vai trò của luật pháp, chế tài, điều tiết của Nhà nước, kiểm soát các thể chế thị
trường, thắt chặt cho vay tín dụng, thiết lập hệ thống thông tin công khai, minh
bạch…Tư duy mới về bàn tay Nhà nước đang và sẽ ngày càng trở nên rõ nét,
bao quát và chi phối toàn bộ các hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh
tế - xã hội quốc gia và quốc tế. Tuy nhiên, "bàn tay hữu hình" cũng có những
khuyết tật của nó, do chính phủ có những nhận định sai lầm và đưa ra những
quyết định can thiệp trái với sự vận động khách quan của thị trường. Cho nên phải
kết hợp cả hai mặt “bàn tay vơ hình” và “bàn tay hữu hình”. Từ những năm 60-70
của thế kỷ 20, P.A.Samuelson đã đề ra lý thuyết “nền kinh tế hỗn hợp” dựa trên
học thuyết của J. M. Keynes về vai trò tự điều chỉnh của nền kinh tế và học thuyết
của phái Tân cổ điển. Lý thuyết “nền kinh tế hỗn hợp” với luận điểm là nền kinh
tế thị trường nhưng có sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế được vận hành bởi
hai bàn tay: thị trường và Nhà nước đã đạt được tiếng vang trong suốt những
thập niên cuối của thế kỷ 20 cho đến nay. Luận điểm về sự kết hợp linh hoạt cả
hai bàn tay trong việc điều hành kinh tế của P.A. Samuelson có nhiều điểm
tương đồng với quan điểm của Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Do đó, nghiên
cứu các học thuyết kinh tế nói chung và lý thuyết “nền kinh tế hỗn hợp” nói
riêng có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển nền kinh tế ở nước ta.
Xuất phát từ thực tiễn đó, em lựa chọn đề tài “Lý thuyết “nền kinh tế hỗn
hợp” của P.A.Samuelson và ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu lý thuyết này
đối với Việt Nam” làm tiểu luận môn lịch sử các học thuyết kinh tế. Qua đó, đi
sâu nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề: Thế nào là “nền kinh tế hỗn hợp”; Thực
trạng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và ý nghĩa việc
nghiên cứu lý thuyết “nền kinh tế hỗn hợp” đối với Việt Nam?

Do trình độ và thời gian có hạn, bài viết của em khó tránh khỏi những
thiếu sót và hạn chế. Vì vậy, em kính mong nhận được ý kiến đóng góp của các
thầy cơ để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.

Học viên: Lê Thanh Hằng

1

Lớp 10.02 C


Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
NỘI DUNG
I. LÝ THUYẾT VỀ NỀN KINH TẾ HỖN HỢP CỦA P.A. SAMUELSON
“Nền kinh tế hỗn hợp” là nền kinh tế kết hợp trong đó kinh tế tư nhân và
kinh tế Nhà nước, nó được điều hành bởi cơ chế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước.
1. Ba vấn đề của tổ chức kinh tế
Mọi nền kinh tế đều phải đối phó với ba vấn đề:
Sản xuất hàng hóa gì? Với số lượng là bao nhiêu?
Sản xuất hàng hóa như thế nào? Ai là người sản xuất, sán xuất bằng
nguồn lực nào, sử dụng kỹ thuật sản xuất nào?
Sản xuất cho ai? Ai là người được hưởng các thành quả của những nỗ lực
kinh tế hay sản phẩm quốc dân được phân chia thế nào?
(Do sản xuất của nền kinh tế bị hạn chế bởi các nguồn lực và kiến thức công
nghệ, mỗi xã hội dù giàu hay nghèo đều phải lựa chọn)
Trong lịch sử có hai phương thức: (i) Chính phủ đưa ra hầu hết các quyết
định kinh tế; (ii) Các quyết định kinh tế đều do thị trường xác định. Cả hai
phương thức đều có ưu điểm và hạn chế, khơng nên tuyệt đối hóa một phương
thức nào mà cần kết hợp: Cơ chế thị trường và điều tiết của Nhà nước

2. Cơ chế thị trường (bàn tay vô hình)
Theo P.A. Samuelson, cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế,
trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua
thị trường để xác định 3 vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là: Sản xuất cái gì?
Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Cơ chế thị trường “không phải là sự hôn
hợp mà là trật tự kinh tế”.
Thị trường là một quá trình mà trong đó, người mua và người bán một thứ
hàng hóa tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa.
Như vậy, nói đến thị trường và cơ chế thị trường là nói tới hàng hóa, người bán,
người mua và giá cả hàng hóa. Hàng hóa bao gồm hàng tiêu dùng, dịch vụ và
yếu tố sản xuất như lao động, đất đai, tư bản. Từ đó, hình thành nên thị trường
hàng tiêu dùng và thị trường các yếu tố sản xuất. Trong hệ thống thị trường, mỗi
hàng hóa, mỗi lại dịch vụ đều có giá của nó. Giả cả mang lại thu nhập cho hàng
hóa mang đi bán và mỗi người lại dùng thu nhập đó mua lại cái mình cần. Nếu
Học viên: Lê Thanh Hằng

2

Lớp 10.02 C


Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
một hàng hóa có nhiều người mua, thì người bán sẽ tăng giá lên để phân phối
một lượng cung hạn chế. Giá lên cao sẽ thúc đẩy người sản xuất làm ra nhiều
hàng hóa hơn. Khi có nhiều hàng hóa, người bán muốn mua nhanh để giải quyết
hàng hóa của mình nên hạ giá xuống. Khi hạ giá, số người mua hàng hóa đó
tăng lên. Do đó, người bán lại tăng giá lên. Như vậy, trong cơ chế thị trường có
một hệ thống tự tạo ra sự cấn đối giữa giá cả và sản xuất. “Giá cả là phương tiện
tín hiệu của xã hội”. Nó chỉ cho người sản xuất biết sản xuất cái gì, sản xuất như
thế nào và cũng thơng qua nó thực hiện phân phối cho ai?

