Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên Chuyên đề Dạy học chương trình giáo dục địa phương môn Lịch sử THCS theo tài liệu biên soạn của Sở Giáo dục và Đào tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.97 KB, 38 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo về nội dung giáo dục
địa phương ở cấp THCS, Sở Giáo dục và Đào tạo Quảng Bình đã tổ chức biên
soạn tài liệu giáo dục địa phương các mơn Ngữ văn, Lịch sử và Địa lí dành cho
học sinh tỉnh Quảng Bình.
Bắt đầu từ năm học 2013 - 2014, các tiết giáo dục địa phương trong phân
phối chương trình mơn Ngữ văn, Lịch sử lớp 6, 7, 8, 9 và mơn Địa lí lớp 9 được
dạy học theo bộ tài liệu do Sở Giáo dục và Đào tạo Quảng Bình biên soạn.
Để việc triển khai thực hiện dạy học nội dung giáo dục địa phương môn
Lịch sử theo tài liệu của Sở đạt kết quả tốt, phòng GDTrH đưa Chuyên đề dạy
học chương trình giáo dục địa phương môn Lịch sử THCS theo tài liệu biên
soạn của Sở vào nội dung bồi dưỡng thường xuyên năm học 2013 - 2014 (sau
đây gọi tắt là Chuyên đề). Thời lượng dành cho Chuyên đề là 30 tiết, gồm 15 tiết
giáo viên tự nghiên cứu và 15 tiết bồi dưỡng tập trung.
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng chắc chắn tài liệu sẽ khơng thể tránh khỏi
những sai sót và bất cập. Rất mong q thầy, q cơ thơng cảm, chia sẻ và góp ý
chân tình, thẳng thắn để chúng tơi có được những kinh nghiệm thật sự bổ ích.
NHĨM TÁC GIẢ
Dương Xn Sự - Chun viên phịng GDTrH
Thái Thị Lợi - TPCM trường THPT Chuyên Quảng Bình

1


Phần I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Khái niệm “lịch sử địa phương”
Để xác định được mục đích yêu cầu của việc dạy và học Lịch sử địa
phương, chúng tôi nghĩ trước tiên chúng ta cần tìm hiểu khái niệm “Lịch sử
địa phương” muốn hiểu đúng khái niệm “Lịch sử địa phương” trước hết ta cần
hiểu thuật ngữ “địa phương”; Địa phương là những vùng đất nhất định nằm
trong một quốc gia có những sắc thái đặc thù riêng, là một bộ phận cấu thành


đất nước. Khái niệm “địa phương” có thể hiểu theo hai khía cạnh cụ thể và trừu
tượng. Với nghĩa thứ nhất, có thể gọi địa phương là những đơn vị hành chính
như các xã, huyện, tỉnh, thành phố. Với nghĩa thứ hai, có thể gọi “địa phương”
là những vùng đất nhất định được hình thành trong lịch sử, có ranh giới tự
nhiên để phân biệt với vùng đất khác, ví dụ: miền Nam, miền Bắc, khu vực
Tây Bắc, Việt Bắc...
Từ nhận thức như vậy, ta có thể hiểu được lịch sử địa phương chính là
lịch sử của các làng, xã, huyện, tỉnh hay khu vực, vùng, miền.
Lịch sử địa phương còn bao hàm ý nghĩa lịch sử của các đơn vị sản xuất,
chiến đấu, các trường học, cơ quan, xí nghiệp...Xét về yếu tố địa lý, các đơn vị
đó đều gắn với một địa phương nhất định, song nội dung của nó mang tính kỹ
thuật, chun mơn do vậy có thể xếp nó vào dạng lịch sử chuyên ngành.
2. Mối quan hệ giữa lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc
Tri thức lịch sử địa phương là biểu hiện cụ thể, sinh động, đa dạng của tri
thức lịch sử dân tộc. Lịch sử địa phương là bộ phận cấu thành của lịch sử dân
tộc. Nói vậy khơng có nghĩa một cơng trình nghiên cứu lịch sử dân tộc là kết
quả của phép tính cộng các cuốn lịch sử địa phương. Lịch sử dân tộc được hình
thành trên nền tảng khối lượng tri thức lịch sử địa phương đã được khái quát và
tổng hợp ở mức độ cao. Đây là mối quan hệ biện chứng không thể tách rời, nằm
trong cặp phạm trù “Cái chung và cái riêng”.

2


Bất cứ một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào xảy ra đều mang tính chất địa
phương, bởi nó gắn với một vị trí khơng gian cụ thể ở một địa phương hoặc
một số địa phương nhất định. Tuy nhiên, những sự kiện, hiện tượng đó có tính
chất, quy mơ, mức độ ảnh hưởng khác nhau. Có những sự kiện, hiện tượng chỉ
có tác dụng, ảnh hưởng trong phạm vi hẹp của địa phương, nhưng có những sự
kiện, hiện tượng xảy ra có mức độ ảnh hưởng vượt khỏi khung giới địa

