Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Sử dụng đồ dùng trực quan nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong dạy học chương việt nam từ thế kỷ xvi đến thế kỷ xviii

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 103 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM


NGUYỄN THỊ VUI

SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN NHẰM PHÁT
HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG: “VIỆT NAM TỪ
THẾ KỶ XVI ĐẾN THẾ KỶ XVIII”
(SGK lớp 10 - THPT - cơ bản)

Thái Nguyên, năm 2012


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM


NGUYỄN THỊ VUI

SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN NHẰM PHÁT
HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG: “VIỆT NAM TỪ
THẾ KỶ XVI ĐẾN THẾ KỶ XVIII”
(SGK lớp 10 - THPT - cơ bản)

TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

NGÀNH: LỊCH SỬ


Người hướng dẫn khoa học: Th.s Âu Đình Viên

Thái Nguyên, năm 2012

i


MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ..........................................................................................................................i

Mục lục
ii
Danh mục từ viết tắt iii
MỞ ĐẦU 4
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG
TRỰC QUAN NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC
SINH 10
1.1. Cơ sở lý luận dạy học phát huy tính tích cực học tập của học sinh
10
1.1.1 Các loại đồ dùng trực quan và ý nghĩa việc sử dụng đồ dùng trực
quan trong dạy học lịch sử 10
1.1.2.Vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong dạy học
lịch sử 17
1.2. Cơ sở thực tiễn 23
1.2.1. Thực trạng của việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay
23
1.2.2. Nguyên nhân 25
Chương 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH

TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG: “VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN
THẾ KỶ XVIII” (SGK LỚP 10-THPT-CƠ BẢN) 27
2.1. Nội dung cơ bản của chương 27
2.1.1. Vị trí của chương
27
2.1.2. Nội dung cơ bản
28
2.2. Một số biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan nhằm phát huy tính
tích cực học tập của học sinh trong dạy học chương: “Việt Nam
từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII” (SGK lớp 10- THPT- cơ bản)
34
2.2.1. Đồ dùng trực quan với việc phát huy tính tích cực học tập của
học sinh trong bài nghiên cứu kiến thức mới
34
2.2.2. Sử dụng đồ dùng trực quan trong củng cố, ôn tâp, kiểm tra
49

ii


2.2.3. Sử dụng đồ dùng trực quan trong hoạt động ngoại khố nhằm phát huy
tính tích cực học tập của học sinh………………………………………………….59
KẾT LUẬN 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO

iii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


Stt

Từ viết tắt

Nội dung

1.

CNH - HĐH

Công nghiệp hố - hiện đại hố

2.

CNTT

Cơng nghệ thơng tin

3.

DHLS

Dạy học lịch sử

4.

GD - ĐT

Giáo dục - đào tạo


5.

ĐDTQ

Đồ dùng trực quan

6.

ĐHQG

Đại học quốc gia

7.

ĐHSP

Đại học sư phạm

8.

KHKT

Khoa học kỹ thuật

9.

KT- XH

Kinh tế- xã hội


10.

PPDH

Phương pháp dạy học

11.

PPDHLS

Phương pháp dạy học lịch sử

12.

THCS

Trung học cơ sở

13.

THPT

Trung học phổ thông

14.

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Hiện nay, nước ta đang trên con đường đổi mới và phát triển đất nước theo
định hướng XHCN, con người trở thành động lực quan trọng thúc đẩy KT- XH phát
triển. Do đó, cùng với các môn học khác, bộ môn lịch sử ở trường phổ thơng có vai
trị quan trọng trong việc phát triển thế hệ trẻ một cách tồn diện. Nó khơng chỉ cung
cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản của khoa học lịch sử, bồi dưỡng các kỹ
năng tư duy thực hành mà cịn có tác dụng giáo dục tư tưởng chính trị, phẩm chất
đạo đức cho học sinh như: lịng u nước, u CNXH… Chương trình giáo dục phổ
thông (ban hành 5/2006) đã xác định:
Môn lịch sử ở trường phổ thơng nhằm giúp cho học sinh có được
những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần
hình thành cho học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất
nước, truyền thống dân tộc cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy hành động,
thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội.
Do đó, Đảng và nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp GD - ĐT,
coi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Tuy nhiên, trong những năm qua, thực trạng dạy học nói chung và DHLS nói
riêng cịn nhiều bất cập và chưa được quan tâm đúng mức, tình trạng “dạy chay” cịn
phổ biến, quan niệm khơng đúng về “mơn chính- mơn phụ”, PPDH vẫn theo lối “thầy
đọc- trị ghi” một cách thụ động… Do đó, khơng phát huy được tính tích cực của học
sinh trong học tập lịch sử, tình trạng nhớ nhầm sự kiện, khơng hiểu lịch sử, học lệchhọc tủ thường xuyên diễn ra… tạo nên thái độ “bất công” với các môn học.
Từ thực trạng trên, yêu cầu bức thiết được đặt ra là phải có sự đổi mới trong
PPDHLS nhằm phát huy tính tích cực học tập và năng lực tư duy sáng tạo của học
sinh, một trong những biện pháp đó là sử dụng ĐDTQ trong DHLS.
Việc sử dụng ĐDTQ sẽ tạo hứng thú học tập cho học sinh, góp phần cụ thể
hóa sự kiện và khắc phục tình trạng “hiện đại hóa” lịch sử của học sinh. “Nó là chỗ

