Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Luận văn Thạc sĩ ngành Lý luận và phương pháp dạy học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (43.29 KB, 6 trang )

Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học những kiến thức khó - Sinh học 11 Phạm
Hồng Vân Trường Đại học Giáo dục Luận văn Thạc sĩ ngành: Lý luận và phương pháp
dạy học; Mã số: 60 14 10 Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thế Hưng Năm bảo vệ: 2009
Abstract: Nghiên cứu cơ sở lý luận về quan điểm dạy học tích hợp. Nghiên cứu cơ sở
thực tiễn vấn đề dạy học tích hợp theo hướng tích cực hóa nhận thức của người học. Phân
tích chương trình Sinh học ở THPT và chương trình Sinh học 11, những nội dung kiến
thức khó theo quan điểm tích hợp. Thiết kế và tổ chức dạy học theo quan điểm tích hợp
một số bài có nội dung khó. Thực nghiệm sư phạm nhằm xác định tính khả thi và hiệu
quả của đề tài Keywords: Lớp 11; Phương pháp dạy học; Quan điểm tích hợp; Sinh học
Content MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Trong Luật giáo dục, điều 24.2 ghi rõ: “Phương
pháp giáo dục phổ thơng phải phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo của HS
phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động vào tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho HS”. Nghị quyết Trung ương II khóa VIII đã khẳng định “Đổi mới
phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy
sáng tạo cho người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp
hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho
học sinh, nhất là sinh viên đại học, phát triển phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên
và rộng khắp toàn dân, nhất là thanh niên”. Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu, nhìn
chung giáo dục ở Việt Nam còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của giáo dục
trong thời đại mới. Về nội dung: kiến thức còn hàn lâm cứng nhắc, coi trọng lý thuyết
hơn thực hành, thiếu tính liên thơng các bài học với nhau, nhiều vấn đề khai thác trùng
lặp trong nhiều mơn học, làm chương trình trở nên 2 thiếu tính hệ thống, quá tải. Về
phương pháp: dạy học chủ yếu nặng về thuyết trình, ít có sự liên hệ kiến thức giữa các bộ
môn với nhau cũng như kiến thức giữa các bài học trong cùng một bộ môn. Mục tiêu dạy
học chỉ chú trọng vào việc cung cấp kiến thức mà ít chú trọng đến phát triển kỹ năng cho
HS, ít có sự liên hệ giữa lý thuyết học trong nhà trường và thực tiễn cuộc sống. Trong khi
các tình huống ngồi thực tiễn cuộc sống ln mang tính tích hợp thì dạy học trong nhà
trường cịn thiếu sự tích hợp giữa các bộ mơn. Do yêu cầu đổi mới PPDH hiện nay: cùng
với việc đổi mới nội dung, đổi mới PPDH đã trở thành một yêu cầu cấp thiết để nâng cao
chất lượng giáo dục. Đổi mới PPDH ở trường phổ thông là một vấn đề lớn, thu hút sự


quan tâm không chỉ của những người làm cơng tác giáo dục mà cịn thu hút sự quan tâm
của mọi tầng lớp xã hội. Chương trình SGK mới được xây dựng dựa trên quan điểm:
“Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo tổ chức nội dung chương trình, biên
soạn sách giáo khoa và lựa chọn các phương pháp giảng dạy”. Việc xây dựng chương
trình và sách giáo khoa mới theo quan điểm tích hợp là đòi hỏi tất yếu của nền giáo dục
hiện đại. Chương trình phổ thơng của nhiều nước chỉ gồm một số mơn học tích hợp, phổ
biến là các mơn học như tiếng mẹ đẻ và văn chương, toán học, khoa học tự nhiên (Lý,
Hóa, Sinh…), khoa học xã hội và nhân văn (Sử, Địa, Kinh tế, Luật…), ngoại ngữ (tiếng
anh và một số ngoại ngữ chính), máy tính và cơng nghệ, giáo dục thể chất. Trong khi đó,
ở nước ta nội dung chương trình phổ thơng được xây dựng chủ yếu theo cách tiếp cận
mục tiêu, chương trình SGK mới hiện đang quá tải về khối lượng kiến thức và chưa thực
sự chú trọng đến phát triển kỹ năng, cấu trúc chương trình lạc hậu so với thế giới, các
mơn học có sự chồng chéo về kiến thức. Xây dựng cấu trúc chương trình phổ thơng theo
hướng tích hợp các môn riêng rẽ, chỉ học chuyên sâu từng môn khi đào tạo nghề là xu
hướng tất yếu của giáo dục nước ta trong tương lai. Vì vậy, việc GV vận dụng quan điểm