phương, mang ý nghĩa rộng với quốc gia, thậm chí đối với cả thế giới. Tri thức
lịch sử sẽ làm giàu thêm tri thức của cuộc sống con người. Bài học lịch sử luôn
chỉ cho con người biết cách hoạt động đúng đắn trong hiện tại và tương lai.
Lịch sử thực sự là “người thày của cuộc sống”. Chính vì lẽ đó, sự am tường về
lịch sử dân tộc còn bao hàm cả sự hiểu biết cần thiết về lịch sử địa phương,
hiểu biết về lịch sử của chính miền quê, xứ sở, nơi chôn nhau cắt rốn của chính
mình, hiểu rõ mối quan hệ của lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc và rộng
lớn hơn là lịch sử thế giới.
Nguồn tài liệu lịch sử địa phương, với những loại hình đa dạng phong
phú, sinh động là cơ sở cho việc tạo những biểu tượng lịch sử và hiểu sâu sắc
các khái niệm, các sự kiện, hiện tượng ở bài học lịch sử. Tri thức lịch sử địa
phương có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, lịng tự hào chân chính và những truyền
thống tốt đẹp của địa phương, tình yêu quê hương, xứ sở, ý thức bảo vệ, giữ gìn
di sản văn hóa, di tích lịch sử... Tư liệu lịch sử địa phương chẳng những là cứ
liệu khoa học để hiểu rõ sự phát triển của lịch sử các địa phương, mà còn là
những căn cứ cụ thể chi tiết để xem xét đánh giá một cách toàn diện những sự
kiện, hiện tượng, biến cố trong lịch sử dân tộc.
3. Sự cần thiết phải chú trọng nội dung lịch sử địa phương
Như trên đã nói, bất cứ một sự kiện, hiện tượng nào xảy ra trong lịch sử
đều mang tính chất địa phương, bởi nó gắn với một vị trí khơng gian cụ thể ở
một hoặc một số địa phương nhất định. Chính vì vậy có những sự kiện lịch sử
địa phương gắn liền với lịch sử dân tộc hoặc rộng hơn là lịch sử thế giới. Sự
hiểu biết cần thiết về lịch sử địa phương, hiểu biết về lịch sử của chính quê
3


hương, xứ sở, nơi chơn nhau cắt rốn của mình, hiểu rõ mối quan hệ của lịch sử
địa phương với lịch sử của dân tộc là điều rất cần thiết.
Vì vậy, dạy học lịch sử địa phương Quảng Bình có ý nghĩa quan trọng
trong việc góp phần giúp giáo viên thực hiện mục tiêu giáo dục ở trường phổ

thông các cấp trong tỉnh. Thông qua việc dạy học sinh học lịch sử địa phương,
hoạt động của nhà trường có điều kiện để gắn liền với xã hội, lý luận đi đơi với
thực hành.
Từ đó, việc tổ chức nghiên cứu, bồi dưỡng cho giáo viên bộ môn Lịch sử,
giáo viên dạy ở cấp phổ thông về lịch sử địa phương tỉnh nhà khơng những cần
thiết về tri thức mà cịn bồi dưỡng cho các giáo viên những kỹ năng cần thiết
trong việc vận dụng tri thức lý thuyết lịch sử vào thực tiễn đang đòi hỏi ở địa
phương. Từ hoạt động thực tiễn đó, các giáo viên sẽ thấy được sự phát triển đa
dạng sinh động, phức tạp và thú vị của lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc,
thấy được nét độc đáo, đặc thù của lịch sử địa phương tỉnh nhà, song vẫn tuân
theo quy luật phát triển chung của lịch sử dân tộc và lịch sử nhân loại.
Hoạt động nghiên cứu lịch sử địa phương tỉnh nhà của giáo viên các cấp
được tổ chức tốt sẽ như nhịp cầu nối tình cảm của giáo viên với nhân dân địa
phương trong tỉnh; cũng là biện pháp để khai thác sức sáng tạo tiềm tàng truyền
thống lịch sử của nhân dân địa phương.
Trên tinh thần đó, Lịch sử địa phương Quảng Bình nếu được bồi dưỡng
tốt cho giáo viên và được tổ chức giảng dạy tốt ở các trường phổ thông trong
tỉnh sẽ là một trong những nguồn quan trọng làm phong phú tri thức của học
sinh về quê hương Quảng Bình mình, giáo dục cho các em lịng tự hào về truyền
thống quê hương và yêu quê hương, hình thành những khái niệm về nghĩa vụ
đối với quê hương, tạo cho học sinh nhận thức được mối quan hệ giữa lịch sử
địa phương và lịch sử dân tộc.
Ngoài ra, dạy học lịch sử địa phương tỉnh Quảng Bình sẽ góp phần khơng
nhỏ vào việc giáo dục tư tưởng, chính trị, lao động, đạo đức, thẩm mỹ cho học
sinh và cho giáo viên. Nó có vị trí quan trọng trong việc hình thành lịng tự hào
4


về đất nước, dân tộc Việt Nam, bắt đầu từ lịng tự hào về những chiến cơng của
cha anh mình đã làm nên ở ngay trong làng xóm thân yêu trong địa phương của

mình khi đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Giáo viên và học sinh cũng tự hào
với những thành tựu kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương Quảng Bình chúng
ta từ trước đến nay.
Phần II. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA
PHƯƠNG
1. Nội dung và nguyên tắc biên soạn tài liệu Lịch sử địa phương
Quảng Bình
Thực hiện Cơng văn số 5977/BGDĐT-GDTrH ngày 07/7/2008 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo về Hướng dẫn thực hiện nội dung Giáo dục địa phương ở cấp
THCS và cấp THPT từ năm học 2008 - 2009, Sở Giáo dục và Đào tạo Quảng Bình
đã tổ chức biên soạn bộ tài liệu giáo dục địa phương các môn Ngữ văn, Lịch sử và
Địa lý (sách dùng cho học sinh và giáo viên THCS). Bộ tài liệu gồm có:
- 04 cuốn dành cho học sinh:
+ Tài liệu giáo dục địa phương Ngữ văn, Lịch sử lớp 6;
+ Tài liệu giáo dục địa phương Ngữ văn, Lịch sử lớp 7;
+ Tài liệu giáo dục địa phương Ngữ văn, Lịch sử lớp 8;
+ Tài liệu giáo dục địa phương Ngữ văn, Lịch sử và Địa lý lớp 9.
- 01 cuốn dành cho giáo viên: Tài liệu hướng dẫn giảng dạy chương trình
giáo dục địa phương Ngữ văn, Lịch sử và Địa lý lớp 6, 7, 8, 9.
Phân phối chương trình và nội dung phần Lịch sử cụ thể theo từng khối,
lớp như sau:
- Lớp 6: 01 bài, được dạy trong 01 tiết (tiết 32, theo PPCT), với nội dung:
+ Vùng đất Quảng Bình là dải đất hẹp, có cảnh quan đa dạng: sông, núi,
biển, rừng. Đặc điểm tự nhiên đã tác động lớn đến điều kiện sống của con người,
làm nảy sinh những tuấn kiệt danh nhân.
5