dựa để hiểu biết sâu sắc bản chất sự kiện lịch sử, là phương tiện có hiệu lực để trình
bày khái niệm lịch sử, giúp học sinh nắm vững các quy luật của sự phát triển xã
4


hội”. Qua đó, phát triển khả năng quan sát, tư duy và ngôn ngữ của học sinh, giáo
dục tư tưởng, cảm xúc, thẩm mỹ cho học sinh.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tôi chọn đề tài: “Sử dụng ĐDTQ
nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong dạy học chương: “Việt
Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII” (SGK lớp `10- THPT- cơ bản)” làm khóa
luận tốt nghiệp. Do bản thân mới bước đầu được làm quen với việc nghiên cứu đề
tài khoa học, trình độ bản thân và thời gian nghiên cứu có hạn nên khơng tránh khỏi
những thiếu sót. Tơi mong nhận được sự chỉ bảo của thầy cơ, ý kiến đóng góp của
các bạn để khóa luận được đầy đủ và hồn thiện hơn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Trong thời đại ngày nay, nhân tố quan trọng để phát triển đất nước là phát
huy nguồn nhân lực nên GD - ĐT có vai trị quan trọng nhằm đào tạo thế hệ trẻ
thành “người lao động làm chủ nước nhà”. Trong quá trình đào tạo này, lịch sử trở
thành một bộ phận khơng thể thiếu. Do đó, việc DHLS nhằm phát huy tính tích cực
trong học tập của học sinh đang là bài tốn khó đặt ra cho các nhà giáo dục lịch sử
và việc sử dụng ĐDTQ trong DHLS được coi là một trong những biện pháp hữu
hiệu và đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu từ
rất sớm.
- Ở nước ngoài (mà nhất là Liên Xơ trước đây): nhiều cơng trình, nhiều tác
phẩm đề cập đến việc sử dụng ĐDTQ trong DHLS đã được các nhà giáo dục, các
nhà PPDHLS nghiên cứu.
Tiến sĩ N.G.Dairi trong tác phẩm: “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào?”,
trong khi nghiên cứu quá trình chuẩn bị và các bước tiến hành bài học lịch sử ở
trường phổ thông, ông đề cập đến việc sử dụng ĐDTQ sao cho phù hợp với nội dung
bài học, khai thác triệt để nội dung ĐDTQ như là một nguồn nhận thức để tạo hứng

thú học tập cho học sinh và nâng tầm hiểu biết của các em lên một trình độ mới.
Tác giả I.F.Khalamop đã trình bày trong cuốn “Phát huy tính tích cực học
tập của học sinh như thế nào?” về một số vấn đề lý luận và nêu kinh nghiệm cụ thể
về vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Tác giả rất quan tâm đến
“tính trực quan” của q trình nhận thức. Theo ơng, lời nói sinh động của giáo viên
5


kết hợp với tính trực quan có hiệu quả to lớn trong việc dạy học. Ngồi ra, ơng cịn
đề cập đến những biện pháp nhằm kích thích hoạt động nhận thức của học sinh.
Trong cuốn “Phát triển tư duy học sinh”, tác giả M.Alecxeep khẳng định: để
phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh thì việc sử dụng ĐDTQ cùng với
lời nói sinh động, hấp dẫn sẽ góp phần khơng nhỏ vào việc gây hứng thú học tập và
nâng cao chất lượng dạy học.
Tác giả Usinxki cũng khẳng định: “chính nhờ trực quan mà hình ảnh thu
nhận được gắn chặt trong trí nhớ học sinh” trong tác phẩm “Dạy học nêu vấn đề”.
- Ở trong nước: cũng có nhiều cơng trình, chun đề nghiên cứu về vấn đề này.
Nhóm tác giả Phan Ngọc Liên, Nguyễn Thị Cơi, Trịnh Đình Tùng trong
cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử” đã trang bị cho người học những kiến thức về
lý luận và thực tiễn về PPDHLS trong đó có các biện pháp sư phạm cụ thể về việc
sử dụng ĐDTQ và ý nghĩa giáo dưỡng - giáo dục - phát triển của nó trong DHLS.
Trong cuốn: “Phát huy tính tích cực của học sinh trong DHLS ở trường
THCS” của Phan Ngọc Liên - Trịnh Đình Tùng đã khẳng định:
ĐDTQ được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan,
sẽ kết hợp chặt chẽ được hai hệ thống tín hiệu với nhau: tai nghe - mắt thấy, tạo điều
kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được những mối liên hệ thần kinh tạm thời
khá phong phú, phát triển ở học sinh năng lực chú ý quan sát, hứng thú học tập.
Cuốn “Kênh hình trong DHLS ở trường THPT” của tiến sĩ Nguyễn Thị Côi
đề cập đến vị trí, vai trị của ĐDTQ trong DHLS nhằm phát huy tính tích cực học
tập của học sinh. Trên cơ sở đó, tác giả nêu ra các biện pháp sư phạm trong sử dụng