tích hợp vào dạy học hiện đang là vấn đề cần thiết và cấp thiết. Nội dung chương trình
Sinh học 11 là các đặc trưng của cơ thể sống, mỗi chương là một dấu hiệu đặc trưng của
sự sống mà vật vơ cơ khơng có được, đó là chuyển hóa vật chất và năng lượng, cảm ứng,
sinh trưởng và phát triển, sinh sản. Các hoạt động xảy ra trong tế bào và cơ thể bao gồm
nhiều phản ứng sinh lý và sinh hóa với cơ chế phức tạp, địi hỏi GV phải có kiến thức sâu
rộng về các chuyên ngành liên quan. Vì vậy, việc tích hợp các kiến thức Tốn học, Vật
lý, Hóa học vào Sinh học là cần thiết và hiệu quả. 3 Từ những lý do trên, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học những
kiến thức khó – Sinh học 11”. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. Trên thế giới đã có nhiều
nhà nghiên cứu giáo dục nghiên cứu về quan điểm tích hợp trong đó có Xavier Roegiers
(1996), với cơng trình nghiên cứu “Khoa sư phạm tích hợp hay cần làm thế nào để phát
triển năng lực ở các trường học” [44]. X. Roegiers (1996), trong cơng trình nghiên cứu
của mình, ơng đã nhấn mạnh rằng cần đặt tồn bộ q trình học tập vào một tình huống

có ý nghĩa đối với HS. Ông nhấn mạnh rằng đồng thời với việc phát triển những mục tiêu
đơn lẻ, cần tích hợp các q trình học tập này trong một tình huống có ý nghĩa với HS.
Những tình huống có ý nghĩa phải là những tình huống có vấn đề, có nội dung liên mơn,
liên quan đến thực tiễn, và khi HS tham gia giải quyết vấn đề đó sẽ hình thành cho mình
những kỹ năng, năng lực thực tiễn hay là cơ sở cho q trình học tập tiếp theo. Vì thế tình
huống có vấn đề phải là tình huống tích hợp có ý nghĩa với HS, chứ khơng phải cái cớ để
tích hợp. Việc tích hợp này nhằm mục đích làm cho quá trình học tập mang lại cho HS
những kỹ năng, năng lực thực tiễn nhưng các quá trình này được tiến hành ngay trên lớp
học. Mục đích cuối cùng (mục tiêu tích hợp) của q trình học tập là nhằm hình thành
cho HS những năng lực thực tiễn – khả năng HS có thể đối phó với những tình huống cụ
thể xảy ra trong cuộc sống. Các quá trình học tập mang tính mục đích rõ rệt thơng qua
các năng lực hình thành cho HS, một số mục tiêu tích hợp cho mỗi năm học (trong một
mơn học hay một nhóm mơn học). Dạy học tích hợp có sự soi sáng của nhiều mơn học.
Một mơn học có sự đóng góp của nhiều môn học khác, nhưng cũng cần lưu ý đến việc
lựa chọn thông tin cần cung cấp cho HS. Cần tránh việc cùng một lúc cung cấp quá nhiều
thông tin làm cho HS bị chìm ngập trong khối lượng lớn thơng tin với lý do các thơng tin
này ít nhiều có quan hệ với tình huống phải giải quyết. Cần phân biệt những thơng tin
quan trọng và ít quan trọng hơn, không nên mất nhiều thời gian vào việc dạy và học
những điều không cần thiết trong khi những năng lực cơ bản khơng được dành đủ thời
gian. Vì thế khi tích hợp cần chọn lọc thơng tin phù hợp với tình huống, mục đích của bài
học đặt ra. X. Roegiers đã nêu lên vai trị của mơn học và sự tương tác giữa các môn học
[44]: Quan điểm “trong nội bộ môn học”: nên ưu tiên các nội dung môn học, sử dụng
kiến thức của phân môn này để dạy học kiến thức phân môn khác trong bộ môn khoa học.
Các kiến 4 thức trong một môn học được kết nối với nhau một cách hệ thống, logic và
chặt chẽ. Quan điểm này nhằm duy trì các mơn học riêng rẽ. Quan điểm “đa mơn”: đề
nghị những tình huống, những đề tài có thể nghiên cứu theo những quan điểm khác nhau
nghĩa là theo những môn học khác nhau. Theo quan điểm này, những môn học tiếp tục
được duy trì một cách riêng rẽ và chỉ gặp nhau ở một số thời điểm trong quá trình nghiên
cứu của đề tài. Như vậy các môn học không thực sự được tích hợp. Quan điểm “liên
mơn”: đề xuất những tình huống chỉ có thể tiếp cận một cách hợp lý qua sự soi sáng của

