Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tiểu luận lịch sử công tác tư tưởng sự ra đời và ý nghĩa của tuyên ngôn đảng cộng sản đối với thời đại ngày nay và với cách mạng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.5 KB, 33 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: LỊCH SỬ LÝ LUẬN CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG

Đề tài:

SỰ RA ĐỜI VÀ Ý NGHĨA CỦA TUYÊN NGÔN
ĐẢNG CỘNG SẢN ĐỐI VỚI THỜI ĐẠI NGÀY NAY
VÀ VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG GIÁ TRỊ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA TÁC
PHẨM TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN......................................4
1.1 Sự ra đời của Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản.................................................4
1.2 Nội dung cơ bản của tuyên ngôn đảng cộng sản.........................................7
1.2.1 “Tuyên ngôn” làm rõ sự ra đời, địa vị lịch sử và sự diệt vong tất yếu của
chủ nghĩa tư bản................................................................................................7
1.2.2 “Tuyên ngôn” chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản người đào
huyệt chôn chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới..........................................9
1.2.3 “Tun ngơn” trình bày khái quát những nguyên lý cơ bản về con đường
giải phóng giai cấp vơ sản và mơ hình chủ nghĩa xã hội................................11
1.3 Những giá trị khoa học và thực tiễn của Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản.....16
Chương 2. Ý NGHĨA CỦA TUYÊN NGÔN ĐẢNG CỘNG SẢN VỚI
THỜI ĐẠI NGÀY NAY VÀ VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM.................23
2.1. Ý nghĩa của tuyên ngôn đảng cộng sản đối với thời đại..........................23
2.2 Ý nghĩa của tuyên ngôn đảng cộng sản đối với cách mạng Việt Nam......28
KẾT LUẬN....................................................................................................30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................31



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tun ngơn của Đảng Cộng sản là văn kiện có tính cương lĩnh của
phong trào cộng sản, Tuyên ngôn đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa Mác sau
một loạt cơng trình tìm tịi, khám phá, phát hiện trước đó; đánh dấu sự chuyển
biến của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành khoa học.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen soạn thảo Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là
thực hiện một nhiệm vụ do Đại hội Liên đoàn những người cộng sản tháng
11-1847 giao cho. Lúc bấy giờ, Liên đồn cần có ngay một bản cương lĩnh
vừa mang tính lý luận, vừa mang tính chỉ đạo thực tiễn phong trào cộng sản
và công nhân ở Đức, Anh, Pháp và các nước khác. Nhiệm vụ trực tiếp là thế,
nhưng để viết một bản Tuyên ngôn đúng ý nghĩa là lời tuyên bố đầu tiên về lý
tưởng và lập trường cộng sản chủ nghĩa trước toàn thế giới quả khơng dễ
dàng. Khơng dễ ngay tại thời điểm đó, vì “câu chuyện hoang đường về bóng
ma cộng sản” ám ảnh khắp châu Âu và được giải thích theo nhiều cách khác
nhau, đồng thời đang là đối tượng đả kích, buộc tội của đủ loại thế lực chính
trị, tơn giáo liên kết với nhau hịng bóp chết mầm mống tư tưởng cộng sản.
Hơn nữa, cịn khó khăn vì, trong phong trào cơng nhân mỗi nước và ở các
nước đã hình thành rất nhiều trường phái lý luận, nhiều cương lĩnh, nhiều
hình thức tổ chức khác nhau, trong đó có nhiều học thuyết mang tên xã hội
chủ nghĩa. Tuyên ngôn phải làm sao “để cho cả những hội công liên ở Anh,
những môn đồ của Pruđông ở Pháp, Bỉ, Italia và Tây Ban Nha cũng như phái
Látxan ở Đức đều có thể chấp nhận được”[1-tr603]. Cuối cùng, người thanh
niên C. Mác ở tuổi 30 được sự cộng tác đắc lực của Ph.Ăng-ghen mới 28 tuổi
đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, viết nên tác phẩm bất hủ, trở thành một
trong những tác phẩm gối đầu giường của giai cấp cơng nhân tồn thế giới.
Giá trị cơ bản đích thực của Tun ngơn khơng phải ở chỗ nó cung cấp
những lời giải có sẵn cho mọi vấn đề của thực tiễn cách mạng hôm nay, mà ở
1



chỗ nó đã phản ánh một cách khái quát xu hướng vận động khách quan của xã
hội, chỉ ra những nhiệm vụ lịch sử cần giải quyết để từng bước giải phóng
giai cấp cơng nhân và các tầng lớp lao động khác, giải phóng các dân tộc bị
áp bức, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Vừa là một tác phẩm lý
luận, vừa là một bản tuyên ngôn chính trị, Tun ngơn của Đảng Cộng sản
trình bày cơ đọng, có hệ thống nhiều vấn đề lý luận cơ bản nhất.
Vì vậy nghiên cứu Tun ngơn của Đảng Cộng Sản do C.Mác và
Ph.Ăng-ghen biên soạn là một việc hết sức cấp bách và cần thiết trong công
cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước ta hiên nay .Chính vì thế tác giả xin chọn
đề tài “Sự ra đời và ý nghĩa của Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản đối với thời
đại ngày nay và với cách mạng Việt Nam” làm đề tài tiểu luận kết thúc học
phần môn Lịch sử lý luận cơng tác tư tưởng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản không phải ở chỗ nó cung cấp những
lời giải có sẵn cho mọi vấn đề của thực tiễn cách mạng hôm nay, mà ở chỗ nó
đã phản ánh một cách khái quát xu hướng vận động khách quan của xã hội,
chỉ ra những nhiệm vụ lịch sử cần giải quyết để từng bước giải phóng giai cấp
cơng nhân và các tầng lớp lao động khác, giải phóng các dân tộc bị áp bức,
giải phóng xã hội và giải phóng con người. Vừa là một tác phẩm lý luận, vừa
là một bản tuyên ngôn chính trị, Tun ngơn của Đảng Cộng sản trình bày cơ
đọng, có hệ thống nhiều vấn đề lý luận cơ bản nhất. Chính vì vậy, Tun
ngơn của Đảng Cộng Sản được các nhà nghiên cứu quan tâm ,đã có nhiều
cơng trình khoa học nghiên cứu, tài liệu viết về đề tài này như :
 GS. Đỗ Tư ; GS.PTS.Trịnh Quốc Tuấn ; PGS.TS Nguyễn Đức Bách
(Đồng chủ biên) lược khảo lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng
sản (in lần thứ hai có sửa chữa bổ sung),Nxb chính trị quốc gia Hà Nội, 1996
 Vận mệnh lịch sử của học thuyết Mác, toàn tập, Nxb tiến bộ, 1974
 Chủ nghĩa Xã Hội phát triển từ không tưởng đến khoa học, Tuyển
tập ,Nxb Sự thật Hà Nội, 1981