ĐDTQ ở mỗi bài cụ thể.
Trong cuốn “Đổi mới PPDHLS lấy học sinh làm trung tâm” của trường
ĐHSP- ĐHQG Hà Nội đã nêu lên tầm quan trọng của việc sử dụng ĐDTQ: “Những
tài liệu trực quan có hiệu quả cao trong DHLS… phát huy tối đa năng lực tư duy độc
lập của học sinh, làm cho các em hứng thú, hiệu quả bài học cao”.
Tác giả Dương Trung Quốc khẳng định: “Tranh ảnh có vai trò to lớn trong
việc lưu giữ hiện thực lịch sử, là nguồn sử liệu cho chúng ta hôm nay và cho cả thế

6


hệ mai sau nữa” thông qua bài: “Ảnh- một nguồn sử liệu cần được khai thác trong
nghiên cứu, giảng dạy và truyền bá lịch sử”.
Tác phẩm “Tài liệu bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên THPT về đổi
mới PPDH môn lịch sử”(8/2005) của các tác giả Đỗ Hồng Thái, Nguyễn Thị
Hương Canh, Ngô Văn Thành đã tập trung nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn
của việc đổi mới PPDH ở trường THPT hiện nay. Qua đó, đề ra một số biện pháp sư
phạm nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn trong trường phổ thông và khẳng định:
“Sử dụng ĐDTQ kết hợp lời nói sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn người nghe là một
trong những biện pháp nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh”.
Như vậy, có thể thấy các nhà nghiên cứu trong và ngồi nước đều khẳng định
vai trị quan trọng của việc sử dụng ĐDTQ trong DHLS. Những cơng trình trên là
nguồn tài liệu tham khảo qúy báu để tác giả thực hiện đề tài. Tuy nhiên, chưa có
cơng trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề: “Sử dụng ĐDTQ nhằm phát huy tính
tích cực học tập của học sinh trong dạy học chương: “Việt Nam từ thế kỷ XVI
đến thế kỷ XVIII” (SGK lớp 10 – THPT - cơ bản)”. Vì vậy, khóa luận tập trung giải
quyết vấn đề này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề phát huy tính tích cực của học sinh

trong dạy học lịch sử chương: “Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII” (SGK lớp
10 – THPT - cơ bản).
- Phạm vi nghiên cứu:
Khóa luận tập trung nghiên cứu việc sử dụng ĐDTQ nhằm phát huy tính tích
cực học tập của học sinh trong dạy học chương: “Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ
XVIII” (SGK lớp 10 – THPT - cơ bản).
4. Nhiệm vụ của đề tài.
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng ĐDTQ trong DHLS nhằm
phát huy tính tích cực học tập của học sinh.

7


Tìm hiểu nội dung chương trình SGK để lựa chọn ĐDTQ cho phù hợp trong
việc dạy học chương: “Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII” (SGK lớp 10 –
THPT - cơ bản).
5. Phương pháp nghiên cứu.
- Lý luận: kết hợp giữa phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
Tác giả dựa trên các loại tài liệu tâm lý học, giáo dục học, PPDH bộ môn, các
tài liệu văn kiện Đảng, tạp chí nghiên cứu khoa học, tài liệu lịch sử phục vụ thiết
yếu cho việc DHLS “Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII” (SGK lớp 10 –
THPT - cơ bản).
- Thực tiễn:
Thông qua các biện pháp điều tra cơ bản về thực trạng DHLS ở trường phổ
thông và vấn đề sử dụng ĐDTQ trong DHLS, cụ thể:
Đối với học sinh: điều tra tình hình học tập môn lịch sử thông qua sổ đầu bài,
kiểm tra miệng, viết, trắc nghiệm…
Đối với giáo viên: trực tiếp trao đổi, dự giờ… để tìm hiểu tình hình giảng dạy
môn lịch sử, quan niệm của giáo viên về việc sử dụng ĐDTQ nhằm phát huy tính
tích cực học tập của học sinh.

6. Ý nghĩa của đề tài.
Trước hết, đề tài được hồn thiện sẽ góp phần nâng cao trình độ lý luận dạy
học bộ môn ở trường phổ thông.
Khẳng định vị trí, ý nghĩa của việc sử dụng ĐDTQ nhằm phát huy tính tích
cực học tập lịch sử cho học sinh.
Đề tài được ứng dụng trong trường phổ thông sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả DHLS nói chung và phần lịch sử “Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII”
nói riêng.
Trong một chừng mực nhất định, có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên
trong học tập và nghiên cứu bộ môn PPDHLS.