Nói đến cơ chế thị trường là phải nói tới cung – cầu hàng hóa, đó là khái
quát của hai lực lượng người bán và người mua trên thị trường. Sự biến động
của giá cả đã làm cho trạng thái cân bằng cung – cầu thường xun biến đổi và
đó cũng chính là nội dung quy luật cung – cầu hàng hóa.
Nền kinh tế thị trường chịu điều khiển của hai ông vua: Người tiêu dùng
và kỹ thuật. Người tiêu dùng thống trị thị trường, vì họ là người bỏ tiền ra để
mua hàng hóa do các doanh nghiệp sản xuất ra. Hay như ơng nói, người tiêu
dùng bỏ phiếu bằng đơla. Họ chọn điểm nằm trên danh giới khả năng sản xuất.
Song, kỹ thuật hạn chế người tiêu dùng vì nền sản xuất bằng đôla của người mua
không thể quyết định vấn đề phải sản xuất hàng hóa gì. Như vậy, nhu cầu phải
chịu theo cung ứng của người kinh doanh. Vì người sản xuất phải định giá hàng
của mình theo chi phí sản xuất nên họ sẵn sàng chuyển sang lĩnh vực nhiều lợi
nhuận hơn. Như vậy, thị trường chịu sự chi phối của cả chi phí kinh doanh lẫn
các quyết định cung và cầu của người tiêu dùng quy định.
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực chi phối hoạt động của
người kinh doanh. Lợi nhuận đưa nhà doanh nghiệp đến các khu vực sản xuất
hàng hóa mà người tiêu dùng cần nhiều hơn, bỏ các khu vực ít người tiêu dùng.
Lợi nhuận đưa nhà doanh nghiệp đến việc sử dụng kỹ thuật sản xuất hiệu quả
nhất. Như vậy, hệ thống thị trường luôn phải dùng lãi và lỗ để quyết định 3 vấn
đề: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào; Sản xuất cho ai?
Trong sơ đồ này, các nhà kinh tế học trường phái chính đã phân chia thị
trường thành hai loại thị trường tiêu dùng và dịch vụ hay thị trường đầu ra và thị
trường yếu tố sản xuất hay thị trường đầu vào. Hai thị trường này tách biệt với
nhau, song có quan hệ với nhau qua hoạt động của doanh nghiệp và hộ gia đình.
Học viên: Lê Thanh Hằng

3

Lớp 10.02 C



Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
Doanh nghiệp là nơi sản xuất hàng hóa để bán trên thị trường hàng hóa và dịch
vụ, vì vậy, trên thị trường này doanh nghiệp là sức cung, cung hàng hóa của
doanh nghiệp hoạt động tuân theo nguyên lý chi phí sản xuất, điều này có nghĩa,
khi giá cả hàng hóa trên thị trường càng cao thì doanh nghiệp càng bán ra một
khối lượng hàng hóa lớn hơn. Để có thể tiến hành sản xuất, doanh nghiệp phải
mua yếu tố sản xuất trên thị trường yếu tố sản xuất. Do vậy, trên thị trường này
doanh nghiệp là sức cầu. Cầu của doanh nghiệp về các yếu tố sản xuất được tuân
theo nguyên tắc lợi ích giới hạn. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp sẽ mua khối
lượng yếu tố sản xuất lớn hơn khi giá cả của các yếu tố sản xuất giảm xuống.
Hộ gia đình là những người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Vì vậy, trên thị trường
“đầu ra”, hộ gia đình là sức cầu. Cầu về hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ của hộ
gia đình cũng tuân theo ngun tắc ích lợi giới hạn. Để có tiền mua hàng hóa
tiêu dùng, dịch vụ, hộ tiêu dùng phải xuất hiện trên thị trường “đầu vào” để bán
các yếu tố sản xuất nào đó hoặc là lao động nếu anh ta là công nhân, hoặc là đất
đai nếu anh ta là địa chủ, hoặc là tư bản nếu anh ta là người có vốn, có tư bản.
Vì vậy, trên thị trường “đầu vào” hộ gia đình là sức cung. Sức cung của hộ gia
đình được xác định theo nguyên tắc thích nghỉ ngơi hay thích làm việc, thích
tiêu dùng hiện tại hay thích tiêu dùng tương lai hoặc sở hữu đất đai. Chẳng hạn,
nếu hộ gia đình thích nghỉ ngơi thì họ chỉ bán lao động khi có tiền lương cao và
ngược lại. Nếu vốn được dùng cho mục đích tiêu dùng trong tương lai thì lãi
suất thấp, người có vốn vẫn cho vay vốn…
Đồng tiền được vận động theo quy luật vịng trịn, khép kín. Nó đi từ hộ tiêu
dùng ra thị trường hàng hóa tiêu dùng, dịch vụ để mua hàng hóa. Thơng qua giá
cả và quan hệ cung cầu, tiền trở về tay các doanh nghiệp. Doanh nghiệp lại dùng
tiền đó để mua các yếu tố sản xuất. Thông qua quan hệ cung – cầu và giá cả, nó
lại trở về với hộ gia đình.
Với cơ chế vận động như vậy của thị trường, khi diễn ra sự thay đổi giá cả
trên thị trường đầu vào sẽ làm tăng cho giá cả ở đây thay đổi. Vì vậy, nền kinh

tế sẽ đạt được một sự cân đối chung. Sự phát triển diễn ra nhịp nhàng trôi chảy.
Bàn tay vơ hình đơi khi cũng đưa nền kinh tế tới những sai lầm. Đó chính
là những khuyết tật của hệ thống kinh tế thị trường. Những khuyết tật này có thể
là do tác động bên ngồi gây nên, như ô nhiễm môi trường mà doanh nghiệp
Học viên: Lê Thanh Hằng