+ Những danh nhân tiêu biểu của Quảng Bình.
+ Những nét tính cách của con người Quảng Bình và những nhân tố góp

phần tạo dựng nên điểm riêng biệt trong tính cách con người Quảng Bình.
- Lớp 7: Bao gồm 03 bài, được dạy trong 03 tiết (tiết 32, 56, 65 theo
PPCT), mỗi bài 01 tiết, với các nội dung:
+ Bài 1: Quảng Bình là một phần lãnh thổ thiêng liêng của nước Việt.
Những thăng trầm của lịch sử đã để lại những dấu ấn sâu sắc đối với quá trình
hình thành và phát triển của vùng đất này. Trước 1832, vùng đất Quảng Bình
thường xun có sự thay đổi địa giới và tên gọi. Từ sau 1832, các đơn vị hành
chính tỉnh Quảng Bình dần hồn chỉnh.
+ Bài 2: Khái quát sự hình thành và phát triển của xã hội ngun thuỷ trên
đất Quảng Bình.
Những đóng góp của nhân dân Quảng Bình đối với sự nghiệp kháng chiến
chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc (đến thế kỉ XV).
+ Bài 3: Thế kỉ XVII, Đại Việt nằm trong tình trạng nội chiến kéo dài giữa
hai tập đồn Lê - Trịnh và Nguyễn, Quảng Bình là chiến trường chính của các
cuộc giao tranh. Đời sống nhân dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Khi phong trào Tây Sơn nổ ra, nhân dân Quảng Bình đã tích cực góp phần
vào cuộc đấu tranh thống nhất đất nước và cuộc kháng chiến chống quân Thanh
xâm lược.
- Lớp 8: 01 bài, được dạy trong 01 tiết (tiết 43 theo PPCT), với nội dung:
+ Khái quát các cuộc khởi nghĩa, những thủ lĩnh của phong trào Cần
vương ở Quảng Bình và một số trận đánh tiêu biểu diễn ra trên vùng đất này.
+ Những đóng góp của phong trào Cần vương ở Quảng Bình đối với công
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc.
- Lớp 9: Bao gồm 02 bài, được dạy trong 02 tiết (tiết 37, 48 theo PPCT),
mỗi bài 01 tiết, với các nội dung:
6


+ Bài 1: Khái quát hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự bùng nổ của phong trào
cách mạng 1930 - 1931 và những hoạt động tiêu biểu của phong trào cách mạng

1930 - 1931 ở Quảng Bình.
+ Bài 2: Cơng cuộc chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở
Quảng Bình đầu tháng 7 - 1945.
+ Những nét chính của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Quảng Bình.
Sau mỗi bài có hệ thống câu hỏi và các tài liệu tham khảo phục vụ cho
việc giảng dạy các nội dung của bài học.
Nội dung chương trình giáo dục địa phương cấp THCS được xây dựng
đảm bảo tính logic và có mối liên hệ chặt chẽ với các đơn vị kiến thức của lịch
sử dân tộc theo từng khối lớp nhằm làm cho học sinh hiểu thêm về lịch sử dân
tộc trong giai đoạn đó, đồng thời từ những kiến thức của lịch sử dân tộc, học
sinh sẽ thấy được lịch sử của địa phương mình trong sự phát triển không ngừng
của lịch sử dân tộc.
2. Một số yêu cầu khi dạy học Lịch sử địa phương Quảng Bình ở các
trường THCS
Lịch sử địa phương là một bộ phận hữu cơ của Lịch sử dân tộc. Vì vậy, khi
dạy học Lịch sử địa phương giáo viên cần tuân thủ các nguyên tắc và phương pháp
dạy học cơ bản của bộ môn. Tuy nhiên, do đặc thù của Lịch sử địa phương là loại
kiến thức khá quen thuộc và gần gũi nên giáo viên cần chú ý một số điểm sau:
- Do ưu thế của Lịch sử địa phương là những sự kiện, nhân vật lịch sử rất
quen thuộc, đễ tiếp xúc ngay tại địa phương. Ở một mức độ nào đó, có khi học
sinh đã biết, đã nghe, đã nhìn thấy. Vì vậy, giáo viên phải tận dụng tối đa các
hình thức dạy học, phát huy hết khả năng của học sinh đối với việc thu nhận
kiến thức thông qua các kênh khác nhau như: hỏi người lớn trong gia đình, sưu
tầm tài liệu đã được in ấn trên địa bàn qua sách báo, tranh ảnh, điền dã tại các
địa phương gần nơi sinh sống, gặp các nhân chứng lịch sử, gặp gỡ các nghệ
nhân, danh nhân địa phương, trao đổi trong nhóm, thảo luận cả lớp, tổ chức cho
7