8


7. Giả thuyết khoa học.
Trên thực tế, việc DHLS có nhiều phương pháp khác nhau trong đó có
phương pháp sử dụng ĐDTQ. Nếu phương pháp này được thực hiện thành cơng sẽ
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của bộ môn và đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của sự nghiệp giáo dục.
8. Bố cục.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo thì đề tài được chia thành
2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn sử dụng ĐDTQ nhằm phát huy tính tích
cực học tập của học sinh.
Chương 2: Một số biện pháp sử dụng ĐDTQ nhằm phát huy tính tích cực học
tập của học sinh trong dạy học chương: “Việt Nam từ thế kỷ XVI
đến thế kỷ XVIII” (SGK lớp 10 - THPT - cơ bản).

9



Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC
HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
1.1. Cơ sở lý luận của việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
1.1.1. Các loại đồ dùng trực quan và ý nghĩa việc sử dụng đồ dùng trực quan
trong dạy học lịch sử.
1.1.1.1. Các loại đồ dùng trực quan.
ĐDTQ trong DHLS ở trường phổ thơng có tác dụng to lớn trên các lĩnh vực
giáo dưỡng, giáo dục và phát triển học sinh, do đó việc sử dụng ĐDTQ là một điều
kiện khơng thể thiếu. Trên thực tế có nhiều quan niệm khác nhau về cách phân loại
ĐDTQ, song về cơ bản có thể chia thành 3 nhóm lớn:
Nhóm thứ nhất: ĐDTQ hiện vật bao gồm những di tích lịch sử và cách mạng
(như thành nhà Mạc, thành nhà Hồ, hang PăcBó…), những di vật khảo cổ và các di
vật thuộc các thời đại lịch sử (như công cụ đồ đá cũ ở núi Đọ - Thanh Hóa, trống
đồng Đơng Sơn, cọc gỗ Bạch Đằng…). Đây là loại tài liệu gốc có giá trị và ý nghĩa
to lớn về mặt nhận thức.
Nhóm thứ hai: ĐDTQ tạo hình, bao gồm các loại phục chế, mơ hình, sa bàn,
tranh ảnh lịch sử… như các loại cơng cụ lao động, vũ khí, hình vẽ “người đi săn
hươu nai”, tranh “Nguyễn Ái Quốc ở đại hội Tua 1920”….Nó có khả năng khơi
phục lại hình ảnh của con người, đồ vật, các biến cố, sự kiện lịch sử một cách cụ thể,
sinh động và khá xác thực.
Nhóm thứ ba: ĐDTQ quy ước, bao gồm các loại bản đồ lịch sử, đồ thị, sơ đồ, niên
biểu….Loại ĐDTQ này tạo cho học sinh những hình ảnh tượng trưng khi phản ánh
những mặt chất lượng và số lượng của quá trình lịch sử, đặc trưng khuynh hướng
phát triển của hiện tượng kinh tế, chính trị, xã hội của đời sống. Nó khơng chỉ là
phương tiện để cụ thể hóa lịch sử mà cịn là cơ sở để hình thành khái niệm cho học
sinh. Ví dụ: bản đồ chiến tranh thế giới I, niên biểu các giai đoạn chính trong cách
mạng Tư sản Pháp 1789, phim đèn chiếu, phim video….

10


1.1.1.2. Ý nghĩa sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử.
Lịch sử lồi người mang tính khơng lặp lại, tất cả những sự kiện, hiện tượng đã
xảy ra trong quá khứ đều không thể diễn ra lần thứ hai. Do đó, học sinh khơng thể trực
tiếp quan sát, tri giác được các sự kiện, hiện tượng đó trong q trình nhận thức lịch sử.
Việc khơi phục lại bức tranh quá khứ đúng như nó tồn tại trong q trình giảng dạy
đóng vai trị hết sức quan trọng. Một trong những phương pháp có hiệu quả để tái hiện
quá khứ là sử dụng các phương tiện trực quan.
ĐDTQ lịch sử bao gồm các loại tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ…là những tài liệu
phản ánh những sự kiện, hiện tượng lịch sử, nhân vật lịch sử một cách chính xác,
chân thực góp phần khơi phục bức tranh sinh động của quá khứ về những nội dung
lịch sử đó. Việc sử dụng ĐDTQ trong DHLS có ý nghĩa to lớn không chỉ trong việc
cung cấp, bổ sung kiến thức mà cịn có ý nghĩa phát triển ở học sinh năng lực chú ý
quan sát, năng lực tư duy.
Trong lý luận dạy học, nguyên tắc trực quan là một trong những nguyên tắc
cơ bản để truyền tải nội dung kiến thức đến người học. Do đó, dạy học trực quan đã
được nhiều giáo viên quan tâm và sử dụng. Phương pháp dạy học trực quan là
phương pháp sử dụng những ĐDTQ, phương tiện kỹ thuật dạy học trước, trong và
sau khi nắm bắt tài liệu mới; khi ôn tập, củng cố, hệ thống hóa và kiểm tra tri thức,
kỹ năng kỹ xảo. Tuy nhiên, việc sử dụng ĐDTQ ngoài minh họa kiến thức cịn phải
kết hợp nhuần nhuyễn với lời nói sinh động và hệ thống câu hỏi, bài tập nhận thức
giúp học sinh tìm ra bản chất, quy luật của sự kiện lịch sử, từ đó phát huy tính tích
cực, chủ động của học sinh. ĐDTQ chính là chiếc cầu nối giữa quá khứ- hiện tại, lý
thuyết - thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú học
tập cho học sinh. Do vậy, sử dụng ĐDTQ trong DHLS sẽ có một vị trí, ý nghĩa hết
sức quan trọng.
Một là: Đồ dùng trực quan góp phần tạo biểu tượng lịch sử.
Do đặc điểm của bộ mơn lịch sử là tính q khứ và tính khơng lặp lại, nên