4

Lớp 10.02 C


Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
không phải trả giá cho sự hủy hoại cơ chế tự do cạnh tranh; hoặc là các tệ nạn
như khủng hoảng, thất nghiệp, và cuối cùng là sự phân phối thu nhập bất bình
đẳng do hệ thống thị trường mang lại. Để đối phó với những khuyết tật của cơ
chế thị trường, các nền kinh tế hiện đại phối hợp giữa “bàn tay vơ hình” với
“bàn tay hữu hình” như thuế khóa, chi tiêu và luật lệ của chính phủ.
3. Vai trị chính phủ trong kinh tế thị trường (bàn tay hữu hình)
3.1. Thiết lập khn khổ pháp luật
Chức năng này thực tế vượt ra ngồi khn khổ của lĩnh vực kinh tế học.
Ở đây, chính phủ đề ra các quy tắc trò chơi kinh tế mà các doanh nghiệp, người
tiêu dùng và cả bản thân chỉnh phủ cũng phải tuân thủ. Điều này bao gồm quy
định về tài sản, các quy tắc về hợp đồng và hoạt động kinh doanh, các trách
nhiệm tương hỗ của các liên đoàn lao động, ban quản lý và nhiều các luật lệ để
xác định môi trường kinh tế.
Về nhiều mặt, các quyết định của khuổn khổ pháp luật xuất phát từ những
mối quan hệ vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Các luật lệ đưa ra nhằm
đáp ứng những giá trị và quan điểm được đồng tình rộng rãi về sự cơng bằng
hơn là qua một sự phân tích kinh tế được mài dũa cẩn thận về chi phí và lợi lộc.
Những khn khổ pháp luật có thể tác động sâu sắc tới các ứng xử kinh tế của

con người.
3.2. Sửa chữa những thất bại của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu
quả
Trước hết, những thất bại mà thị trường gặp phải làm cho hoạt động của
nó khơng hiệu quả là ảnh hưởng của độc quyền. Cần phải nói rằng, lợi dụng ưu
thế của mình, các tổ chức độc quyền có thể quy định giá cả để thu lợi nhuận và
do vậy, phá vỡ ưu thế của cạnh tranh hoàn hảo. Vì vậy, cần thiết phải có sự can
thiệp của chính phủ để hạn chế độc quyền, đảm bảo tính hiệu quả của cạnh tranh
thị trường. Như đã biết, cạnh tranh hồn hảo là tình trạng thị trường có đủ một
số lượng doanh nghiệp hoặc mức độ cạnh tranh mà không có một doanh nghiệp
nào có thể ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa đó. Điều đó đảm bảo được ganh đua
của những người sản xuất, đảm bảo tính hiệu quả của nền kinh tế.
Song, cạnh tranh khơng hồn hảo hay độc quyền thị một người cạnh tranh
khơng hồn hảo có thể làm thay đổi giá cả của mặt hàng nào đó. Vì người độc
Học viên: Lê Thanh Hằng

5

Lớp 10.02 C


Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
quyền trên thực tế là người duy nhất cung cấp một mặt hàng cụ thể đó, vì vậy,
có khả năng quy định giá cả cao để thu siêu lợi nhuận. Tình trạng đó làm cho giá
cả cao hơn mức hiệu quả, làm biến dạng về cầu và sản xuất, xuất hiện siêu lợi
nhuận. Những lợi nhuận này có thể được sử dụng vào những hoạt động vơ ích
như quảng cáo lừa dối, mua ảnh hưởng và bảo hộ của ngành lập pháp.
Vì vậy, chính phủ khơng thể coi mọi hoạt động của độc quyền là tất yếu.
Chính phủ cần đưa ra các luật chống độc quyền và luật lệ kinh tế để làm tăng
hiệu quả của hệ thống thị trường cạnh tranh khơng hồn hảo.