nhiều môn học. Ở đây nhấn mạnh sự liên kết của nhiều môn học, làm cho chúng tích hợp
với nhau để giải quyết vấn đề cho trước, các q trình học tập sẽ khơng được đề cập một
cách rời rạc mà phải liên kết với nhau liên quan đến vấn đề phải giải quyết. Quan điểm


“xuyên môn”: chủ yếu phát triển các kỹ năng mà HS có thể sử dụng trong tất cả các mơn
học, trong tất cả các tình huống, những kỹ năng này được gọi là kỹ năng xun mơn. Có
thể lĩnh hội những kỹ năng này trong từng môn học hoặc nhân dịp có những hoạt động
chung cho nhiều mơn học. X. Roegiers cũng cho rằng cần có sự cần thiết vượt lên trên
các nội dung học tập. Các kiến thức học được chỉ thực sự có ý nghĩa khi chúng được huy
động vào các tình huống cụ thể và những kiến thức đó sẽ được HS ghi nhớ lâu hơn. Học
chỉ để nhớ, để biết và giải quyết vấn đề trong bài học thì chưa đủ, HS phải biết vận dụng
sáng tạo những kiến thức đã học vào những tình huống xảy ra trong thực tiễn, đó là
những tình huống phức hợp địi hỏi người giải quyết phải có năng lực thực tiễn. Học
không chỉ dừng lại ở mức hiểu mà phải ở mức độ biết áp dụng, phân tích, tổng hợp và
đánh giá những kiến thức đã lĩnh hội. Theo chiều hướng này quan điểm tích hợp nhằm
đáp ứng lại một trong những thách thức của xã hội chúng ta là đảm bảo cho mỗi HS có
khả năng huy động hiệu quả những kiến thức, năng lực của mình để giải quyết một cách
hữu ích một tình huống xuất hiện và nếu có thể, để đối phó với những khó khăn bất ngờ,
tình huống chưa từng gặp. Ở Việt Nam cũng đã có nhiều nhà nghiên cứu giáo dục nghiên
cứu cơ sở lý luận về tích hợp và các biện pháp nhằm vận dụng tích hợp vào q trình
giảng dạy thực tiễn: Đào Trọng Quang với bài “Biên soạn sách giáo khoa theo quan điểm
tích hợp, cơ sở lý luận và một số kinh nghiệm” đã đề cập bản chất của sư phạm tích hợp,
quan điểm tích hợp, một số nguyên tắc chỉ đạo tích hợp, một số kỹ thuật tích hợp. 5 Đỗ
Ngọc Thống đã nêu một hệ thống quan điểm tích hợp và dạy học theo hướng tích hợp.
Trong cuốn “Đổi mới dạy và học ngữ văn ở THCS”, tác giả đã nhấn mạnh sự khác biệt
giữa cộng gộp các kiến thức (Combinaison) và tích hợp kiến thức (Integration). Nguyễn
Minh Hoài (2006), “Dạy học tác phẩm Bến quê của Nguyễn Minh Châu trong chương
trình ngữ văn 9 theo quan điểm tích hợp”. Vũ Xuân Thủy (2008), “Dùng phương pháp
tiếp cận tích hợp để phát triển chương trình đào tạo nghề hàn từ trình độ trung cấp lên