trong quá trình nhận thức lịch sử học sinh không thể trực tiếp quan sát sự kiện, hiện
tượng lịch sử bởi vậy phương pháp trực quan có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc sử
dụng ĐDTQ trong DHLS sẽ góp phần quan trọng vào việc tạo biểu tượng cho học
11


sinh, trên cơ sở đó hình thành khái niệm lịch sử giúp học sinh nắm vững bản chất và
quy luật xã hội.
“Biểu tượng lịch sử là hình ảnh về những sự kiện, nhân vật lịch sử, điều kiện
địa lý…được phản ánh trong óc học sinh với những nét chung nhất, điển hình nhất”
[14, tr189]. Biểu tượng lịch sử chính là cơ sở để cụ thể hóa hình ảnh các sự kiện,
hiện tượng lịch sử để học sinh nhận thức quá khứ thông qua hoạt động của các giác
quan: thị giác, thính giác. Đây chính là giai đoạn thứ nhất- giai đoạn nhận thức cảm
tính- trong con đường nhận thức mà Lenin đã vạch ra: “Từ trực quan sinh động đến
tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng trở về với thực tiễn”.
Thông qua ĐDTQ, biểu tượng lịch sử được hình thành, là điều kiện để “biết”
lịch sử đúng như nó đã tồn tại. Đồng thời khắc phục được tình trạng “hiện đại hóa”
lịch sử, là chỗ dựa để hiểu sâu sắc bản chất của lịch sử vì biểu tượng là cơ sở để
hình thành khái niệm, là cơ sở để chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý
tính. Hai q trình này có mối liên hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung
cho nhau. Biểu tượng lịch sử càng cụ thể, phong phú thì khái niệm lịch sử mà học
sinh thu nhận được càng vững chắc. Bởi vậy có thể thấy, DHLS nếu khơng tạo biểu
tượng sẽ khơng thể hình thành khái niệm và như vậy q trình DHLS sẽ khơng đạt
được hiệu quả tối đa.
Việc tạo biểu tượng lịch sử không chỉ dừng lại ở việc miêu tả bề ngồi mà
cịn đi sâu vào bản chất bên trong của sự kiện. Vì vậy biểu tượng rất gần với khái
niệm đơn giản, có ý nghĩa giáo dục rất lớn đối với học sinh. Vì những hình ảnh cụ
thể, sinh động sẽ tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của học sinh, qua đó
giúp các em có những thái độ đúng đắn đối với từng sự kiện lịch sử cụ thể.
Trong quá trình DHLS, để tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh một cách cụ

thể, sinh động giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách thuận lợi đòi hỏi người giáo
viên phải sử dụng các loại ĐDTQ một cách chính xác, cụ thể, khắc phục hiện tượng
“hiện đại hóa” lịch sử ở học sinh.
Việc tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh được thực hiện bằng các thao tác sư
phạm khác nhau. Do mỗi sự kiện, hiện tượng lịch sử xảy ra đều gắn liền với một
không gian, thời gian xác định nếu khơng thì sự kiện sẽ trở nên trừu tượng, thiếu nội
12


dung thực tế, không phản ánh đúng hiện thực khách quan trong nhận thức của học
sinh. Để tạo biểu tượng về không gian, thời gian trong DHLS, giáo viên thường sử
dụng các loại ĐDTQ kèm theo lời nói sinh động giúp học sinh nhận thức một cách
chính xác hơn.
Như vậy, trong DHLS việc tạo biểu tượng thông qua sử dụng ĐDTQ có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Nó giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách thuận lợi,
nắm chắc, hiểu sâu kiến thức và có khả năng vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Qúa
trình nhận thức đi từ biết- hiểu- vận dụng.
Hai là: Đồ dùng trực quan giúp học sinh khái quát được bản chất của sự kiện lịch sử.
Qúa trình nhận thức của học sinh phải đi từ biết- hiểu về sự kiện, hiện tượng
lịch sử, tức từ cụ thể - khái quát, từ hiện tượng bên ngồi- bản chất bên trong. Bản
chất chính là những nội dung cơ bản, trọng tâm, là cái chúng ta cần nắm bắt và hiểu
biết. Chỉ khi nắm được bản chất thì mới nhớ lâu và hiểu sâu kiến thức. Do đó,
ĐDTQ là phương tiện có hiệu lực để hình thành các khái niệm lịch sử quan trọng
giúp học sinh nắm vững quy luật phát triển của xã hội.
“Khái niệm lịch sử là sự phản ánh được khái quát hóa của q trình lịch sử,
nó phản ánh những mối liên hệ khách quan của các hiện tượng và quy luật lịch sử.
Khái niệm lịch sử bao giờ cũng ở mức độ trừu tượng khá cao” [14, tr200].
Việc hình thành khái niệm lịch sử có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
DHLS, làm cho quá trình lĩnh hội kiến thức của học sinh trở nên vững chắc.
Để hình thành khái niệm lịch sử thì ĐDTQ chính là một trong những