các em thực hiện một dự án nhỏ về nội dung bài học... tránh việc các em phải

ngồi nghe các thơng tin cứng nhắc, khơ khan và thiếu tính hấp dẫn, cụ thể, sinh
động. Đây là điều mà mỗi giáo viên cần phải làm được.
- Dạy học lịch sử địa phương tỉnh nhà cho học sinh chính là việc cụ thể
hóa một cách sinh động, chi tiết những tri thức lịch sử dân tộc. Do đó những sự
kiện hiện tượng lịch sử khơng thể tách rời vị trí khơng gian cụ thể, nhưng những
vị trí khơng gian đó ít nhiều đều có sự thay đổi theo cơ cấu đơn vị hành chính
địa phương (chủ yếu do tỉnh ta thời gian qua đã có nhiều thay đổi do việc nhập,
tách tỉnh, huyện, xã .v.v…) Chính vì vậy khi trình bày những sự kiện, hiện
tượng lịch sử, cần chú ý xác định rõ vị trí khơng gian, địa danh lịch sử ở thời
điểm sự kiện xảy ra và ở vị trí khơng gian hiện tại để người học dễ theo dõi,
hình dung, tái tạo lịch sử một cách chính xác.
- Khi dạy học lịch sử địa phương chúng ta sẽ có ý kiến nhận xét, đánh
giá về vai trò của cá nhân, quần chúng trong lịch sử, về sự đóng góp của địa
phương tỉnh ta với toàn quốc, về mối quan hệ giữa các địa phương trong quá
trình phát triển của lịch sử .v.v… Việc đánh giá vai trò của cá nhân và quần
chúng không thể áp đặt chủ quan, lịch sử địa phương của tỉnh nhà chúng ta
thường rất cụ thể và địi hỏi khách quan, vì vậy khi nêu tên các nhân vật lịch sử
ở địa phương trong tỉnh không địi hỏi ở họ sự tiêu biểu tồn diện mà có thể là
về một lĩnh vực hoạt động nào đó. Có những nhân vật có tác dụng tích cực ở
một thời kỳ lịch sử này, sau lại giảm đi ở một thời kỳ khác và ngược lại.
- Phải đổi mới cách đánh giá các nội dung địa phương: Cho dù thời lượng
dành cho các tiết địa phương trong chương trình không nhiều nhưng không nên
coi đây là phần phụ, nội dung ngoại khố của chương trình chính khố, học chỉ
để biết. Nên có cách đánh giá, cho điểm với những cách làm riêng của chương
trình địa phương như viết bài thu hoạch, sáng tác thơ ca, sưu tầm tài liệu, vẽ
tranh, thi diễn thuyết các chủ đề theo nhóm, lớp...nhằm tạo ra sự thích thú của
các em với những nội dung trong bài học.
- Nên sử dụng các hình thức dạy học sau:
8



+ Tổ chức cho học sinh được đi tham quan học tập tại các di tích lịch sử,
danh lam thắng cảnh của địa phương, các cơng trình kiến trúc, nhà bảo tàng, nhà
truyền thống, các làng nghề ở địa phương... để các em có cái nhìn sâu sắc hơn,
đầy đủ hơn về những vấn đề đang diễn ra tại địa phương mình.
+ Với các bài miêu tả trận đánh, các di tích lịch sử, các địa điểm của căn
cứ cách mạng trong kháng chiến chống Pháp... có thể tổ chức dạy học trên thực
địa rất tốt. Các tiết học như vậy sẽ khiến học sinh vơ cùng thích thú và nâng cao
lòng tự hào về truyền thống qưê hương cách mạng cho các em.
+ Có thể tổ chức các buổi ngoại khoá về Lịch sử địa phương tại các
trường trong các dịp lễ kỷ niệm quan trọng của tỉnh nhà. Có thể phát động các
cuộc thi tìm hiểu về các chủ đề về Lịch sử địa phương như: văn hoá các dân tộc,
các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, danh nhân địa phương...Tuy nhiên,
muốn đạt được hiệu quả cao trong các nội dung này, giáo viên phải có sự chuẩn
bị chu đáo về hệ thống câu hỏi, về những nội dung cần thiết cho các buổi ngoại
khoá để thu hút sự quan tâm, chú ý và tham gia của học sinh.
+ Có thể lập các nhóm sưu tầm các nội dung về Lịch sử địa phương ở tại
xóm, xã, địa phương đang sinh sống. Đây là việc làm lâu dài, cần đầu tư nhiều
cơng sức và phải có những bước đi hết sức cụ thể. Nếu tổ chức tốt, học sinh có
thể làm quen được với cơng việc rất có ý nghĩa này và hình thành được một số
kỹ năng cần thiết cho cuộc sống sau này của các em: tự tin, chủ động, sáng
tạo...Bước đầu có thể cho các em viết tiểu sử, sưu tầm các kỷ vật, các câu
chuyện của các anh hùng, liệt sĩ, các cựu chiến binh của quê hương mình...
Dạy học lịch sử địa phương Quảng Bình cho học sinh các cấp nếu được tổ
chức tốt sẽ góp phần giáo dục lịng tự hào về quê hương tỉnh nhà cho học sinh.
Cho nên những thành tựu trong chiến đấu và xây dựng ở địa phương Quảng
Bình chúng ta phải làm cho học sinh thấy rõ nó cũng có ảnh hưởng đến sự thắng
lợi của cách mạng cả nước. Sự hy sinh anh dũng của con em địa phương chúng
ta trong sự nghiệp giữ nước cũng đã góp phần giáo dục truyền thống tốt đẹp của
cha ông cho thế hệ trẻ tỉnh nhà hiện tại và mai sau.