trình độ cao đẳng tại trường trung cấp nghề cơ điện và xây dựng ở Bắc Ninh”. Cao Kiều
Khanh (2007), “Dạy học thao tác lập luận phân tích cho học sinh lớp 11 theo quan điểm
tích hợp và tích cực”. Nguyễn Hữu Tâm (2003), “Vậndụng quan điểm tích hợp vào bài
học tác phẩm tự sự của Nam Cao ở nhà trường THPT”. Nguyễn Xuân Cường (2008),
“Vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học nghề điện trong các trường dạy nghề của tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu”. Nguyễn Đăng Trung (2004), “Vận dụng quan điểm sư phạm tích
hợp trong dạy học mơn giáo dục học ở các trường cao đẳng sư phạm”. Trong cơng trình
“Sử dụng kiến thức văn học, địa lý, chính trị trong giảng dạy bộ mơn lịch sử THPT theo
quan điểm tích hợp liên mơn”, Phạm Văn Thiên đã vận dụng quan điểm liên môn để đề
xuất cách sử dụng kiến thức văn học, địa lý, chính trị vào giảng dạy môn lịch sử và đề
xuất một số bài mẫu theo quan điểm này. Còn Trần Viết Thụ (1997), trong cơng trình
nghiên cứu “Vận dụng ngun tắc liên mơn khi dạy học các vấn đề văn hóa trong SGK
lịch sử THPT”, tác giả đã vận dụng kiến thức văn học, địa lý, chính trị vào q trình
giảng dạy bộ môn lịch sử theo quan điểm liên môn. Trong công trình “Vận dụng tích hợp
giáo dục dân số qua dạy học giải phẫu sinh lý người ở lớp 9 THCS”, tác giả Lê Trọng
Sơn đã nhấn mạnh giáo dục dân số là vấn đề quan trọng, việc tích hợp giáo dục dân số
vào mơn Sinh học 9 là thích hợp đối với nội dung môn học cũng như độ tuổi của HS. Khi
nghiên cứu về sư phạm tích hợp, đã có nhiều cơng trình được cơng bố, nhiều cuộc hội
thảo được tổ chức. Từ năm 1960 đến 1974 đã có 208 chương trình trong tổng số 392
được điều tra và được coi là đã tích hợp ở nhiều mức độ khác nhau. Từ năm 1990 trở lại
đây, vấn 6 đề tích hợp càng được phổ biến rộng rãi ở các quốc gia và khu vực, với nhiều


mức độ khác nhau. Như vậy, việc vận dụng những quan điểm tích hợp vào giảng dạy đã
và đang thu hút được sự quan tâm của các nhà giáo dục cũng như GV. Những cơng trình
nghiên cứu của nhiều nhà giáo dục và GV đã khẳng định việc vận dụng quan điểm tích
hợp vào dạy học là một trong những xu hướng dạy học tất yếu hiện nay. Chương trình
SGK theo hướng tích hợp đã được xây dựng xuyên suốt từ cấp Tiểu học đến THPT. Theo
các tác giả biên soạn bộ SGK mới cũng khẳng định “bên cạnh những hướng cải tiến
chung của chương trình như giảm tải, tăng thực hành, gắn với đời sống, cải tiến nổi bật

nhất của chương trình là hướng tích hợp”. Như vậy trên thế giới và Việt Nam đã có rất
nhiều cơng trình nghiên cứu, những cuộc hội thảo khoa học về quan điểm tích hợp và
định hướng sử dụng tích hợp trong dạy học. Tuy nhiên, ở Việt Nam vấn đề tích hợp mới
chỉ được nghiên cứu chủ yếu về cơ sở lý luận, việc vận dụng vào thực tế dạy học mới chỉ
bước đầu được thực hiện ở cấp học Tiểu học và THCS, ở bậc THPT ít được thực hiện và
cịn mang tính hình thức, thiếu hiệu quả. 3. Mục đích nghiên cứu. Đề xuất hướng triển
khai và vận dụng quan điểm dạy học tích hợp vào dạy học một số kiến thức khó trong
chương trình Sinh học 11. 4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu. 4.1. Đối tượng nghiên
cứu. Dạy học một số kiến thức khó trong chương trình Sinh học 11 theo quan điểm tích
hợp. 4.2. Khách thể nghiên cứu. Quá trình tổ chức dạy học – Sinh học 11 theo quan điểm
tích hợp. 5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu. 5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu. - Nghiên cứu
cơ sở lý luận về quan điểm dạy học tích hợp. - Nghiên cứu cơ sở thực tiễn vấn đề dạy học
tích hợp theo hướng tích cực hóa nhận thức của người học. 7 - Phân tích chương trình
Sinh học ở THPT và chương trình Sinh học 11, những nội dung kiến thức khó theo quan
điểm tích hợp. - Thiết kế và tổ chức dạy học theo quan điểm tích hợp một số bài có nội
dung khó. - Thực nghiệm sư phạm nhằm xác định tính khả thi và hiệu quả của đề tài. 5.2.
Phạm vi nghiên cứu. Vận dụng quan điểm tích hợp trong việc thiết kế và tổ chức dạy học
một số nội dung kiến thức khó trong chương trình Sinh học 11. 6. Giả thuyết nghiên cứu.
Những giải pháp dạy học theo quan điểm tích hợp mà đề tài đề xuất sẽ góp phần nâng cao
chất lượng dạy học. 7. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Phân tích và tổng hợp các quan điểm về dạy học tích hợp làm cơ sở lý luận cho đề tài,
đặc biệt là các quan điểm vận dụng tích hợp trong dạy học Sinh học. Nghiên cứu tài liệu
của Đảng và Nhà nước về đổi mới giáo dục ở bậc THPT. - Phương pháp nghiên cứu thực
tiễn: Phân tích cấu trúc chương trình Sinh học 11, đặc biệt là những phần có nội dung
kiến thức khó. - Phương pháp điều tra: Khảo sát việc dạy học Sinh học ở một số trường
THPT thông qua dự giờ rút kinh nghiệm, đánh giá sự vận dụng quan điểm tích hợp trong
dạy học Sinh học; Lấy ý kiến GV thông qua phiếu điều tra, đánh giá học sinh thông qua
bài kiểm tra. - Phương pháp xử lý số liệu: Các số liệu thu được được xử lý bằng thống kê
toán học. Kết quả kiểm tra, đánh giá kết quả học của người học được phân tích định tính
và định lượng. 8. Cấu trúc luận văn. Mở đầu Kết quả nghiên cứu Chương I: Cơ sở lý luận