“phương tiện có hiệu lực”. Thơng qua ĐDTQ, hình ảnh mà học sinh thu nhận được
bằng trực quan sẽ được lưu giữ lại một cách vững chắc trong trí nhớ. Qua đó, học
sinh sẽ lý giải được bản chất sự kiện, trả lời cho câu hỏi “Vì sao sự kiện đó lại xảy
ra?”. Để trả lời cho câu hỏi này buộc học sinh phải tiến hành tư duy một cách tích
cực. Như vậy, khái niệm được hình thành chính là kết quả của sự tổng hợp một
chuỗi các thao tác tư duy như: phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát….Khái niệm
chính là giai đoạn nhận thức lý tính. Hình thành được khái niệm sẽ giúp học sinh
hiểu biết sâu sắc lịch sử, là điều kiện để nhận thức kiến thức mới, hiểu sâu kiến thức
cũ và vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn.
13


ĐDTQ có vai trị rất lớn trong việc hình thành khái niệm lịch sử, giúp học
sinh hệ thống hóa được tri thức lịch sử đã học, tạo điều kiện cho q trình lĩnh hội
bài mới được dễ dàng.
Ngồi ra, ĐDTQ cịn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng và tư duy
ngơn ngữ của học sinh, kích thích các em suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói
chính xác, rõ ràng về thời kỳ đã qua. Qua đó, tạo đà cho học sinh đạt kết quả cao
trong học tập, góp phần nâng cao chất lượng bộ mơn.
Ba là: Đồ dùng trực quan góp phần bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cho học sinh.
Lịch sử là quá khứ, là bản thân cuộc sống, là tất cả những gì đã xảy ra trong
quá khứ. Việc giảng dạy lịch sử nhằm tái tạo lại những hình ảnh quá khứ được thực
hiện thơng qua lời nói sinh động của giáo viên kết hợp với các tài liệu khác trong đó
có ĐDTQ. Do đó, so với các mơn học khác, lịch sử có ưu thế đặc biệt trong việc
giáo dục tư tưởng đạo đức, chính trị cho học sinh. Như nhà văn dân chủ Nga thế kỉ
XIX Tsecnusepxki, đã khẳng định: “Có thể không biết, không cảm thấy say mê học
tập môn tốn, tiếng Latinh, hóa học, có thể khơng biết hàng nghìn mơn khoa học
khác, nhưng dù sao đã là con người có giáo dục mà khơng u thích lịch sử thì chỉ
có thể là một con người phát triển khơng đầy đủ về trí tuệ” [12, tr28], chứng tỏ sự
cần thiết phải học tập lịch sử trong việc giáo dục con người.

Vai trò của lịch sử đã được khẳng định ngay từ thời cổ đại, người xưa đã xem
“lịch sử là cô giáo của cuộc sống” hay “lịch sử là bó đuốc soi đường đi đến tương
lai”. Trong thời đại ngày nay, chức năng, nhiệm vụ đó của lịch sử lại càng được
phát huy mạnh mẽ thông qua việc sử dụng ĐDTQ.
ĐDTQ có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục tư tưởng, cảm xúc, tâm lý của
học sinh. ĐDTQ như: những bức tranh diễn tả cuộc đấu tranh cách mạng, quan sát
một di tích lịch sử (thành nhà Mạc ở Lạng Sơn), quan sát các cơng trình nghệ thuật
(Tượng La Hán ở chùa Tây Phương, tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở
chùa Bút Tháp…), tranh ảnh về các lãnh tụ nghĩa quân (vua Quang Trung)…sẽ tạo
cho học sinh những tình cảm, cảm xúc mạnh mẽ về lòng yêu mến, cảm phục đối với
những anh hùng, chiến sĩ cách mạng; quý trọng nhân dân lao động, lòng căm thù