Thứ hai, những tác động bên ngồi cũng dẫn đến tính khơng hiệu quả của
hoạt động của thị trường và đòi hỏi nhà nước phải can thiệp.
Tác động bên ngoài xảy ra khi doanh nghiệp hoặc con người tạo ra chi phí
– lợi ích cho doanh nghiệp khác, hoặc người khác mà các doanh nghiệp hoặc
con người đố khơng được nhận đúng những lợi ích mà họ cần được nhận hoặc
khơng phải trả đúng số chi phí mà họ phải trả.
Những tác động bên ngoài như vậy làm cho hoạt động kinh tế khơng hiệu
quả. Vì vậy, chính phủ phải sử dụng đến luật lệ để điều hành kinh tế như là một
phương pháp để ngăn chặn những tác động bên ngồi như ơ nhiễm nước và
khơng khí, khai thác đến cạn kiệt khoáng sản, chất thải gây nguy hiểm cho thức
ăn, đồ uống, thiếu an tồn vì các chất phóng xạ…
Thứ ba, chính phủ phải đảm nhiệm việc sản xuất các hàng hóa cơng cộng.
Theo các nhà kinh tế, hàng hóa tư nhân là một loại hàng hóa mà nếu như một
người đã dùng thì người khác khơng thể dùng được nữa. Cịn hàng hóa cơng
cộng là một loại hàng hóa mà khi một người đã dùng thì người khác vẫn có thể
dùng được.
Đặc trưng của hàng hóa cơng cộng là:
i) Về mặt kỹ thuật, một người tiêu dùng mà khơng làm giảm số lượng sẵn
có đối với người khác
ii) Không thể loại trừ bất cứ ai ra khỏi việc tiêu dùng này, trừ khi phải trả
giá q đắt
Ích lợi giới hạn của hàng hóa cơng cộng đối với xã hội và tư nhân là khác
nhau. Nhìn chung, ích lợi giới hạn và tư nhân thu được từ hàng hóa cơng cộng là
rất nhỏ, vì vậy tư nhân thường khơng muốn sản xuất hàng hóa cơng cộng. Mặt
Học viên: Lê Thanh Hằng

6

Lớp 10.02 C



Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
khác, có nhiều hàng hóa cơng cộng có ý nghĩa quan trọng cho quốc gia như
quốc phòng, luật pháp trật tự trong nước nên khơng thể giao cho tư nhân được vì
vậy chính phủ phải tham gia vào sản xuất hàng hóa công cộng.
Thứ tư là thuế. Trên thực tế, phần chi phí của chính phủ phải được trả
bằng tiền thuế thu được. Tất cả mọi người đều phải chịu theo luật thuế. Sự thực
là tồn bộ cơng dân tự mình lại đặt gánh nặng thuế lên vai mình và mỗi cơng
dân cũng được hưởng phần hàng cơng cộng do chính phủ cung cấp.
Như vậy, chính phủ phải can thiệp vào thị trường để nâng cao hiệu quả
của thị trường. Chính phủ để ra luật lệ đi đường và mua hàng công cộng như
đường sá, do đó, tạo điều kiện dễ dàng cho tư doanh hoạt động trôi chảy, ngăn
cản sự lạm dụng của các doanh nghiệp, khi họ trở thành những kẻ tham lam, độc
quyền chiếm đường và kiềm chế hoạt động của các doanh nghiệp khác.
3.3. Đảm bảo sự công bằng
Trong điều kiện hoạt động hoàn hảo nhất, lý tưởng nhất của cơ chế thị trường,
thì vẫn phải thấy rằng sự phân hóa, bất bình đẳng sinh ra từ kinh tế thị trường là
tất yếu. Một hệ thống thị trường có hiệu quả vẫn có thể gây ra sự bất bình đẳng
lớn. Vì vậy, chính phủ cần thiết phải thơng qua những chính sách để phân phối
thu nhập. Cơng cụ quan trọng nhất của chính phủ này là thuế lũy tiến, đánh thuế
người giàu theo tỷ lệ thu nhập lớn hơn người nghèo. Thông thường, thuế lũy tiến
áp dụng cho thuế thu nhập và thuế thừa kế. Bên cạnh thuế, phải có hệ thống hỗ
trợ thu nhập để giúp cho người già, người mù, người tàn tật, người phải nuôi con
và bảo hiểm thất nghiệp cho người khơng có cơng ăn việc làm. Hệ thống thanh
toán chuyển nhượng này tạo ra mạng lưới an tồn bảo vệ những người khơng
may khỏi bị hủy hoại về kinh tế.
Cuối cùng, chính phủ đơi khi phải trợ cấp tiêu dùng cho những nhóm có thu
nhập thấp bằng cách phát tem phiếu thực phẩm, trợ cấp ý tế, cho thuê nhà rẻ…
3.4. Ổn định kinh tế vĩ mô
Từ khi ra đời, chủ nghĩa tư bản đã từng gặp những thăng trầm chu kỳ của

lạm phát và suy thối. Đơi khi những hiện tượng này rất dữ dội, như thời kỳ siêu
lạm phát ở Đức trong những năm 20, thời đại suy thoái ở Mỹ trong những năm
30.

Học viên: Lê Thanh Hằng

7

Lớp 10.02 C


Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
Nhờ có sự đóng góp trí tuệ của J.M.Keynes và những người theo ông, mà
chúng ta hiểu rõ nhiều cách làm thế nào để kiểm soát những thăng trầm của chu
kỳ kinh doanh. Giờ đây ta hiểu rằng, việc sử dụng một cách thận trọng quyền
lực về tiền tệ và tài chính của chính phủ có thể ảnh hưởng đến sản lượng, việc
làm và lạm phát. Quyền lực về tài chính của chính phủ là quyền đánh thuế và chi
tiêu. Quyền lực về tiền tệ bao hàm quyền điều tiết về tiền tệ và hệ thống ngân
hàng để xác định mức lãi suất và điều kiện tín dụng. Bằng hai cơng cụ trung tâm
này của chính sách kinh tế vĩ mơ, chính phủ có thể tác động đến sản lượng, cơng
ăn việc làm và giá cả của một nền kinh tế và phần nào do các chính sách như
vậy, đã thúc đẩy nền kinh tế thị trường trên thế giới mở mang chưa từng có kể từ
chiến tranh thế giới lần thứ II đến đầu những năm 70.
Nhưng, trong thành công lại có hạt giống của thất bại. Bằng cách bảo đảm
một thời kỳ nhiều công ăn, việc làm và tăng trưởng nhanh, nhiều nước đã vơ
tình ni dưỡng một nền kinh tế, trong đó con người bắt đầu cho rằng phồn vinh
là lẽ đương nhiên. Nhiều nước đảm bảo cho công nhân và người hưởng thu nhập
định kỳ mức sống trong điều kiện thời tiết xấu cũng như thời tiết tốt. Trong hệ
thống giá cả, tiền lương và hỗ trợ thu nhập có những điểm cứng nhắc. Khi
những rối loạn của những năm 70 xẩy ra như hai lần tăng giá dầu, mất mùa, trục