2


3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục tiêu: tiểu luận đi vào làm rõ nội dung của bản tuyên ngôn của đảng
cộng sản và ý nghĩa tác động của nó đối với phong trào cách mạng thế giới
nói chung và sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói riêng
Để đạt được mục tiêu đó em xác định cần hồn thành những nhiệm
vụ sau:
- Tìm hiểu bối cảnh ra đời của tuyên ngôn đảng cộng sản
- Tiến hành đọc và lược thuật tác phẩm
- Phân tích hệ thống hóa nội dung cơ bản của tác phẩm sau đó rút ra và
phân tích tác động của tác phẩm đối với phong trào cách mạng thế giới nói
chung và sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói riêng
4. Phương pháp luận nghiên cứu
- Phương pháp luận: chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện
chứng
- Phương pháp chung: logic lịch sử, quy nạp diễn dịch, phân tích
tổng hợp …
- Phương pháp cụ thể: lược thuật, tổng thuật, nghiên cứu tài liệu …..

3


Chương 1
NHỮNG GIÁ TRỊ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA TÁC PHẨM
TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
1.1 Sự ra đời của Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản
Đầu năm 1848, một văn kiện lịch sử chấn động thế giới ra đời. Đó là
bản ''Tuyên ngôn Đảng Cộng sản'':

Những năm 30 của thế kỷ XIX, phong trào công nhân các nước châu
Âu phát triển rất nhanh, tuy vậy chưa hình thành một khối thống nhất, chưa
có sự lãnh đạo của một chính đảng cách mạng. Giai cấp vô sản chưa hiểu rõ
lý thuyết khoa học về bản chất của chủ nghĩa tư bản, về nguồn gốc bị bóc lột,
về sứ mệnh lịch sử và về con đường tự giải phóng cho mình. Do đó, các cuộc
đấu tranh của họ ln bị thất bại. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm của phong
trào công nhân, Mác và Ăng- ghen đã tiến hành nghiên cứu lý luận khoa học
và xây dựng mối liên hệ rộng rãi với những đồn thể cơng nhân của các nước.
Mác và Ăng-ghen đặc biệt chú trọng đến một đoàn thể cách mạng bí mật của
những cơng nhân thủ cơng Đức sống lưu vong ở Pa-ri có tên cịn gọi là ''Đồng
minh những người chính nghĩa''. Sau khi Pa-ri trở thành trung tâm, đồn thể
bí mật này mở rộng sang Ln Đơn, sau đó phát triển ở Thụy Sĩ, Đức và
Pháp, bắt đầu trở thành một tổ chức công nhân mang tính chất quốc tế.Nhân
vật tiêu biểu của đồng minh này là Vai-tơ-lin, người Đức, từ lâu ông đã vô
cùng căm ghét chủ nghĩa tư bản, muốn thực hiện một ''chủ nghĩa cộng sản
bình qn'' và hy vọng có thể dựa vào âm mưu bí mật bạo động của một số ít
người để thực hiện điều đó. Tư tưởng này có ảnh hưởng rất lớn trong phong
trào công nhân thời bấy giờ. Mác và Ăng-ghen thấy rằng, muốn làm cho
''Đồng minh những người chính nghĩa'' phù hợp với yêu cầu cuộc đấu tranh
cách mạng của giai cấp vô sản, cần phải từ bỏ quan điểm về chủ nghĩa cộng
sản không tưởng của Vai-tơ-lin.
4


Mùa xuân 1846, Vai-tơ-lin đến Bruc-xen, thủ đô nước Bỉ gặp Mác và
trình bày quan điểm của mình: “Tơi cho rằng sự tự do tương ái của con người
là cơ sở của xã hội cộng sản, chỉ cần chúng ta có một phương án như vậy để
mọi người làm theo là được''.Mác nghe Vai-tơ-lin nói vậy đã trả lời: ''Vậy làm
thế nào để đánh đổ chế độ xã hội cũ? Ông không chủ trương dùng bạo lực
sao?” Vai-tơ-lin điềm nhiên trả lời: ''Chuyện đó để bọn ăn mày, bọn kẻ cướp