14


chiến tranh và quân xâm lược…Đó là những giá trị đạo đức, những phẩm chất cần
có ở mỗi học sinh trong q trình học tập lịch sử.
Bên cạnh đó ĐDTQ cịn góp phần giáo dục thẩm mỹ, ý thức trân trọng, giữ
gìn và bảo tồn các giá trị văn hóa lịch sử của dân tộc cũng như của nhân loại. Từ đó,
học sinh sẽ tự hình thành cho mình những tình cảm, thái độ đúng đắn đối với sự
kiện, nhân vật lịch sử, ý thức trách nhiệm trong việc bảo tồn và phát huy những giá
trị văn hóa ấy. Vì vậy, hiệu quả giáo dục bộ môn ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, tự bản thân ĐDTQ không thể gây ra sự quan sát, tư duy tích cực
của học sinh nếu không kết hợp với nhiều phương pháp khác nhau. Do đó, trong q
trình DHLS, để sử dụng ĐDTQ một cách hiệu quả trong việc truyền tải kiến thức
cho học sinh thì giáo viên phải kết hợp với lời nói sinh động (miêu tả, tường thuật,
kể chuyên…) để làm cho tiết học trở nên sôi nổi, hào hứng hơn. Thực hiện được
thao tác sư phạm này, giáo viên đã biến ĐDTQ thành “phương tiện” truyền tải kiến
thức đến học sinh chứ không chỉ dừng lại ở việc minh họa cho lời nói của giáo viên.
ĐDTQ góp phần quan trọng vào việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh và

q trình phát triển tồn diện cho học sinh.
Như vậy, ĐDTQ khơng chỉ có ý nghĩa về mặt giáo dưỡng mà cịn có ý nghĩa
to lớn về mặt giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo đức cho học sinh. Qua đó, các em sẽ
xác định được thái độ đúng đắn đối với quá khứ, biết yêu - ghét, quý mến và trân
trọng…lịch sử.
Bốn là: Đồ dùng trực quan góp phần phát triển tư duy và năng lực thực hành cho
học sinh.
Nhiệm vụ của DHLS ở trường phổ thông không chỉ dừng ở việc giáo
dưỡng, giáo dục học sinh mà cịn phải hình thành và phát triển ở các em năng lực
tư duy, hành động. Bởi, “học sinh tương đối dễ dàng rút ra được những kết luận
cần thiết, phát biểu các quy tắc trên cơ sở phân tích các thí dụ và sự kiện nhưng
lại vơ cùng khó khăn hơn khi ứng dụng những kết luận này vào việc giải thích các
thí dụ và sự kiện mới” [9, tr9]. Ba mặt này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, không
tách rời nhau nhằm thực hiện nguyên lý giáo dục “học đi đôi với hành, lý luận gắn
với thực tiễn” của Đảng và nhà nước, để phát huy tính tích cực, trí thơng minh,
sáng tạo của học sinh.

15


Nhiệm vụ phát triển của DHLS cho học sinh được thể hiện một cách toàn
diện trên tất cả các mặt chứ khơng chỉ dừng lại ở phát triển trí lực. Điều này vừa
đảm bảo được mục tiêu của đào tạo vừa đảm bảo được chức năng, nhiệm vụ của
khoa học là: khoa học nảy sinh từ thực tiễn và trở về phục vụ thực tiễn. Muốn thực
hiện được nhiệm vụ phát triển học sinh phải huy động được sự chủ động, tích cực,
sáng tạo của học sinh. Học sinh từ chỗ tiếp nhận những kiến thức cơ bản đi đến chỗ
hiểu sâu hơn những kiến thức đã học thông qua đó khám phá ra những kiến thức
mới vận dụng những hiểu biết của mình vào cuộc sống. Một trong những biện pháp
có hiệu quả góp phần phát triển tư duy và năng lực thực hành cho học sinh là sử
dụng ĐDTQ trong DHLS. ĐDTQ sẽ giúp học sinh phát triển khả năng quan sát, tư

duy, vận dụng, sáng tạo, năng lực biểu đạt ngơn ngữ của mình.
Có thể nói, ĐDTQ có ý nghĩa rất quan trọng trong DHLS, ngồi việc
góp phần cung cấp kiến thức, tạo biểu tượng và hình thành khái niệm lịch sử,
giáo dục tư tưởng, tình cảm thì cịn góp phần hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho
học sinh thông qua khả năng quan sát của học sinh, sự hướng dẫn, tổ chức
của giáo viên, học sinh phải tư duy để giải quyết vấn đề. Nhờ đó năng lực tư
duy của học sinh được phát triển.
Bên cạnh đó, ĐDTQ cịn rèn luyện kỹ năng độc lập tìm tịi, nghiên cứu, nhận
xét, phán đốn, hình dung q khứ lịch sử được phản ánh, minh họa qua các tài liệu
trực quan. Mỗi loại ĐDTQ đều có giá trị thuyết phục cao, kích thích trí tị mị, sáng
tạo, khả năng phán đốn, hình dung của học sinh. Từ đó, học sinh đặt ra cho mình
những thắc mắc, những tình huống có vấn đề cần được giải quyết. Khi đó, dưới sự
hướng dẫn, phân tích của giáo viên cùng với những hiểu biết của bản thân, học sinh
sẽ lý giải được vấn đề để hiểu bài học sâu sắc hơn, nâng cao hiệu quả giáo dục.
Do đó, chúng ta có thể thấy, việc sử dụng ĐDTQ trong DHLS có tác dụng rất
lớn trong việc phát triển khả năng quan sát, tư duy và ngơn ngữ của học sinh. Bởi,
khi nhìn vào bất cứ loại ĐDTQ nào, học sinh cũng thích nhận xét, phán đốn, hình
dung q khứ lịch sử được phản ánh, minh họa như thế nào. Học sinh suy nghĩ và
tìm cách diễn đạt bằng lời nói chính xác, có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh xã
hội đã qua.