trặc trong hệ thống tài chính quốc tế, chính phủ đã khơng giữ được lời hứa.
Trong cuộc đấu tranh về thu nhập, lạm phát tăng vọt và thất nghiệp lên tới mức
chưa từng thấy từ thời kỳ Đại suy thối.
Ngày nay, những người đề ra chính sách nhận thấy rằng một nền kinh tế
hiện đại đứng trước một vấn đề nan giải cơ bản của kinh tế vĩ mơ đó là: Khơng
nước nào trong một thời gian dài có thể có được kinh doanh tự do, lạm phát thấp
và việc làm đẩy đủ. Cũng như nền kinh tế thị trường ngày này khơng thể có một
lượng tối đa vừa súng vừa bơ, một nền kinh tế vĩ mô không thể nào vừa đủ công
ăn việc làm vừa khơng có lạm phát.
Chính phủ thực hiện các chức năng trên đây thông qua ba công cụ là: Các
loại thuế, các khoản chi tiêu, lãi suất, thanh toán chuyển nhượng, khối lượng tiền
tệ và những quy định hay kiểm soát: Thơng qua thuế, chính phủ điều tiết tiêu
dùng, đầu tư của tư nhân khuyến khích hoặc hạn chế hoạt động kinh doanh của
doanh nhân. Các khoản chi tiêu của chính phủ sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp hay
Học viên: Lê Thanh Hằng

8

Lớp 10.02 C


Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
công nhân sản xuất ra một số hàng hóa hay dịch vụ, và cả những việc chuyển
tiền nhằm trợ cấp thu nhập (như bảo hiểm, trợ cấp thất nghiệp…). Những quy
định hay kiểm sốt của chính phủ cũng là nhằm hướng nhân dân đi vào hoặc từ
bỏ những hoạt động kinh doanh.
Khi thực hiện các chức năng kinh tế, chính phủ phải đưa ra quyết định về
phương án lựa chọn. Từ đó, hình thành nên lý thuyết lựa chọn cơng cộng. Sự lựa
chọn công cộng là một sự tập hợp các ý thích cá nhân thành một sự lựa chọn tập
thể. Theo quy tắc nhất trí, tất cả các quyết định đều phải nhất trí thơng qua.

Cơng cụ để phân tích sự lựa chọn công cộng là đường giới hạn khả năng – giá trị
sử dụng: ở đây, các nhà kinh tế học sử dụng lý thuyết giới hạn và hiệu quả
Pareto để phân tích.
Cũng như “bàn tay vơ hình”, “bàn tay hữu hinh” cũng có khuyết tật, có
nhiều vấn đề nhà nước lựa chọn khơng đúng. Ví dụ: một cơ quan lập pháp rơi
vào tay những thiểu số; cách vận động hậu trường có nhiều tiền. Chính phủ tài
trợ cho các chương trình quá lớn trong thời gian quá dài….Những khuyết tật đó
gây ra tính khơng hiệu quả của sự can thiệp của chính phủ. Họ đưa ra những
quyết định sai, không phản ảnh sự vận động của thị trường. Do vậy, phải kết hợp
cả cơ chế thị trường và vai trị chính phủ trong điều hành nền kinh tế hiện đại,
hình thành nên một “nền kinh tế hỗn hợp”. Trong nền kinh tế hỗn hợp có cả cơ
chế thị trường và chính phủ. Cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng
trong nhiều lĩnh vực, trong khi đó, chính phủ điều tiết thị trường bằng các
chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ. Cả hai bên thị trường và chính phủ đều có
tính chất thiết yếu.
II. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU HỌC THUYẾT
NÀY ĐỐI VỚI VIỆT NAM
1. Thực trạng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay
1.1. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
là tất yếu khách quan.
Nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường trên thực tế đã tỏ rõ
nhiều lợi thế. Nhờ có cơ chế thị trường, việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực
Học viên: Lê Thanh Hằng