và bọn tội phạm làm, cịn cơng nhân chỉ cần tổ chức các cơ cấu phúc lơi và
nhà ăn chung, xây dựng công xã tự do tương ái, khiến mọi người đều bình
đẳng. Theo quan điểm đó cho nên ngọn cờ của ''Đồng minh những người
chính nghĩa” mới mang khẩu hiệu: ''Mọi người đều là anh em''”.Mác nói: “Tơi
biết rất nhiều người trong ''Đồng minh những người chính nghĩa'' tin vào chủ
nghĩa cộng sản bình qn của ơng, nhưng ơng không thể thuyết phục giai cấp
tư sản đem tài sản và quyền lực của mình phân phối đều cho mọi người. Xin
nói ngay rằng đó là ảo tưởng. Hiện nay, cái mà công nhân cần là lý luận và
đường lối chính xác chứ khơng phải là tình cảm và nguyện vọng. Chỉ có tiến
hành cách mạng vơ sản mới lật đổ được chế độ tư bản. Đây là con đường duy
nhất đúng đắn''.Mác và Vai-tơ-lin không thể đi đến thống nhất khi hai bên
hoàn toàn khác nhau về tư tưởng lý luận.Mấy tháng sau, Mác và Ăng-ghen
thành lập ở Bruc-xen ''Uỷ ban thơng tấn cộng sản''. Ngay sau đó, Uỷ ban đã
liên lạc với nhiều chi bộ của ''Đồng minh những người chính nghĩa”. Trong
một cuộc họp của Uỷ ban, Mác và Vai-tơ-lin đã tranh luận công khai. Khai
mạc cuộc họp, Ăng-ghen tuyên bố: ''Cần phải có một luận điểm chung làm
căn cứ cho hành động của những người cộng sản''. Vai-tơ-lin nghe xong lập
tức phát biểu, cho rằng phải động viên cơng nhân cịn tun truyền lý luận
khơng phải là chuyện quan trọng”. Mác chất vấn: ''Vai-tơ-lin, ông luôn mồm
nói phải động viên, vậy thử hỏi, ơng căn cứ vào đâu để chứng minh hoạt động
đó là đúng, và căn cứ vào đâu để xác định các hoạt động sau này?''Trước hàng
loạt câu hỏi của Mác, Vai-tơ-lin tỏ ra lúng túng và không thể trả lời được. Lúc
bấy giờ Mác mới nói một cách nghiêm túc: ''Cái mà giai cấp vô sản cần là lý
5


luận khoa học, chứ khơng phải là tình cảm ngây thơ''. Ơng nhắc nhở mọi
người rằng cơng tác quan trọng nhất là dùng lý luận đúng đắn, khoa học để vũ
trang cho cơng nhân. Chỉ có như vậy mới làm cho họ nhận rõ những chủ
trương sai lầm, kể cả cái ''chủ nghĩa cộng sản bình quân'' của Vai-tơ-lin. Cả

hội trường vỗ tay nhiệt liệt, biểu thị sự đồng tình với quan điểm của Mác.
Mùa xuân năm 1847, Mác và Ăng-ghen gia nhập “Đồng minh những
người chính nghĩa” ở Luân Đơn và tiến hành cải tổ tổ chức này. Ít lâu sau,
Đồng minh triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ nhất.Tại Đại hội này, căn cứ vào
đề nghị của Mác và Ăng-ghen, ''Đồng minh những người chính nghĩa'' đổi tên
thành “Liên đồn nhũng người cộng sản'' và thơng qua cương lĩnh mới, lấy
khẩu hiệu ''Vơ sản tồn thế giới liên hiệp lại'' thay thế cho khẩu hiệu mơ hồ:
''Mọi người đều là anh em''.Mùa thu năm đó, Liên đồn những người cộng sản
triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ hai. Các đại biểu đều thấy cần phải có một
tuyên ngôn làm cương lĩnh cho hoạt động của Liên đoàn. Mác và Ăng-ghen
đã bắt tay vào viết bản Tuyên ngơn. Tháng 2 năm 1848, ''Tun ngơn Đảng
Cộng sản'' chính thức được công bố tại Luân Đôn.
Sự ra đời của ''Tun ngơn Đảng Cộng sản'' đã gây chấn động tồn thế
giới. Tun ngơn đã trình bày một cách có hệ thống những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa cộng sản, chứng minh quy luật tất yếu chế độ tư bản sẽ bị diệt
vong và chế độ cộng sản sẽ thắng lợi. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác
phẩm kinh điển rất quan trọng của chủ nghĩa xã hội khoa học. Những nguyên
lý C .Mác và Ph.Ăng- ghen trình bày trong tác phẩm này là nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt động phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Trải qua mọi thử thách, hơn một thế kỷ qua, trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi giải quyết nhưng
chủ nghĩa Mác vẫn là kim chỉ nam dẫn đường.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã đặt nền tảng tư tưởng cho những
vấn đề về đảng và xây dựng đảng. Những tư tưởng đó có ý nghĩa thiết thực
trong công tác xây dựng đảng của Đảng ta. Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta
6


luôn luôn khẳng định: Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng là tất yếu trong tất cả các

giai đoạn cách mạng. Đảng ta khẳng định vấn đề nâng cao bản chất giai cấp
công nhân là tư tưởng xuyên suốt trong công tác xây dựng đảng để bảo đảm
cho Đảng hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo. Tư tưởng về sự thống nhất lợi ích
của Đảng và giai cấp trong Tuyên ngôn trở thành cơ sở cho những chủ trương
xóa những đặc quyền, đặc lợi của Đảng. Trong Tun ngơn, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã phân tích và kết luận bản chất lập trường quan điểm của các
tầng lớp, các giai cấp trong xã hội, những kết luận đó vận dụng trong công tác
phát triển đảng, công tác cán bộ sẽ tránh được chủ nghĩa thành phần. Những
tư tưởng quan điểm về xây dựng đảng trong Tuyên ngôn luôn luôn là kim chỉ
nam trong công tác xây dựng đảng của Đảng ta.
1.2 Nội dung cơ bản của tuyên ngôn đảng cộng sản
1.2.1 “Tuyên ngôn” làm rõ sự ra đời, địa vị lịch sử và sự diệt vong
tất yếu của chủ nghĩa tư bản
Xã hội tư bản điển hình nhất là ở các nước tư bản trên lục địa châu Âu
và nước Anh giữa thế kỷ XIX là bức tranh phức tạp. Trong sự phong phú của
các mơ hình xã hội, các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội ấy, C.Mác và
Ph.Ăng-ghen nhận rõ sự ra đời của hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa
như một tất yếu từ trong lòng xã hội phong kiến đã tan rã. Sau nhiều thế kỷ
tồn tại, bắt đầu từ thời Phục hưng, chế độ phong kiến đã trở nên lỗi thời, thối
nát, trở thành xiềng xích kìm hãm xã hội. Tổ chức công nghiệp theo lối phong
kiến hay phường hội trước kia không đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển
sản xuất và mở rộng thị trường.Sự ra đời chủ nghĩa tư bản là một bước tiến vĩ
đại trong lịch sử của nền văn minh nhân loại. Về kinh tế, chỉ chưa đầy một thế
kỷ, chủ nghĩa tư bản “đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ
hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại” (2)(2). Cùng với
sự phát triển về kinh tế, đời sống chính trị, đời sống tinh thần của xã hội, các
(2)(2)

C.Mác và Ăngghen sđd t.4,tr 605,6010.