và thực tiễn của dạy học tích hợp. 8 Chương II: Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy
học những nội dung khó - Sinh học 11. Chương III: Thực nghiệm sư phạm. Kết luận và
khuyến nghị Cơng trình khoa học đã công bố của tác giả Tài liệu tham khảo Phụ lục
References 1. Đinh Quang Báo (2003), “Cơ sở lý luận của việc đào tạo tích hợp khoa học
cơ bản và phương pháp dạy học bộ môn ở các trường sư phạm”, Kỷ yếu 60 năm ngành
Sư phạm Việt Nam. Nhà xuất bản Đại học sư phạm. 2. Đinh Quang Báo (1996), Lý luận
dạy học Sinh học. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 3. Lê Khánh Bằng, Đặng Văn Đức
(1995), Dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 4. Bộ GD –
ĐT (2007), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình SGK lớp 11 môn Sinh


học. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 5. Lê Anh Chới (2003), “Dạy ngữ văn theo hướng
tích hợp”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 67. 6. Nguyễn Xuân Cường (2008), “Vận
dụng quan điểm tích hợp vào dạy học nghề điện trong các trường dạy nghề của tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu”, Luận văn Thạc sỹ, Hà Nội. 7. Hồ Ngọc Đại (1994), Tâm lý học dạy
học. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 8. Nguyễn Thành Đạt (Tổng chủ biên) (2008), Sinh
học 11. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 9. Nguyễn Thành Đạt (Tổng chủ biên) (2007),
Sinh học 11 – Sách giáo viên. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 10. Bùi Văn Đường
(2002), “Tích hợp trong dạy học ngữ văn bậc THCS”, Tạp chí Giáo dục, số 46. 11. Trịnh
Hữu Hằng, Đỗ Công Huỳnh (1999), Sinh lý học người và động vật. Nhà xuất bản Hà
Nội. 12. Trần Bá Hồnh, “Dạy học tích hợp”, Tạp chí Khoa học giáo dục, số 12. 9 13.
Trần Bá Hoành (2002), Đại cương phương pháp dạy học Sinh học. Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội. 14. Trần Bá Hoành (2000), “Định hướng việc tích hợp đào tạo chun mơn
và nghiệp vụ trong các giáo trình ở Đại học sư phạm”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 2,
tr. 1. 15. Trần Bá Hồnh (1999), “Phát triển trí sáng tạo của học sinh và vai trị của giáo
viên”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 09. 16. Trần Bá Hoành, Trịnh Nguyên Giao
(2000), Phát triển các phương pháp học tập tích cực trong bộ môn sinh học. Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội. 17. Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Sinh Huy, Hà Thị Đức (1997), Giáo dục
học đại cương II. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. 18. Nguyễn Thanh Hùng (2006), “Tích
hợp trong dạy học ngữ văn”, Tạp chí Khoa học giáo dục, số 06. 19. Nguyễn Thế Hưng