9

Lớp 10.02 C



Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
của nền kinh tế đã có hiệu quả hơn. Động lực lợi ích kinh tế đã phát huy tác
dụng mạnh hơn, cơ chế quản lý mới đã được vận hành và ngày càng tham gia
đầy đủ hơn phân công lao động ở trong nước và quốc tế. Chính sách phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường không
những không làm hạn chế khả năng thu hút, đầu tư xây dựng đất nước, mà còn
thực hiện chính sách đại đồn kết tồn dân, phát huy nội lực gắn với khai thác
cao nhất nguồn lực bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
đưa đất nước ta vững bước đi lên.
Trước những lợi ích đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương chuyển từ nền
kinh tế hành chính, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường bất kì, mà là
một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về thực chất ở đó vừa
kế thừa những thành tựu tiến bộ trong lịch sử phát triển nhân loại mà đỉnh cao là
chủ nghĩa tư bản, vừa gắn liền với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường nên chủ nghĩa tư bản đã đạt được
những thành tựu về kinh tế - xã hội, phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao
năng suất lao động xã hội. Nhờ sử dụng kinh tế thị trường, quản lí xã hội dưới
chủ nghĩa tư bản đã đạt được những thành quả văn minh hành chính, văn minh
cơng nghiệp, văn minh trí tuệ...
Vì vậy, chủ nghĩa xã hội cũng phải biết kế thừa và sử dụng các ưu điểm
của kinh tế thị trường, loại bỏ những khuyết tật của nó để xây dựng thành cơng
chủ nghĩa xã hội.
Phát triển kinh tế thị trường có vai trò quan trọng. Đối với nước ta muốn
chuyển từ nền kinh tế còn kém phát triển lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thì
khơng cịn con đường nào khác là phải phát triển kinh tế thị trường. Kinh tế thị
trường khắc phục được nền kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp, đẩy mạnh phân công
lao động xã hội phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động, khuyến
khích ứng dụng cơng nghệ - kĩ thuật mới nhằm tăng năng suất lao động, tăng số
lượng, chủng loại, hàng hố, dịch vụ, thúc đẩy tích tụ tập trung sản suất, mở
rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, thúc đẩy việc phát

huy tính năng động sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, đồng
thời tạo ra cơ chế phân bổ và sử dụng các nguồn lực của xã hội hợp lý, tiết kiệm.
Vì vậy phát triển kinh tế thị trường được coi là những viên gạch đầu tiên để xây
Học viên: Lê Thanh Hằng

10

Lớp 10.02 C


Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
dựng chủ nghĩa xã hội, là phương tiện khách quan để xã hội hoá xã hội chủ
nghĩa.
Mặt khác, chúng ta cần phải nắm lấy vai trò to lớn của kinh tế thị trường
để đưa nền kinh tế thốt khỏi tình trạng trì trệ, kém phát triển. Nắm bắt và hạn
chế những mặt tiêu cực, mặt trái, khuyết tật của kinh tế thị trường. Bởi vì kinh tế
thị trường thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế trên cơ sở khơi dậy nguồn
tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân ta để sản xuất và nâng cao đời sống nhân
dân. Sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển, sự chun mơn hố
ngày càng sâu tiến tới sự phân cơng và hợp tác quốc tế. Trong khi đó nước ta
chuyển sang chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp, kinh tế xã hội cịn nghèo
nàn lạc hậu chưa có cơ sở để đảm bảo thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường còn là sự tồn tại của những chủ thể kinh tế độc lập tự chủ
trong sản xuất kinh doanh có lợi ích riêng để họ có quyền ra quyết định phi tập
trung hố. Vì vậy, trong điều kiện chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa cũng có thể
thực hiện được thể chế kinh tế thị trường.
Trước đây, có quan niệm cho rằng kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội
không thể dung hợp với nhau, chúng là những thực thể xã hội tuyệt đối loại bỏ
lẫn nhau. Đã là chủ nghĩa xã hội thì khơng thể là kinh tế thị trường. Họ cho rằng
kinh tế thị trường là chủ nghĩa tư bản và khi đưa ra đòi hỏi trong hai điều kiện

phải chọn lấy một., nhưng họ đã sai kinh tế thị trường có cả mặt tích cực và mặt
tiêu cực, nó như “con dao hai lưỡi” trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường là con đường dẫn tới giàu có, văn minh, là bạn đồng hành của
chủ nghĩa xã hội, nhưng nó cũng có thể dẫn đến chệch hướng xã hội chủ nghĩa,
tự phát đi theo con đường tư bản chủ nghĩa trái với mục tiêu mà Đảng, Bác Hồ
và nhân dân ta đã chọn. Vì vậy, cần định hướng xã hội chủ nghĩa cho kinh tế thị
trường để kinh tế thị trường phát triển phục vụ cho xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.
Đối với Việt Nam kinh tế thị trường vẫn tồn tại trên 4 cơ sở khách quan
sau:
Trước hết, đó là sự phân cơng lao động xã hội với tính cách là cơ sở
chung của sản xuất hàng hóa chẳng những khơng mất đi mà còn phát triển cả về
chiều rộng và chiều sâu.
Học viên: Lê Thanh Hằng

11

Lớp 10.02 C


Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
Thứ hai, trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu.
Thứ ba, thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên
chế công hữu về tư liệu sản xuất nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt
nhất định có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh có lợi ích riêng.
Và cuối cùng, quan hệ hàng hóa tiền tệ cịn cần thiết trong quan hệ kinh tế
đối ngoại, đặc biệt là trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển
ngày càng sâu sắc vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt là người chủ sở hữu
đối với các hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới.
Như vậy, sự tồn tại của kinh tế thị trường ở nước ta là một tất yếu khách

quan khơng thể lấy ý chí chủ quan mà xóa bỏ được.
1.2. Đặc trưng, bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng sản
Việt Nam (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới tồn diện đất nước nhằm
thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra
những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
đặc biệt là quan niệm về cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ,
về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị
trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định
chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết
hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con
người, có nhận thức mới về chính sách xã hội. Đại hội VI là một cột mốc đánh
dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là kết
quả của cả một q trình tìm tịi, thử nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian
khổ, kết tinh trí tuệ và cơng sức của tồn Đảng, tồn dân trong nhiều năm.
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây không
phải là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa, cũng không phải là
kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; và cũng chưa hoàn toàn là
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, bởi vì như trên đã nói, Việt Nam đang ở
Học viên: Lê Thanh Hằng