9


Phần III. MỘT SỐ BÀI SOẠN MINH HỌA
LỚP 6
Tiết 32
VÙNG ĐẤT “ĐỊA LINH NHÂN KIỆT” VÀ TÍNH CÁCH CON NGƯỜI
QUẢNG BÌNH
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
- Giúp học sinh hiểu: Vùng đất Quảng Bình là dải đất hẹp, có cảnh quan
đa dạng: sông, núi, biển, rừng. Đặc điểm tự nhiên đã tác động lớn đến điều kiện
sống của con người, làm nảy sinh những tuấn kiệt danh nhân.
- Những danh nhân tiêu biểu của Quảng Bình.
- Những nét tính cách của con người Quảng Bình và những nhân tố góp
phần tạo dựng nên điểm riêng biệt trong tính cách con người Quảng Bình.
- Giáo dục tình u, lịng tự hào về truyền thống của quê hương.
II. NHỮNG ĐIỀU CẦN LƯU Ý
- Cần giải thích cho HS hiểu thế nào là “địa linh nhân kiệt”.
- Mục 1 viết rất khái quát về tự nhiên Quảng Bình, giáo viên cần tham
khảo thêm về địa lí Quảng Bình để vận dụng vào bài giảng.
- Mục 2 điểm qua các danh nhân để HS có cái nhìn khái quát, nhưng cần
làm rõ một vài danh nhân để tạo điểm nhấn cho bài học.
III. THIẾT BỊ, TÀI LIỆU DẠY HỌC
- Tài liệu giáo dục địa phương Quảng Bình.
- Bản đồ Quảng Bình.
- Tranh ảnh, tài liệu tham khảo về danh lam thắng cảnh, các nhân vật lịch sử.
IV. GỢI Ý TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC
Mục 1. Quảng Bình - vùng đất “địa linh nhân kiệt”
10



- Giáo viên dùng bản đồ, tranh ảnh để giới thiệu với học sinh về Quảng Bình:
+ Quảng Bình là một dải đất hẹp ở miền Trung, có cảnh quan đa dạng:
núi, sông, rừng, biển, đồng bằng…
+ Thiên nhiên ban tặng cho Quảng Bình nhiều danh lam thắng cảnh: động
Phong Nha, động Tiên Sơn, động Thiên Đường, đèo Ngang, cửa biển Nhật Lệ,
núi Thần Đinh...
+ Đây là vùng đất sản sinh nhiều tuấn kiệt, danh nhân.
- Từ bài giảng, giúp học sinh có khái niệm về “địa linh nhân kiệt”.
- GV lưu ý giải thích cho học sinh nắm rõ một số địa danh:
+ Núi Phượng thuộc dãy Hoành Sơn (Đèo Ngang), phía bắc Quảng Bình.
+ Núi Đâu Mâu ở Lệ Thuỷ
+ Núi Cẩm Li phía nam Lệ Thuỷ giáp ranh với Quảng Ninh.
+ Động Phong Nha, động Thiên Đường, động Tiên Sơn: Hệ thống hang
động ở xã Sơn Trạch, Bố Trạch.
+ Sơng Loan tức sơng Rn (Quảng Trạch).
+ Sơng Bình Giang tức sơng Kiến Giang (Lệ Thuỷ).
+ Sơng Linh Giang tức sông Gianh.
+ Phá Hạc Hải (Lệ Thuỷ).
Mục 2. Nhân kiệt trên vùng đất Quảng Bình
- Giáo viên tập trung làm rõ các ý sau:
+ Nhân kiệt trên vùng đất Quảng Bình gắn với truyền thống học hành,
khoa bảng và những thành cơng trong sự nghiệp phị vua giúp nước.
+ Quảng Bình là vùng đất xa xơi phía cực nam của Đại Việt nên việc học
hành không thuận lợi như các vùng đất gần kinh kì. Tuy vậy, đến thế kỉ XIII,
học hành, khoa cử đã khá phát triển.
+ Trương Xán là người mở đầu cho truyền thống học hành, đỗ đạt cao của
11



vùng đất Quảng Bình. Từ đó có rất nhiều người học hành đỗ đạt như Trần
Nguyên Diễn, Dương Văn An, Phạm Khắc Hoan, Hoàng Thương Xá… Đặc biệt
ở thời nhà Nguyễn, Quảng Bình có số lượng người đỗ học vị Tiến sĩ khá đông
(24 người).
+ Nhiều người làm quan đến chức Thượng thư như Nguyễn Thế Trực,
Nguyễn Viết Tuấn (thời Tây Sơn); làm thầy dạy học cho vua như Nguyễn Đăng
Tuấn, Nguyễn Hàm Ninh… đặc biệt Vũ Xuân Cẩn làm quan trải 4 đời vua, được
phong là “Tứ triều nguyên lão”.
+ Thời hiện đại, Võ Nguyên Giáp là một trong những danh tướng xuất sắc
nhất thế giới trong thế kỉ XX.
+ Tám làng có truyền thống hiếu học và có nhiều người đỗ đạt, được dân
gian truyền tụng là “Bát danh hương” gồm: Sơn - Hà - Cảnh - Thổ - Văn - Võ Cổ - Kim.
Mục 3. Con người Quảng Bình và những nét tính cách riêng
- Giáo viên cần làm rõ 3 yếu tố góp phần tạo nên nét tính cách của con
người Quảng Bình:
+ Yếu tố tự nhiên: Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt (bão lụt, nắng nóng, gió
phơn…) địi hỏi con người khơng ngừng sáng tạo, vượt khó vươn lên tạo dựng
cuộc sống.
+ Yếu tố văn hoá: Là nơi hội tụ, giao thoa của các nền văn hố bản địa và
văn hố khu vực…, vì vậy đã hình thành những tinh hoa văn hố độc đáo.
+ Yếu tố lịch sử: Là vùng đất thường diễn ra các cuộc giao tranh, hỗn
chiến của các thế lực phong kiến,... làm con người ln phải có cách ứng xử hợp
lí, bao dung,…
- Kết luận chung về tính cách con người Quảng Bình: yêu nước, anh dũng
bất khuất trong đấu tranh chống ngoại xâm; cần cù, sáng tạo, chịu khó trong lao
động sản xuất; cương trực, giản dị, bao dung trong đời thường…