7


quan hệ gia đình, quan hệ dân tộc, quan hệ giữa thành thị và nông thôn trong
một nước và quan hệ giữa các nước có bước tiến bộ mới theo hướng văn
minh.Bằng sự phân tích khách quan, khoa học, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã
khẳng định tính cách mạng, tiến bộ, hợp quy luật của sự ra đời của chủ nghĩa
tư bản, mà sự khởi đầu là từ sự phát triển của đại cơng nghiệp. Nhờ sử dụng
máy móc hiện đại, cải tiến kỹ thuật và tổ chức sản xuất, thúc đẩy cạnh tranh
tự do, mở rộng thị trường… xã hội tư bản đã tạo ra một khối lượng tư liệu sản
xuất và tư liệu sinh hoạt khổng lồ. Guồng máy sản xuất và trao đổi vì mục
tiêu lợi nhuận khơng ngừng tăng tốc, vận hành gần như hết cơng suất. Nhưng,
chính cuộc chạy đua săn tìm lợi nhuận trong mơi trường cạnh tranh tự do ấy
đã dẫn đến tình trạng quá thừa sản xuất, trao đổi và hàng hóa, hậu quả là nền
sản xuất xã hội lâm vào khủng hoảng mà sự nghiêm trọng của nó tới mức đe
dọa sự sống cịn của chế độ sở hữu tư bản nền tảng xây dựng nên chế độ tư
bản chủ nghĩa. Để khắc phục khủng hoảng, giai cấp tư sản chỉ còn cách và
trên thực tế đã áp dụng bằng nhiều cách hoặc là hủy bỏ một phần lực lượng
sản xuất hoặc là mở rộng ra các thị trường mới. Nhưng, các phương sách đó
cũng khơng cứu vãn được tình thế, trái lại, chỉ làm cho khủng hoảng trở nên
toàn diện hơn và nghiêm trọng hơn, khả năng ngăn chặn và khắc phục khủng
hoảng càng khó hơn.Cội nguồn sâu xa của vấn đề như Tun ngơn đã chỉ rõ
nằm chính ngay trong mâu thuẫn giữa nền tảng tạo nên chủ nghĩa tư bản chế
độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa với sản phẩm mà nó tạo ra lực lượng sản
xuất cơng nghiệp hóa. Sự chật hẹp của quan hệ sản xuất tư bản đối với sự phát
triển của lực lượng sản xuất là nguyên nhân cơ bản khiến chế độ kinh tế tư
bản đi đến chỗ sụp đổ. Vì vậy, các nhà tư bản tất yếu phải bảo vệ, cố gắng
duy trì chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Nhưng sự phát triển của lực
lượng sản xuất cũng tất yếu mâu thuẫn, không dung hợp với chế độ tư hữu. Vì
thế, lối thốt của lịch sử chỉ có thể là thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết

lập chế độ xã hội mới dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.Đương
nhiên, những nhận định của C.Mác và Ph.Ăng-ghen trong Tuyên ngôn về sự
8


diệt vong của chủ nghĩa tư bản là một sự khái quát logic cao. Về sau, mỗi lần
trở lại vấn đề này trong Lời tựa cho mỗi lần xuất bản, các ơng đều thừa nhận
chủ nghĩa tư bản cịn có điều kiện nhất định để kéo dài sự tồn tại của mình.
Ngày nay, nhờ có những điều chỉnh lớn trong quan hệ sản xuất và nhờ
tận dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ,
đặc biệt là việc hình thành các tập đồn xun quốc gia, các thể chế kinh tế
toàn cầu, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng tiếp tục kéo dài sự tồn tại. Tuy
nhiên, những hiện thực nan giải, những mâu thuẫn khơng thể vượt qua của xã
hội tư bản vẫn cịn đó với mức độ ngày càng gay gắt hơn. Điều đó càng chứng
tỏ những nhận định của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về số phận lịch sử của chủ
nghĩa tư bản ghi trong Tuyên ngôn tiếp tục được chứng thực ngay cả với chủ
nghĩa tư bản của thế kỷ XXI.
1.2.2 “Tuyên ngôn” chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản
người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới
Những mâu thuẫn trong đời sống kinh tế của xã hội tư bản dù có gay
gắt trầm trọng đến mấy cũng không làm cho chủ nghĩa tư bản tự sụp đổ, mà
phải có một lực lượng xã hội lớn mạnh đứng lên làm cách mạng lật đổ chế độ
tư bản. Trong xã hội tư bản, lực lượng xã hội này khơng ai khác ngồi giai
cấp cơng nhân hiện đại con đẻ của nền đại công nghiệp do chủ nghĩa tư bản
sinh ra, người đại biểu cho phương thức và lực lượng sản xuất mới đã hình
thành, giai cấp bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất trong chế độ làm thuê tư bản
chủ nghĩa. “Giai cấp tư sản khơng những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó
cịn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những cơng
nhân hiện đại, những người vô sản”(3)(3).Nền công nghiệp hiện đại đã sản sinh
ra, nuôi dưỡng một giai cấp vô sản với những đặc trưng cơ bản: là giai cấp

tiên tiến, có tổ chức, cách mạng và cách mạng triệt để nhất.Tính chất tiên tiến
của giai cấp vô sản thể hiện ở chỗ vượt lên trên các tầng lớp bị bóc lột khác
đang đối lập với giai cấp tư sản, họ là đại biểu cho phương thức sản xuất mới,
(3)(3)

C.Mác và Ăngghen sđd t.4,tr 605,610.