12

Lớp 10.02 C



Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vừa có vừa chưa có đầy đủ các yếu tố
của chủ nghĩa xã hội.
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự
tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trị tích cực
của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao
động, cải tiến kỹ thuật - công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều
của cải, góp phần làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; đồng thời
phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị
trường, như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc liệt, bóc lột và phân
hóa giàu nghèo q đáng, ít quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng là
“sự lựa chọn tự giác con đường và mô hình phát triển trên cơ sở quán triệt lý
luận Mác - Lê-nin, nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam”.
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo
những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi
phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba
mặt: sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân lao động và tất cả các thành
viên trong xã hội. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng
quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.
Về sở hữu, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ
đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng

vững chắc.
Về quản lý, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý
của Nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược,
Học viên: Lê Thanh Hằng

13

Lớp 10.02 C


Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của
lực lượng kinh tế nhà nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các
hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích
sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục
mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của
tồn thể nhân dân.
Về phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân
phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và
thông qua phúc lợi xã hội.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta còn
thể hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát văn hóa, giáo dục, xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ
nghĩa Mac – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống
tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất

trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không
phải đơn giản là sự trở về với phương thức chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang
nền kinh tế công nghiệp, mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là phải
chuyển sang nền kinh tế hiện đại, văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn phù hợp với các quy luật phát triển và các điều
kiện lịch sử cụ thể của thời đại và của những nước đi sau, cho phép các nước
này giảm thiểu được những đau khổ và rút ngắn được con đường đi của mình tới
chủ nghĩa xã hội trên cơ sở sử dụng được ưu thế cũng như hạn chế được những
khuyết điểm của hai cơ chế: kế hoạch và thị trường. Nói cách khác, kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức kinh tế đặc biệt, vừa tuân
theo những nguyên tắc và quy luật của hệ thống kinh tế thị trường, vừa bảo đảm
tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính tính chất, đặc trưng cơ bản này chi phối
và quyết định phương tiện, công cụ, động lực của nền kinh tế và con đường đạt
Học viên: Lê Thanh Hằng

14

Lớp 10.02 C


Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
tới mục tiêu, là sử dụng kinh tế thị trường, nâng cao hiệu lực và hiệu quả điều
tiết của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát triển khoa học và công nghệ, phát triển
nguồn nhân lực, mở cửa và hội nhập nhằm thúc đẩy q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và phát triển rút ngắn để trong khoảng thời gian không dài có thể
khắc phục tình trạng lạc hậu, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
2. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu lý thuyết “nền kinh tế hỗn hợp”
của P.A.Samuelson đối với Việt Nam

Lý thuyết về “nền kinh tế hỗn hợp” với luận điểm của nó là nền kinh tế thị
trường nhưng có sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế được vận hành bởi hai
bàn tay: thị trường và Nhà nước. Điều này có ưu điểm là nó phát huy tính tối ưu
trong phân bổ nguồn lực xã hội để tối đa hóa lợi nhuận thơng qua cạnh tranh,
mặt khác, sự quản lý của Nhà nước giúp tránh được những thất bại của thị
trường như lạm phát, phân hóa giàu nghèo, khủng hoảng kinh tế... đã và đang
thu hút được sự quan tâm của các nhà kinh tế ở mọi trường phái khác nhau, và
được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng.
Việt Nam phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước là sự
vận dụng chủ yếu “Chính sách kinh tế mới” của V.I Lênin vào hồn cảnh Việt
Nam. Từ sau đổi mới đến này, Việt Nam phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Việc lựa chọn phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một tất yếu khách quan, dựa trên
nền tảng lý luận là Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Có thể thấy, “nền kinh tế hỗn hợp” của Samuelson và “nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” có những nét tương đồng. Đó
là, đều chỉ ra vai trị của cơ chế thị trường (bàn tay vơ hình) và vai trò quản lý,
điều tiết của nhà nước (bàn tay hữu hình). Khẳng định một nền kinh tế thị
trường có hiệu quả phải là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có
những đặc trưng riêng nhất định, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh riêng của
Việt Nam.
Việc nghiên cứu các học thuyết kinh tế nói chung và lý thuyết “nền kinh
tế hỗn hợp” nói riêng ngồi việc giúp chúng ta hiểu sâu rộng về nguồn gốc cũng
như ứng dụng thực tế của mỗi học thuyết đối với hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam,
mở rộng và nâng cao kiến thức để hiểu và lý giải về các hiện tượng kinh tế và
Học viên: Lê Thanh Hằng