16


Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của KHKT thì PPDHLS cũng dần được
đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh thay cho PPDH
truyền thống. Theo đó, quan niệm về việc sử dụng ĐDTQ cũng thay đổi, từ chỗ
quan niệm ĐDTQ là tài liệu minh họa cho bài giảng của giáo viên sang quan niệm
ĐDTQ chính là một trong những kênh thơng tin. Do vậy, giáo viên cần khai thác
triệt để nguồn tài liệu này để nâng cao hứng thú học tập của học sinh, phát huy tư

duy tích cực, sáng tạo của học sinh.
Như vậy, từ những vấn đề nêu trên chúng ta có thể thấy, ĐDTQ có ý nghĩa
rất lớn trong việc góp phần nâng cao chất lượng DHLS. Nó thể hiện trên cả 3 mặt:
giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. ĐDTQ chính là chiếc “cầu nối” giữa lý luận thực tiễn, quá khứ - hiện tại.
1.1.2. Vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong dạy học lịch sử.
1.1.2.1. Vị trí, vai trị của việc dạy học phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
Giáo dục thế hệ trẻ bao giờ cũng là mối quan tâm đặc biệt to lớn của mỗi dân
tộc và mọi thời đại để cho xã hội tồn tại và phát triển. Cùng với các bộ môn khác ở
trường phổ thơng thì lịch sử với chức năng, nhiệm vụ của mình cũng góp phần tích
cực vào cơng việc này. Bởi lịch sử khơng chỉ có tác dụng quan trọng về mặt trí tuệ
mà cịn góp phần giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh qua đó hình thành ý thức,
trách nhiệm công dân cho các em.
Tuy nhiên, trong thực tế việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông vẫn chưa
được coi trọng đúng mức. Trong một thời gian dài đã tồn tại quan niệm không đúng,
coi lịch sử là mơn phụ, khơng quan trọng, do đó gây nên tình trạng “học lệch”, “học
tủ” tạo nên thái độ “bất công” với các môn học. Mặt khác, trong dạy học lịch sử
vẫn tồn tại việc coi nhẹ giáo dục tư tưởng, không xuất phát từ sự thực lịch sử mà
“giải thích” dài dịng, cơng thức, áp đặt cùng với sự chi phối của nhiều yếu tố khách
quan làm cho chất lượng dạy học lịch sử giảm sút, tính chủ động, tích cực của học
sinh chưa được phát huy. Do đó, yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực học tập của học sinh được đặt ra và ngày càng trở nên cấp
thiết trong giai đoạn hiện nay.

17


Từ rất sớm, các nhà sư phạm đã nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa
của việc phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập. Nhà giáo dục Đức
Đisterverg đã khẳng định: “Người giáo viên tồi truyền đạt chân lý, người giáo viên
giỏi dạy cách tìm ra chân lý” [9, tr37]. Tức người giáo viên phải cung cấp cho học

sinh những kiến thức cơ bản làm cơ sở định hướng cho học sinh tự khám phá các
kiến thức mới, vận dụng vào thực tiễn.
Ở nước ta, quan niệm “dạy học tích cực” cũng đã được quán triệt trong nhà
trường từ những năm 60 của thế kỉ XX. Đặc biệt trải qua nhiều lần xây dựng, kể từ
công cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất (1950), lần thứ hai (1956) và nhất là cuộc cải
cách lần thứ ba (1986) cùng một số lần sửa chữa bổ sung, chương trình lịch sử ở
trường phổ thơng dần được cải tiến, xác định được những nguyên tắc xây dựng và
khắc phục những thiếu sót, đưa q trình đào tạo trở thành quá trình tự đào tạo. Tuy
nhiên, việc thực hiện vẫn chưa được triệt để. Nhìn chung, sự lạc hậu bảo thủ về
phương pháp còn khá phổ biến, cần được nhanh chóng đổi mới. Vấn đề này được nêu
rõ trong các tài liệu văn kiện Đảng và chính phủ trong những năm gần đây như tại hội
nghị Ban chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ hai khóa VIII (12/1996) chỉ rõ :
Phương pháp giáo dục đào tạo chậm được đổi mới, chưa phát huy
được tính sáng tạo, chủ động của người học… . Đổi mới phương pháp giáo dục đào
tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của
người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến, phương tiện hiện đại vào
quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh
nhất là sinh viên đại học.
Những quan điểm này được thể chế hóa trong luật giáo dục (12/1998):
“Phương pháp giáo dục phổ thơng phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn
học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”
Song cần hiểu, việc phát huy tính tích cực học tập cho học sinh tức là yêu cầu
học sinh nắm vững nội dung, bám sát mục tiêu chương trình mơn học theo đúng
định hướng của người thầy thông qua phương pháp bộ môn chứ không phải là để tư

18




×