9


là “giai cấp đang nắm tương lại trong tay”; đại công nghiệp càng phát triển,
giai cấp này càng trưởng thành; hơn nữa giai cấp tư sản đã cung cấp cho giai
cấp vô sản những tri thức của nền sản xuất hiện đại, thậm chí “một số bộ phận
nhỏ của giai cấp thống trị tách ra khỏi giai cấp này và đi theo giai cấp cách
mạng”(4)(4), cùng với giai cấp vô sản thực hiện sứ mệnh thúc đẩy sự vận động
lịch sử sang giai đoạn mới.Tính chất đồn kết, có tổ chức chặt chẽ của giai
cấp vơ sản có cơ sở sâu xa từ những đòi hỏi tất yếu về kỹ thuật và tổ chức sản
xuất của nền đại công nghiệp. C.Mác và Ph.Ăng-ghen viết: “Sự phát triển của
công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô sản, mà còn tập hợp
họ lại thành những khối quần chúng lớn hơn: lực lượng của những người vô
sản tăng thêm và họ thấy rõ lực lượng của mình hơn” (5)(5). Tư bản là một lực
lượng tập thể, ở ngành nào, lĩnh vực nào nó cũng bóc lột cơng nhân, khiến
cho lợi ích và điều kiện sinh hoạt của những người vô sản dần dần trở nên
ngang bằng nhau, khơng cịn sự phân cách giữa cơng nhân ngành này, xí
nghiệp ngành này với cơng nhân ở ngành kia, xí nghiệp kia. Thêm vào đó,
việc tăng thêm phương tiện giao thơng do đại công nghiệp tạo ra giúp công
nhân các địa phương tiếp xúc với nhau dễ dang hơn, sự đoàn kết giữa họ chặt
chẽ hơn.Tính chất cách mạng của giai cấp vơ sản, một mặt, do giai cấp này
đại biểu cho lực lượng sản xuất mới nhân tố cách mạng trong nền sản xuất,
xã hội, họ chỉ có thể giành được những lực lượng sản xuất xã hội bằng cách

xóa bỏ phương thức chiếm hữu hiện nay (6)(6); mặt khác do giai cấp đó là tầng
lớp bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất trong xã hội tư bản. Cả hai đặc điểm đó
hợp lại, hun đúc nên ý chí, dũng khí cách mạng vô song, không thế lực nào
dập tắt được của giai cấp vô sản.Khi giai cấp tư sản không cịn vai trị cách
mạng, xã hội khơng thể tiếp tục sống dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, sự
tồn tại của giai cấp tư sản khơng cịn phù hợp với sự tồn tại của xã hội nữa,
các giai cấp khác suy tàn đi cùng với sự phát triển của nền đại cơng nghiệp…
thì với tất cả những đặc trưng quan trọng kể trên giai cấp vô sản là giai cấp
C.Mác và Ăngghen sđd t.4,tr 607,644
C.Mác và Ăngghen sđd t.4,tr 607,644
(6)(6)
C.Mác và Ăngghen sđd t.4,tr 626.
(4)(4)
(5)(5)

10


duy nhất đối lập thật sự với giai cấp tư sản và đủ sức đứng lên chống lại giai
cấp tứ sản cùng thiết chế nhà nước của nó, xóa bỏ chế độ tư bản chủ
nghĩa.Nhận định của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân trong Tun ngơn là dựa trên sự phân tích như vậy. Ngày nay, do
các đặc điểm của thời đại mà giai cấp cơng nhân có một số đặc điểm mới như:
sự biến động mạnh mẽ về cơ cấu; trình độ trí tuệ, khoa học - công nghệ cao
hơn; một số không nhỏ có cổ phiếu trong cơng ty tư bản, có nhiều tư liệu sinh
hoạt và cả tư liệu sản xuất, v.v… Song, những đặc điểm đó khơng làm thay
đổi cơ bản địa vị của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân vẫn đang là lực
lượng chủ yếu làm ra của cải cho xã hội và lợi nhuận cho các nhà tư bản, và
lực lượng đối lập trực tiếp với tư bản, là người bị tư bản bóc lột nhiều nhất và
mức thu nhập giữa họ với giới chủ tư bản vẫn ngày càng lớn thêm. Công nhân

trong các nước tư bản phát triển có được trí thức hóa, lao động bớt nặng nhọc
hơn, có chút ít cổ phẩn trong doanh nghiệp… thì họ càng bị ràng buộc chặt
chẽ hơn vào guồng máy sản xuất của tư bản, càng bị bóc lột nặng nề và tinh vi
hơn. Điều này là ngun nhân của những cuộc bãi cơng, đình cơng, biểu tình
hàng vạn người, ở nhiều ngành diễn ra liên tiếp ở nhiều nước tư bản.
1.2.3 “Tun ngơn” trình bày khái quát những nguyên lý cơ bản về
con đường giải phóng giai cấp vơ sản và mơ hình chủ nghĩa xã hội
Cùng với việc tuyên cáo về sự diệt vong của chế độ tư bản, Tuyên ngôn
đưa ra lời tuyên bố về sự tất yếu của xã hội cộng sản thay thế cho xã hội tư
bản. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về chủ nghĩa xã hội trình bảy
trong Tun ngơn được rút ra từ sự nhìn nhận biện chứng, khoa học.
Một là: Xem chủ nghĩa xã hội như một chế độ xã hội đối lập, là kết quả
của sự phủ định biện chứng đối với xã hội tư bản xã hội dựa trên chế độ
chiếm hữu tư nhân và phân chia giai cấp cuối cùng trong lịch sử.
Hai là: Kế thừa có phê phán các học thuyết về chủ nghĩa xã hội đã hình
thành.Trước hết, theo C.Mác và Ph.Ăng-ghen, những người vô sản phải tự tổ
chức thành giai cấp và chính đảng, tiến hành cách mạng vơ sản lật đổ sự
11