(2007), “Một số kinh nghiệm để có một bài giảng hay”, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Đại
học Sư phạm Huế, tháng 4. 20. Nguyễn Thế Hưng (2007), “Nâng cao chất lượng dạy học
một số kiến thức khó mơn Sinh học – Trung học phổ thơng”, Tạp chí Giáo dục, số 192,
tr. 40 – 42. 21. Nguyễn Thế Hưng (2007), “Phương pháp phân tích nội dung sách giáo
khoa để thiết kế bài giảng Sinh học”, Tạp chí Giáo dục, số 160, tr. 39 – 41. 22. Ngô Văn
Hưng, Trần Văn Kiên (2007), Bài tập Sinh học 11. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 23.
Nguyễn Kỳ (1995), Phương pháp giáo dục tích cực lấy người học làm trung tâm. Nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 24. Phạm Văn Lập (2006), Tập bài giảng phương pháp dạy
học Sinh học ở trường THPT. Khoa Sư phạm – Đại học Quốc gia Hà Nội. 25. Nguyễn
Quang Mai (Chủ biên) (2004), Sinh lý học động vật và người. Nhà xuất bản Khoa học và
kỹ thuật. 26. Lê Đức Ngọc (2002), “Bàn về nội hàm của chất lượng đào tạo đại học và
sau đại học”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 2, tr. 3 – 4. 10 27. Lê Đức Ngọc (2005),
Xây dựng chương trình đào tạo giáo viên dạy tích hợp các mơn tự nhiên, các môn xã hội
– nhân văn và các môn công nghệ, Kỷ yếu: Mục tiêu đào tạo và mơ hình đại học sư phạm
Việt Nam giai đoạn mới, tr 72 – 76. 28. Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển tiếng việt.
Nhà xuất bản Đà Nẵng. 29. Nguyễn Minh Phương, Cao Thị Thặng (2002), “Xu thế tích
hợp mơn học trong nhà trường phổ thơng”, Tạp chí Giáo dục, số 2. 30. Đào Trọng Quang
(1997), “Biên soạn SGK theo quan điểm tích hợp – Cơ sở lý luận và một số kinh
nghiệm”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 11, tr. 24. 31. Lê Trọng Sơn (1999), “Phương
pháp tích hợp giáo dục dân số qua dạy học giải phẫu sinh lý người ở lớp 9 THCS”, Tạp
chí Nghiên cứu giáo dục số 7, tr. 26 – 27. 32. Dương Tiến Sỹ (2001), “Giảng dạy tích
hợp các khoa học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo”, Tạp chí Giáo dục, số
9. 33. Nguyễn Hữu Tâm (2003), “Vận dụng quan điểm tích hợp vào bài học tác phẩm tự
sự của Nam Cao ở nhà trường THPT”, Luận văn Thạc sỹ, Hà Nội. 34. Nguyễn Đức
Thành (2003), Dạy học Sinh học ở trường THPT. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 35.
Nguyễn Đức Thành (2008), Cấp cơ thể và biện pháp thể hiện trong dạy học Sinh học 11
mới, Chuyên đề bồi dưỡng nâng cao năng lực dạy học Sinh học theo chương trình mới,


Hà Nội. 36. Trần Viết Thụ (1997), “Vận dụng nguyên tắc liên mơn khi dạy học các vấn

đề văn hóa trong SGK lịch sử THPT”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 12, tr. 13. 37.
Nguyễn Trí (2004), “Bàn về tính tích hợp các phương thức biểu đạt trong văn bản”, Tạp
chí Giáo dục, số 83. 38. Nguyễn Đăng Trung (2004), “Vận dụng quan điểm sư phạm tích
hợp trong dạy học môn giáo dục học ở các trường cao đẳng sư phạm”, Luận văn Thạc sỹ,
Hà Nội. 39. Thái Duy Tuyên (1999), Những vấn đề cơ bản của giáo dục hiện đại. Nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 40. Nguyễn Hồng Vân (2002), “Xây dựng hệ thơng câu hỏi
tích hợp: một yêu cầu quan trọng trong dạy học ngữ văn chương trình mới”, Tạp chí Giáo
dục, số 23, tr. 33. 41. Vũ Văn Vụ (Chủ biên) (1999), Sinh lý học thực vật. Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội. 11 42. Phạm Viết Vượng (2000), Phương pháp luận nghiên cứu khoa
học. Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội. T.J.Chilton (2000), Sinh học. Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội.43. W.D.Phillips 44. Xavier Roegiers (1996), “Khoa sư phạm tích
hợp hay làm thế nào để phát triển năng lực ở nhà trường”, (Đào Trọng Quang và Nguyễn
Ngọc Nhị dịch). Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.



×