12



V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiến sĩ Dương Văn An
Dương Văn An người làng Tuy Lộc, xã Lộc Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ. Về gia
đình và tuổi trẻ của Dương Văn An hiện chưa có tư liệu đầy đủ. Chỉ biết ông
sinh khoảng năm 1514. Lớn lên và học tập Nho học ngay tại quê nhà. Năm
1547, ông đi thi và đỗ Tiến sĩ, sau đó được nhà Mạc bổ làm quan. Theo tài liệu
còn lưu giữ được, Dương Văn An làm quan đến chức cao nhất là Thượng thư
(nhưng không rõ bộ nào), tước Sùng Nham hầu. Khi ông mất được triều đình
truy phong tước Tuấn Quận cơng.
Tác phẩm duy nhất mà Dương Văn An để lại đó là Ơ châu cận lục. Đây là
tập sách đầu tiên viết về vùng đất Quảng Bình gồm cả địa lí, con người, phong
tục… Tập sách tuy không dày nhưng để lại những nguồn tư liệu quý để thế hệ
sau này tra cứu, tìm hiểu.
(Lược theo: Danh nhân văn hố Quảng Bình, tập 1, Nxb Thuận Hoá, 1993)
2. Đề đốc Lê Trực
Lê Trực (1828 - 1919) còn gọi là Lê Văn Trực, người xã Thanh Thuỷ,
tổng Thuận Lễ, huyện Bình Chính, phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình (nay là
xã Tiến Hố, huyện Tun Hố, Quảng Bình).
Sinh ra trong một gia đình nghèo khó, lại mồ côi cha từ khi 5 tuổi nên ông
sớm bắt đầu một cuộc sống lam lũ, cuốc mướn cày thuê. Tuy vậy, ông được trời
phú cho sức khoẻ phi thường và rất giỏi đấu vật. Năm 28 tuổi, ông thi đỗ Cử
nhân võ, được cho vào học tập ở Võ Học đường. Năm 1859, ơng qua được kì sát
hạch và tham gia thi Hội đỗ thứ nhì, thi Đình đỗ thứ ba nên được ban chức danh
Đệ Tam giáp võ Tiến sĩ xuất thân, sung vào hàng võ quan tại triều đình Huế.
Năm 1860, khi thực dân Pháp mở rộng đánh chiếm Nam Kì ơng giữ chức
Chánh Hiệp quản Thanh Hố, sau đó làm Chánh Lãnh binh ở Lạng Sơn. Năm
1873, ông được giữ chức Đề đốc thành Hà Nội. Ơng đã cùng với Tổng đốc
Hồng Diệu ra sức xây dựng, củng cố khả năng phòng thủ của thành Hà Nội.
13



Ngày 25 - 4 - 1882, quân đội dưới sự chỉ huy của Tổng đốc Hoàng Diệu đã
chiến đấu rất anh dũng chống lại cuộc tấn công thành lần thứ hai của Pháp
nhưng khơng giữ được thành. Tổng đốc Hồng Diệu tự sát, Lê Trực bị cách
chức đuổi về quê sống một cảnh đời bất đắc chí.
Tháng 7 - 1885, vua Hàm Nghi kêu gọi “Cần vương”, dù đã già nhưng Lê
Trực vẫn hăng hái chiêu nạp nghĩa sĩ, xây dựng đồn trại, lập căn cứ chống Pháp
ở núi Chóp Chài (Tuyên Hoá). Nghĩa quân Lê Trực hoạt động trên một địa bàn
khá rộng từ Quảng Trạch đến Tuyên Hoá với phương thức đánh du kích, mai
phục chặn đánh các đồn xe, tập kích đồn Pháp... Ơng cịn liên kết với các lực
lượng nghĩa quân khác của Mai Lượng, Lê Mơ Khởi, Hồng Phúc, Đề Én, Đề
Chít… để tổ chức các cuộc vây thành Đồng Hới, đánh trận Diêm Trường, Lâm
Xuân (Quảng Trạch), trận Hạ Trang (Tuyên Hoá)… Nghĩa quân của Lê Trực
cũng tổ chức nhiều trận đánh bảo vệ “Triều đình Hàm Nghi” vượt qua sự truy
lùng ráo riết của quân Pháp.
Năm 1888, vua Hàm Nghi bị thực dân Pháp bắt. Phong trào Cần vương ở
Quảng Bình lâm vào tình thế khó khăn. Trong hồn cảnh đó, Lê Trực đã thối
chí ra hàng qn Pháp. Tuy thực dân Pháp ra sức dụ dỗ ông hợp tác nhưng ông
đã nhất mực từ chối. Việc ơng thối chí, khơng cùng dân tộc đi hết con đường
chống Pháp là một kết thúc buồn của một đời làm võ quan hết lịng vì “nghĩa
quân thần - đạo vua tôi” của ông. Tuy vậy, những gì ơng đã làm rất đáng được
hậu thế trân trọng.
(Lược theo: Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về danh nhân Quảng Bình, 7
- 2013)
3. Vũ Xuân Cẩn
Vũ Xuân Cẩn người làng Hoà Luật Nam, nay thuộc xã Cam Thuỷ, huyện
Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình. Ơng sinh ra trong một gia đình có truyền thống học
hành, đỗ đạt. Thuở nhỏ ơng là người tính tình hiền hậu, thơng minh và có chí
đèn sách. Ơng đã từng đi thi và đỗ Cống sĩ (ngang với Cử nhân) nhưng không ra
làm quan. Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, lập ra triều Nguyễn và mời Vũ