thống trị của giai cấp tư sản, “thông qua con đường cách mạng mà trở thành
giai cấp thông trị”(7)(7) và với tư cách là giai cấp thống trị tiến hành tổ chức,
xây dựng xã hội mới. Nói cách khác, “bước thứ nhất trong cuộc cách mạng
công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân
chủ”(8)(8). Mặc dù trong Tun ngơn có nhấn mạnh việc “dùng bạo lực để tiêu
diệt những quan hệ sản xuất cũ”(9)(9) với những biện pháp cứng rắn, như tước
đoạt sở hữu ruộng đất, xóa bỏ quyền thừa kế, tập trung tín dụng và các
phương tiện vận tải vào tay Nhà nước…(10)(10) nhưng ngay từ hồi đó, C.Mác
và Ph.Ăng-ghen cũng đã ý thức được rằng: “những biện pháp ấy về mặt kinh
tế thì hình như khơng được đầy đủ và khơng có hiệu lực”, đó chỉ là những

biện pháp khơng thể thiếu để đảo lộn toàn bộ phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã hình thành khá hồn thiện. Hơn nữa, “trong những nước khác nhau,
những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều” (11)(11). Trong Lời tựa
cho lần xuất bản năm 1872, các ông đã khẳng định: “Đoạn này, ngày nay mà
viết lại thì về nhiều mặt, cũng phải viết khác đi” (12)(12). Như thế đủ thấy, các
ơng vừa khẳng định tính bắt buộc phải tiến hành cách mạng vô sản, vừa
không bắt buộc nhất thiết phải sử dụng các biện pháp cứng rắn, nhất loạt ở tất
cả các nước.Tuyên ngôn đã phác họa ra những nét cơ bản nhất của mơ hình
xã hội cộng sản trong tương lai.
Về kinh tế: Xã hội cộng sản là xã hội trong đó chế độ tư hữu tư bản bị
xóa bỏ. Từ việc phân tích tính chất kìm hãm của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa đối với nền sản xuất xã hội, mà quyết định nhất là do chế độ sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã đi
tới kết luận lơ gích là phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Để tránh
mọi sự hiểu lầm, ngay trong Tuyên ngôn các ông đã giải thích: “đặc trưng của
chủ nghĩa cộng sản khơng phải là xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung, mà là xóa
C.Mác và Ăngghen sđd t.4,tr 628
C.Mác và Ăngghen sđd t.4,tr 628
(9)(9)
C.Mác và Ăngghen sđd t.4,tr 626-627
(10)(10)
C.Mác và Ăngghen sđd t.4,tr 626-627
(11)(11)
C.Mác và Ăngghen :Tuyen ngơn đảng cộng sản ,Nxb chính trị quốc gia ,H,2004,tr.37
(12)(12)
C.Mác và Ăngghen sđd t.4,tr 617,618,619
(7)(7)
(8)(8)

12



bỏ chế độ sở hữu tư sản với tính cách là hình thức tư hữu cuối cùng và đầy đủ
nhất so với các phương thức sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhan,
đơng thời khơng chủ trương xóa bỏ sở hữu các kết quả lao động do công nhân
làm ra một cách lương thiện, vì nó “khơng đẻ ra một khoản dư nào có thể đem
lại một quyền lợi chi phối lao động của người khác” (13)(13). Cái phải xóa bỏ
chỉ là sở hữu tư sản mà nhờ nó nhà tư bản có được quyền chiếm đọat lao động
thặng dư của lao động làm thuê. Ngay chủ trương xóa bỏ chế độ sở hữu tư
bản - cũng như luận điểm “chủ nghĩa cộng sản phải xóa bỏ bn bán” (14)(14) mà các ơng nói về xã hội tương lai cùng với giả định là cách mạng vô sản nổi
ra và thắng lợi ở các nước tư bản đã đạt tới trình độ phát triển cao nhất. Thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga và các nước xã hội chủ nghĩa sau
này cho thấy, đối với những nước chưa qua chủ nghĩa tư bản, thậm chí đã trải
qua nhưng mới đạt tới trình độ phát triển trung bình của chủ nghĩa tư bản vẫn
cịn sản xuất hàng hóa, bn bán thì phải thừa nhận sự tồn tại của sở hữu tư
nhân tư bản ở phạm vi nhất định dưới sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước vô
sản. Điều này chỉ làm phong phú thêm, chứ không phải là cớ để bác bỏ luận
đề nên trên của C.Mác và Ph.Ăng-ghen trong Tuyên ngôn.
Điều rất đáng chú ý là trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã
phê phán luận điểm mà ngày nay vẫn có khơng ít người đưa ra để cổ vũ cho
việc tư hữu hóa triệt để cho rằng nếu xóa bỏ chế độ tư hữu thì mọi người sẽ
trở nên lười biếng, làm ngưng trệ mọi hoạt động. C.Mác và Ph.Ăng-ghen viết:
“Nếu quả như vậy thì xã hội tư sản phải sụp đổ từ lâu rồi do tình trạng lười
biếng, vì trong xã hội ấy, những người lao động thì khơng được hưởng, mà
những kẻ được hưởng lại không lao động”. Xã hội sẽ vẫn tồn tại và phát triển
nhờ có sản xuất, người sản xuất hồn tồn có quyền sở hữu những sản phẩm
lao động chính đáng của mình làm ra. Xóa bỏ sự tước đoạt do chế độ tư hữu
sinh ra chỉ càng làm cho sản xuất phát triển hơn mà thôi.
(13)(13)
(14)(14)


C.Mác và Ăngghen sđd t.4,tr 617,618,619
V.I.Lênin : Toàn tập ,Nxb tiến bộ ,Matxcowa,1974,t.2,tr.10