15


Lớp 10.02 C


Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
đường lối chính sách kinh tế hiện nay cịn có thể vận dụng lý thuyết “kinh tế hỗn
hợp” của P.A Samuelson vào việc phát triển kinh tế thị trường ở nước ta với tính
cách bổ sung, giúp ta hồn thiện hơn về mặt lý luận.
Mặt khác, việc nghiên cứu lý thuyết “nền kinh tế hỗn hợp” giúp chúng ta
thấy rõ hơn tính khoa học và cách mạng của học thuyết kinh tế chính trị Mác –
Lê nin. Củng cố thêm niềm tin về việc lựa chọn phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn, vừa phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh, lịch sử Việt Nam, phù hợp với xu hướng của thế giới. Hiện nay, ở
hầu hết các nước phát triển hay đang phát triển, việc phát triển kinh tế thị trường
không thể khơng có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước, điểm khác nhau có
chăng là sự điều tiết của Nhà nước ở mức độ nào đối với mỗi quốc gia.
Từ kinh nghiệm của thế giới và kể cả Việt Nam trong hơn 20 năm đổi mới
vừa qua, nhất là bằng kinh nghiệm từng trải của chúng ta về chống lạm phát
thành công trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX
đã cho thấy, cũng cần hết sức lưu ý rằng, mọi sự điều tiết của "bàn tay hữu hình"
đó dù có hiệu quả cao đến đâu cũng chỉ là giải pháp tình thế có tính thời đoạn
nhất định. Khơng thể coi đó là giải pháp bất biến, vì nếu cứ kéo dài mãi sẽ là
chủ quan duy ý chí, phá vỡ các quy luật khách quan khoa học vốn có của kinh tế
thị trường cùng với thực tiễn yêu cầu phát triển sinh động của kinh tế - xã hội
nước ta.
Nền kinh tế mới của thế giới đang định hình, địi hỏi tư duy thích ứng về
bàn tay quản lý của Nhà nước trong khi thực hiện các nguyên tắc kinh tế thị
trường, tránh các cực đoan, phiến diện trong nhận thức, tăng cường sự phối hợp
đồng bộ các công cụ và cấp độ quản lý, giám sát chặt chẽ và chủ động xử trí kịp
thời các tác động mặt trái của chính sách lựa chọn trong thực tiễn bằng hợp lực
của sức mạnh tổ chức và tài chính trong và ngồi nước, với vai trò trung tâm là

Nhà nước. Tư duy mới về bàn tay Nhà nước đang và sẽ ngày càng trở nên rõ
nét, bao quát và chi phối toàn bộ các hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội quốc gia và quốc tế. Do vậy, sự linh hoạt của Nhà nước trong
điều hành kinh tế (hai bàn tay - cả vơ hình và hữu hình) mới là yếu tố quan trọng
của một nền kinh tế thị trường đúng nghĩa.
Trong một nền kinh tế đang hội nhập và phát triển như Việt Nam hiện
nay, việc am hiểu sâu sắc các lý thuyết kinh tế trên thế giới là điều vô cùng cần
thiết. Chúng ta cần biết các nước phát triển làm thế nào để phát triển và tại sao
Học viên: Lê Thanh Hằng

16

Lớp 10.02 C


Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
các Chính phủ nước đó dựa trên nền tảng lý thuyết kinh tế nào để đưa ra các
quyết định kinh tế. Việc nắm rõ các khái niệm cũng như các lý luận và lý thuyết
về phát triển nền kinh tế cũng góp phần vào việc định hướng xây dựng các chính
sách phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế.
Đối với Việt Nam, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là
một sự đổi mới tư duy đúng đắn của Đảng dựa trên cơ sở lý luận khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, bên cạnh học
thuyết Mac-Lênin cịn có sự vận dụng tổng hợp nhiều lý thuyết kinh tế và các
mơ hình thực tiễn. Sự vận dụng các học thuyết kinh tế trong việc phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự tiếp thu có chọn lọc.
“Nền kinh tế hỗn hợp” là một học thuyết đang được áp dụng phổ biến ở nhiều
nước trên thế giới. Do đó, nghiên cứu lý thuyết “nền kinh tế hỗn hợp” mang một
ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam.


Học viên: Lê Thanh Hằng

17

Lớp 10.02 C


Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
KẾT LUẬN
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền
kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường vừa
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong
đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng gắn với thị trường, được
thực hiện thông qua thị trường dưới sự quản lý, điều tiết của Nhà nước Việt
Nam.
Tuy nhiên, đây là sự nghiệp vơ cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó
rất mới mẻ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Riêng về mặt lý
luận cũng cịn khơng ít vấn đề phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết, làm
sáng tỏ. Chẳng hạn như: các vấn đề về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế;
về quản lý doanh nghiệp nhà nước ra sao để nó đóng được vai trị chủ đạo; làm
thế nào để thực hiện được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế còn thấp
kém; các giải pháp tăng cường sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa v.v…
Hiện nay, những đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta vẫn đang được tiếp tục phân tích, làm rõ. Do đó, việc nghiên
cứu các học thuyết kinh tế nói chung và lý thuyết “nền kinh tế hỗn hợp” giúp ta
có cách nhìn tồn diện hơn, sâu sắc hơn để phát triển nền kinh tế, đồng thời làm
phong phú thêm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội phù hợp với điều kiện Việt Nam trong thời đại ngày nay.


Học viên: Lê Thanh Hằng

18

Lớp 10.02 C


Tiểu luận lịch sử các học thuyết kinh tế
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế
- Giáo trình triết học Mac - Lênin
- Giáo trình kinh tế chính trị Mac - Lênin
- Báo cáo Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng
sản Trung Quốc với chủ đề "Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường - kinh
nghiệm của Trung Quốc, kinh nghiệm của Việt Nam" năm 2003 đăng trên Tạp
chí cộng sản.
- Việt nam chuyển sang kinh tế thị trường (học viện chính trị quốc gia)
- Tạp chí cộng sản số 17 – 2007
- Đề tài nghiên cứu khoa học “Đổi mới và nâng cao hiệu quả của mối
quan hệ nhà nước với thị trường, phát huy vai trò của các đoàn thể và các hội”
- Thời báo doanh nhân

Học viên: Lê Thanh Hằng

19

Lớp 10.02 C




×