14


Xuân Cẩn vào làm ở Viện Hàn lâm.
Trong 50 năm làm quan, trải 4 đời vua (Từ Gia Long đến Minh Mạng,
Thiệu Trị, Tự Đức), ông đã giữ nhiều chức vụ ở địa phương (Tham biện hiệp
trấn Hưng Hoá, Sơn Nam, Hồi Đức, Thị lang biện lí Bắc Thành, Tổng đốc tỉnh
Bình - Phú…) và nhiều chức vụ quan trọng bậc nhất trong triều (Thượng thư bộ
Hình, Thượng thư bộ Công, Hàm Lâm viện học sĩ, Đông các Đại học sĩ, Tổng
tài Quốc sử quán…).
Là người có học vấn uyên thâm, tính tình cương trực, thẳng thắn, thương
dân nên dù ở cương vị nào ông cũng tận tụy với công việc, có khả năng hộ quốc
an dân, ln vì việc nghĩa. Năm 1852, Vũ Xuân Cẩn cáo quan về quê dưỡng
lão. Dù rất luyến tiếc nhưng vua Tự Đức cũng y cho. Tháng 4 - 1852, Vũ Xuân
Cẩn mất. Vua thương tiếc lắm nên đã ban cho tên thụy là Văn Đoan, cấp vàng
lụa, sửa việc quan tang, cử phái đồn triều đình đến tế. Tháng 7 - 1852, vua sai
người đem bài minh do vua làm khắc vào bia đá dựng chỗ đầu làng để ghi nhận
công lao của Vũ Xn Cẩn với triều đình. Bài minh có nhan đề “Tứ triều ngun
lão” - Ơng lão có đức vọng lớn ở bốn triều.
(Lược theo: Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về danh nhân Quảng
Bình, 7 - 2013)

15


Lớp 7
Tiết 65
QUẢNG BÌNH TỪ THỜI TRỊNH - NGUYỄN PHÂN TRANH ĐẾN THỜI
ĐẠI QUANG TRUNG
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC

- Học sinh nắm được: Thế kỉ XVII, Đại Việt nằm trong tình trạng nội chiến
kéo dài giữa hai tập đồn Lê - Trịnh và Nguyễn, Quảng Bình là chiến trường chính
của các cuộc giao tranh. Đời sống nhân dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
- Khi phong trào Tây Sơn nổ ra, nhân dân Quảng Bình đã tích cực góp
phần vào cuộc đấu tranh thống nhất đất nước và cuộc kháng chiến chống quân
Thanh xâm lược.
- Giáo dục tinh thần yêu chuộng hồ bình, ý thức về độc lập dân tộc ln
gắn liền với thống nhất đất nước.
II. NHỮNG ĐIỀU CẦN LƯU Ý
- Bài học này gắn với những nội dung của lịch sử dân tộc trong các thế kỉ
XVII, XVIII. Vì vậy, giáo viên phải liên hệ, gợi nhớ cho học sinh những kiến
thức đã được học để hiểu được lịch sử Quảng Bình trong bối cảnh đó.
- Giáo viên có thể giao nhiệm vụ để học sinh tìm hiểu trước về luỹ Thầy,
về Đào Duy Từ…
III. THIẾT BỊ, TÀI LIỆU DẠY HỌC
- Tranh ảnh về hệ thống luỹ Thầy.
- Tư liệu về các cuộc giao tranh Trịnh - Nguyễn.
IV. GỢI Ý TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC
Mục 1. Chiến trường chính của cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn
Giáo viên nhắc qua tình hình nước ta ở thế kỉ XVI, XVII và sự hình thành
hai tập đồn phong kiến Lê - Trịnh và Nguyễn. Sau đó đưa ra các câu hỏi:
16


- Chúa Nguyễn đã làm gì để chống lại sự xâm nhập của quân đội Lê Trịnh ở mặt Bắc?
Họ Nguyễn nhờ vào sự giúp đỡ của Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật, sự
đóng góp của quân dân đã xây dựng các tuyến phòng thủ kiên cố như luỹ
Trường Dục, luỹ Động Hải, luỹ Trấn Ninh,… để trấn giữ mặt Bắc.
- Vị trí của Quảng Bình trong cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn? Hậu
quả?

+ Trong suốt nửa thế kỉ (1627 - 1672), hai thế lực Trịnh - Nguyễn giao
tranh ác liệt (diễn ra 7 cuộc giao tranh lớn). Quảng Bình là nơi trực tiếp diễn ra
chiến sự ác liệt.
+ Năm 1672, do không phân được thắng bại, hai bên đành lấy Linh Giang
(sông Gianh) làm giới tuyến chia cắt đất nước. Phía bắc sơng Gianh gọi là Đàng
Ngồi do chính quyền Lê - Trịnh cai quản, phía nam gọi là Đàng Trong thuộc
quyền quản lí của chúa Nguyễn.
+ Hậu quả: Chiến tranh đã làm cho đời sống nhân dân điêu đứng, khốn
khổ, chết chóc, li loạn. Tình cảnh nồi da xáo thịt trở thành nỗi niềm đau đáu của
nhân dân. Vì vậy, người dân Quảng Bình có thơ rằng:
Sơng Gianh nước chảy đơi dịng
Đèn chong đơi ngọn, biết trơng ngọn nào?
Mục 2. Đấu tranh chống áp bức, thống nhất đất nước
Giáo viên giới thiệu qua về tình hình nước ta ở thế kỉ XVIII và sự bùng nổ
của phong trào nơng dân Tây Sơn. Sau đó hướng dẫn HS trả lời các câu hỏi:
Nhân dân Quảng Bình đã có những đóng góp gì trong cuộc đấu tranh thống
nhất đất nước?
- Năm 1774, quân Trịnh vượt sông Gianh lần lượt chiếm Bố Chính, Thuận
Hố. Năm 1777, nhân dân hai huyện Khang Lộc, Lệ Thuỷ nổi dậy chống ách thống
trị của họ Trịnh, làm cho quân Trịnh hoảng sợ bỏ chạy. Chúa Trịnh sai quân đàn áp
cuộc khởi nghĩa, song nhân dân vẫn khơng ngi chí khí đấu tranh.
17


- Năm 1786, Nguyễn Huệ chỉ huy một đạo quân tiến ra Bắc tiêu diệt thế
lực quân Trịnh. Chỉ trong vòng 10 ngày của tháng 6 - 1786, nhân dân Bố Chính
đã nổi dậy phối hợp với nghĩa quân đánh tan 3 vạn qn Trịnh trên phịng tuyến
sơng Gianh.
Mục 3. Đấu tranh chống quân Thanh xâm lược. Chung tay xây dựng
đất nước