13


Về đời sống chính trị: Trong Tun ngơn cũng chỉ rõ: nhà nước của xã
hội cộng sản tương lai chính là hình thức giai cấp vơ sản tự tổ chức thành giai
cấp thống trị. Quá trình tự tổ chức thành giai cấp trong cuộc đấu tranh chống
giai cấp tư sản đã làm cho giai cấp vô sản đương nhiên trở thành giai cấp
thống trị sau khi cách mạng vô sản thành công. Giai cấp vô sản sẽ dùng sự
thống trị của mình biểu hiện tập trung ở bộ máy nhà nước vơ sản, các thiết
chế pháp quyền của nó để quản lý xã hội, phát triển sản xuất và thực hiện
phương thức phân phối theo nguyên tắc mới. Tuyên ngôn khẳng định mối
quan hệ chặt chẽ giữa giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc với nguyên lý
nổi tiếng: Hãy xóa bỏ tình trạng bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc
lột dân tộc khác cũng bị xóa bỏ. Tư bản là một lực lượng quốc tế, toàn bộ giai
cấp tư sản các nước cấu kết với nhau bóc lột tồn bộ giai cấp vơ sản tồn tư
bản, vì vậy khẩu hiệu hành động của giai cấp vố sản là “Vơ sản tất cả các
nước, đồn kết lại!”.
Trong lĩnh vực ý thức xã hội, đạo đức và đời sống tinh thần của xã hội
Cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa “đoạn tuyệt một cách triệt để nhất
với những tư tưởng kế thừa của quá khứ”. Điều đó là tất yếu xét về nguyên
tắc và logic khách quan, vì cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt
triệt để nhất những quan hệ sở hữu của quá khứ cơ sở xã hội hình thành nên ý
thức xã hội và đạo đức cả các xã hội cũ. Tuy nhiên, không thể hiểu luận điểm
này của Tuyên ngôn một cách máy móc, thơ thiển. Những tư tưởng của q
khứ phải xóa bỏ mà C.Mác và Ph.Ăng-ghen muốn nói đến ở đây là hệ tư
tưởng của giai cấp tư sản, kể cả các tư tưởng pháp quyền, đạo đức và quan

niệm tôn giáo tư sản như con đẻ của sở hữu tư nhân và chế độ bóc lột. Chủ
nghĩa cộng sản khơng xóa bỏ cá tính, sự sáng tạo, tính độc lập, sự tự do của
con người mà chỉ loại bỏ tính chất tư sản của các khái niệm đó. Tất cả các
phạm trù đó trong xã hội mới sẽ được nâng lên tầm cao mới theo nguyên lý
“sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất
cả mọi người”.
14


Tun ngơn cịn đề cập nhiều khía cạnh khác trong lĩnh vực xã hội,
nhất là các vấn đề giáo dục, gia đình và quan hệ giữa thành thị với nơng thôn.
Đối lập với nền giáo dục chịu ảnh hưởng sâu sắc của giai cấp tư sản thống trị,
với chế độ cộng thê của hơn nhân tư sản, với tình trạng nông thôn phải phục
tùng thành thị trong chế độ tư bản chủ nghĩa sẽ là một nền giáo dục công cộng
và không mất tiền cho tất cả trẻ em, là hình thức gia đình được duy trì bằng
mối quan hệ gắn bó thân thiết giữa vợ và chồng, giữa con cái với cha mẹ và
khơng có nạn mại dâm; là sự bình đẳng và xích lại gần nhau giữa nơng thôn
và thành thị… Dĩ nhiên, những mục tiêu này không dễ đạt được ngay, nhưng
đó là những đặt trưng thể hiện sâu sắc tính chất dân chủ, nhân văn, vì con
người của những người cộng sản.160 năm cho sự phán xét, khảo nghiệm của
lịch sử đối với một tác phẩm cương lĩnh là khoảng thời gian không ngắn.
Vượt qua bao biến cố của lịch sử và những thăng trầm của phong trào cộng
sản tồn thế giới, Tun ngơn của Đảng Cộng sản vẫn ngời sáng chân lý khoa
học về sự thay thế không tránh khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa bằng chế độ xã
hội mới cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu của nó là xã hội xã hội chủ
nghĩa. Khẳng định giá trị vĩnh hằng của Tuyên ngơn, Lênin viết: “Cuốn sách
nhỏ ấy có giá trị bằng hàng bộ sách; tinh thần của nó, đến bây giờ, vẫn cổ vũ
và thúc đẩy tồn thể giai cấp vơ sản có tổ chức và đang chiến đấu của thế giới
văn minh”(15).
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là cương lĩnh của những người cộng

sản, có giá trị bền vững, lâu dài. Nó khơng chỉ xác định mục tiêu, lý tưởng
xây dựng chủ nghĩa cộng sản, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người, khơng chỉ vạch ra con đường cách mạng và lực lượng
xã hội chủ chốt là giai cấp vô sản thực hiện con đường cách mạng đó, mà cịn
trình bày một cách súc tích thế giới quan khoa học và cách mạng của giai cấp
vô sản - một sáng tạo vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, dựa trên sự kế thừa
và phát triển những tư tưởng tiên tiến nhất của thời đại. Chính vì vậy, thái độ
đối với Tun ngơn thực chất là thái độ đối với chủ nghĩa Mác nói chung.
15


Sinh thời, Macxen Caxanh, một trong những lãnh tụ sáng lập Đảng Cộng sản
Pháp, mỗi năm đọc lại Tuyên ngôn ít nhất một lần, vì tác phẩm là cái gì đó
tuy đã cũ nhưng ln ln mới.
1.3 Những giá trị khoa học và thực tiễn của Tuyên ngôn Đảng
Cộng Sản
Tuyên ngôn đã chứng tỏ sức mạnh vĩ đại của tư tưởng - lý luận tiên tiến,
vạch thời đại của thế giới quan khoa học và cách mạng, ở chỗ không chỉ giải
thích thế giới một cách khoa học mà cịn cải tạo thế giới đó bằng cách mạng.
Một là: Tuyên ngôn đã vạch rõ, từ khi lịch sử xã hội loài người đã
phân chia giai cấp, đã xuất hiện những đối kháng giai cấp thì đấu tranh giai
cấp là một trong những động lực của lịch sử. Tuyên ngôn viết: “Lịch sử tất
cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Người tự do và người nô lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nơng nơ, thợ cả
phường hội và thợ bạn, nói tóm lại những kẻ áp bức và những người bị áp
bức, luôn đối kháng với nhau đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng,
lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc
hoặc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội hoặc bằng sự diệt
vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau”. Các cuộc đấu tranh này là sự
phản ánh về mặt xã hội của sự vận động kinh tế và sản xuất để giải quyết

mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong các thời đại
lịch sử khác nhau. Với tư tưởng này, Tuyên ngôn đã thể hiện quan điểm duy
vật về lịch sử. Đó là việc thể hiện quan điểm duy vật triệt để trong việc nhận
thức xã hội. Bằng sự phân tích q trình phát triển kinh tế qua các thời đại
lịch sử, Mác và Ăng ghen đã chỉ rõ nguyên nhân cuối cùng của mọi sự biến
đổi xã hội chính là bắt nguồn từ sự thay đổi trong đời sống vật chất. Điều đó
có nghĩa là, mọi sự thay đổi trong đời sống tinh thần khơng thể tìm ngun
nhân từ bản thân nó mà phải giải thích và tìm cội nguồn từ sự thay đổi của
đời sống kinh tế, và muốn thay đổi ý thức, đời sống tinh thần thì phải cải tạo,
biến đổi đời sống vật chất đã sinh ra nó.
16