Bằng phương pháp đàm thoại, giáo viên giúp học sinh giải quyết các câu
hỏi sau:
- Tình hình nước ta vào cuối 1788 như thế nào?
Cuối năm 1788, 29 vạn quân Thanh tràn sang xâm lược nước ta. Từ Phú
Xuân, Nguyễn Huệ lên ngơi hồng đế, lấy hiệu là Quang Trung rồi tiến quân ra
Bắc chống quân xâm lược.
- Nhân dân Quảng Bình đã có đóng góp gì trong cuộc kháng chiến chống
Thanh xâm lược?
+ Tham gia nghĩa quân để giết giặc, cứu nước.
+ Nhân dân hai bờ sông Gianh cung cấp lương thực, thuyền mảng để quân
Tây Sơn vượt sơng Gianh, Rn tiến qn ra Bắc…
- Tình hình Quảng Bình sau khi giải phóng được đất nước như thế nào?
+ Nhân dân châu Thuận Chính (Bố Chính) sau nhiều năm phiêu bạt, nay
trở về quê hương yên ổn làm ăn. Sản xuất nông nghiệp và các nghề thủ công
được phục hồi và phát triển, các chợ buôn bán trở nên tấp nập.
+ Các trường tư được dựng lại thu hút con em học tập.
+ Nhiều người Quảng Bình tích tham gia bộ máy chính quyền Tây Sơn
như Thượng thư Nguyễn Thế Trực (người Lệ Thuỷ), Tư vụ Bộ Hộ Nguyễn Viết
Tuấn (người Quảng Ninh)...
Như vậy, nhân dân Quảng Bình đã có sự đóng góp đáng kể vào cơng cuộc
thống nhất và xây dựng đất nước thời Tây Sơn - Quang Trung.
18


V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Những chiến luỹ được các chúa Nguyễn xây dựng trên đất Quảng
Bình
- Năm 1630, xây xong luỹ Trường Dục, bắt đầu từ làng Trường Dục dưới
chân núi Trường Sơn chạy đến phá Hạc Hải.
- Năm 1631, đắp xong luỹ Động Hải (Luỹ Nhật Lệ), từ cửa biển Nhật Lệ

lên đến núi Đâu Mâu.
- Năm 1633, đắp luỹ Trường Sa trên một vùng cát trắng phía nam cửa
Nhật Lệ.
- Năm 1634, đắp luỹ An Náu, từ Đèo Heo xuống đến cửa An Náu xã
Nhân Trạch (Bố Trạch).
- Năm 1662, đắp luỹ Trấn Ninh tại làng Trấn Ninh thuộc Đồng Phú (Đồng
Hới).
2. Vài nét về thân thế và sự nghiệp Đào Duy Từ
Đào Duy Từ người làng Hoa Trai, xã Vân Trai, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh
Hoá. Cha của ơng vốn là lính Cấm vệ trong triều, vì phạm tội mà bị đuổi nên đã
theo nghiệp xướng ca để kiếm sống. Khi Đào Duy Từ được năm tuổi thì cha
mất. Người mẹ gố ở vậy quyết tâm nuôi con ăn học.
Đào Duy Từ thuở nhỏ đã nổi tiếng thơng minh, học giỏi. Nhưng vì là con
của kẻ hát xướng nên không được dự thi. Mẹ của ông xót tài học của con nên đã
lo lót để đổi họ cho con từ họ Đào qua họ mẹ là Vũ. Khoa thi Hương năm 1593,
ông đi thi và đỗ thứ hai. Nhưng đến khi thi Hội thì sự việc bị phát giác và Đào
Duy Từ bị xoá tên, huỷ kết quả thi. Lúc này Nguyễn Hoàng đang ở Bắc Hà giúp
vua Lê chúa Trịnh diệt dư đảng nhà Mạc. Qua một người bạn, Nguyễn Hoàng
được biết tài học của Đào Duy Từ nên đã hẹn mời Đào Duy Từ vào Nam phò
giúp họ Nguyễn, nhưng do sợ lộ cơ mưu nên Nguyễn Hồng khơng dám đón
ngay mà vào Nam trước.
Sau một thời gian, Đào Duy Từ tìm cách trốn vào Nam theo chúa
19


Nguyễn. Khi vào Nam, Nguyễn Hồng đã chết, cịn chúa Nguyễn Phúc Ngun
đã đi kinh lí nơi xa nên ơng đành phải đi ở, chăn trâu cho một phú hộ ở Hồi
Nhơn, Bình Định để chờ thời. Làm kẻ đi ở nhưng thỉnh thoảng khi có điều kiện
ơng cũng đối đáp văn chương thơ phú với con trai của phú hộ. Tiếng tăm một
người chăn trâu nhưng rất giỏi thơ văn dần lan rộng. Khám lí Trần Đức Hồ là

anh em kết nghĩa với chúa Nguyễn nghe tiếng mời đến gặp mặt, đàm đạo văn
chương, thế sự. Yêu mến tài năng của Đào Duy Từ, ông đã giữ Đào Duy Từ ở
lại phủ, gả con gái cho và tìm cách tiến cử lên chúa Nguyễn Phúc Nguyên.
Đào Duy Từ phụng sự chúa Nguyễn chỉ được 8 năm cuối đời nhưng đã
được đánh giá rất cao, là người đứng đầu trong hàng khai quốc cơng thần. Ơng
đã vạch ra được kế sách quân sự quan trọng, đối phó có hiệu quả với Đàng
Ngồi. Làm cho lực lượng chúa Nguyễn nhanh chóng hùng mạnh, làm nên
nghiệp bá ở cõi Nam.
(Lược theo: Danh nhân Bình Trị Thiên, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1986)

20



×