Thứ hai: Tun ngơn đã luận chứng cho vai trị cách mạng mang tính
lịch sử thế giới của giai cấp vô sản trong việc lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa,
xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Sự ra đời của giai cấp vơ sản được Tun ngơn
chỉ rõ, đó là do nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển của lực lượng sản
xuất hiện đại, cạnh tranh tự do đã đưa giai cấp tư sản lên địa vị thống trị về
kinh tế và chính trị. Song nền sản xuất đại công nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản
đã tạo ra lực lượng xã hội ngày càng mạnh mẽ để chống lại chính chủ nghĩa
tư bản, đó là giai cấp vô sản. “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ
khí sẽ giết mình mà nó cịn tạo ra những người sử dụng những vũ khí ấy
chống lại nó, đó là những cơng nhân hiện đại, những người vơ sản”. Trong sự
phân tích của Mác-Ăng ghen, giai cấp vô sản sở dĩ thực sự là một giai cấp
cách mạng bởi nó đại diện và tiêu biểu cho lực lượng sản xuất mới, tiên tiến
của toàn xã hội, cho một phương thức sản xuất tiên tiến của lịch sử, nó đại
biểu cho xu thế, triển vọng của tương lai. Nó khơng có lợi ích riêng với nghĩa
là tư hữu. Nó đại biểu cho lợi ích của tồn xã hội. Giai cấp vơ sản tìm thấy lợi
ích chân chính của mình khi đấu tranh cho lợi ích của tồn xã hội. Chỉ bởi
điều đó mà giai cấp vơ sản mang được một phẩm chất cao quý là triệt để cách

mạng, cùng với tinh thần quốc tế cao cả, phấn đấu cho lợi ích chung, khơng
chỉ giải phóng mình mà cho tồn thể lồi người, xóa bỏ sự thống trị, nơ dịch
của chủ nghĩa tư bản không chỉ trong phạm vi dân tộc mà trên tồn thế giới.
Đại cơng nghiệp đã rèn cho giai cấp vơ sản những đức tính tổ chức và kỷ luật
để thực thi sứ mệnh lịch sử của nó.
Thứ ba: Tun ngơn đã vạch rõ con đường đấu tranh của giai cấp vô
sản. Để đấu tranh giành thắng lợi thì giai cấp vơ sản cần có một Đảng thực sự
sáng suốt về mặt tư tưởng cho cuộc đấu tranh của mình. Đảng tập hợp trong
hàng ngũ của mình những người ưu tú nhất của giai cấp vơ sản. Đảng đi đầu
quần chúng vô sản trong đấu tranh. Sự ra đời của Đảng cộng sản là tất yếu để
đảm bảo cho giai cấp vơ sản hồn thành sứ mệnh lịch sử. Mác - Ăng ghen đã
vạch rõ mục tiêu của giai cấp vơ sản và Đảng của nó là tổ chức những người
17


vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản
giành lấy chính quyền, trở thành một giai cấp thống trị, tức là nắm chính
quyền để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Nhưng Đảng cộng sản
không phải là một đảng riêng biệt, Đảng là một bộ phận gắn liền với giai cấp.
Lợi ích của Đảng thống nhất với lợi ích giai cấp, mục đích của Đảng là mục
đích của giai cấp, Đảng là đại biểu cho lợi ích của tồn bộ phong trào vơ sản.
Kết quả của phong trào vô sản không dừng lại ở sự ra đời của chính Đảng mà
cịn biểu hiện ở chỗ giai cấp vô sản biết hành động theo sự lãnh đạo của
Đảng. Con đường phát huy sức mạnh của Đảng cộng sản trước hết phải giữ
vững và cũng cố mối liên hệ giữa Đảng và giai cấp cơng nhân và tồn thể
nhân dân lao động. Tuyên ngôn đã đưa ra một nhận định sắc bén và đầy tinh
thần lạc quan cách mạng: “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai
cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”.
Thứ tư: Tuyên ngôn chỉ rõ giai cấp vô sản chỉ có thể đạt được mục
đích bằng con đường đấu tranh giai cấp, dùng bạo lực cách mạng để lật đổ sự

thống trị của giai cấp tư sản, bởi trong cuộc cách mạng ấy, những người cộng
sản nếu mất chỉ là mất xiềng xích, cịn được thì được cả thế giới. Nhiệm vụ
nặng nề mà giai cấp vô sản phải thực hiện sau khi giành được chính quyền là
từng bước cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên mọi lĩnh vực vì quyền
lợi của nhân dân lao động. Nguyên tắc sách lược chung của Đảng cộng sản là
ủng hộ mọi phong trào cách mạng chống chế độ tư sản đương thời và tập hợp
các lực lượng dân chủ nhưng những người cộng sản phải luôn giữ vững tính
độc lập của giai cấp mình.
Thứ năm: Để đập tan luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản của giai
cấp tư sản, Tuyên ngôn đã khẳng định và bảo vệ một loạt những nguyên lý
của chủ nghĩa cộng sản. “Lý luận của những người cộng sản tuyệt nhiên
không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới
nào phát minh hay phát hiện ra.”. Mà lý luận của những người cộng sản là sự
phản ánh hiện thực khách quan của phong trào vô sản. Trong vấn đề sở hữu,
18



×