Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Skkn một số biện pháp dạy trẻ 3 4 tuổi có kỹ năng sống cơ bản nhằm giúp trẻ biết cách tự chăm sóc và bảo vệ bản thân tại trường mầm non tân sơn, thành phố thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TP. THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP DẠY TRẺ 3- 4 TUỔI CÓ
KĨ NĂNG SỐNG CƠ BẢN NHẰM GIÚP TRẺ BIẾT CÁCH
TỰ CHĂM SÓC VÀ BẢO VỆ BẢN THÂN TẠI
TRƯỜNG MẦM NON TÂN SƠN,THÀNH PHỐ THANH HÓA

Người thực hiện: Trần Thị Thanh Thủy
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường mầm non Tân Sơn, TPTH
SKKN thuộc lĩnh vực: Chun mơn

THANH HĨA NĂM 2022

skkn


MỤC LỤC
TT
1.
1.1.
1.2.
1.3.
1.4.
2.
2.1.
2.2.


2.3.
2.3.1.
2.3.2.
2.3.3
2.3.4.
2.4.
3.
3.1.
3.2.

TRANG

NỘI DUNG
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Giải pháp 1: Dạy trẻ biết cách tự chăm sóc và bảo vệ bản
thân để có thêm những kĩ năng sống cần thiết.
Giải pháp 2: Tạo sự tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt
động góp phần giáo dục kĩ năng sống cho trẻ.
Giải pháp 3: Tạo môi trường giao tiếp phong phú để giáo
dục kĩ năng sống cho trẻ.
Giải pháp 4: Phối hợp với phụ huynh để giáo dục kĩ năng
sống cho trẻ.

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI

skkn

1
2
2
2
2
2
3
5
5
8
12
14
16
17
17
18


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài

Như chúng ta đã biết mỗi trẻ sinh ra là một cá thể riêng biệt với những
nhu cầu, hứng thú và khả năng khác nhau.Vậy để dạy trẻ phát huy thế mạnh
cũng như phát triển toàn diện, cha mẹ và giáo viên cần có những hiểu biết dạy
cho trẻ những kỹ năng sống cơ bản ngay từ lứa tuổi mầm non. Hơn nữa, bồi
dưỡng cho trẻ những kĩ năng sống, những thói quen tốt không phải là việc một
sớm một chiều mà là cả một quá trình và phải chọn đúng thời điểm thích hợp
với độ tuổi của trẻ để bắt đầu mới có kết quả tốt nhất.
Giáo dục cho trẻ những kỹ năng mang tính cá nhân xã hội nhằm giúp trẻ có
thể chuyển kiến thức, thái độ, cảm nhận thành những khả năng thực thụ, giúp trẻ
biết xử lý hành vi của mình trong các tình huống khác nhau trong cuộc sống.
Đối với trẻ em trong cuộc sống hàng ngày ở gia đình trẻ cần được học các kĩ
năng tự phục vụ bản thân như: Đánh răng, rửa mặt, vệ sinh, trải tóc…Ngồi ra
trẻ cần nhận biết được các nguy hiểm xung quanh mình như: Những nguy hiểm
từ lửa, điện, nước, người lạ…từ đó trẻ biết ứng phó với những tình huống có thể
xảy ra. Những kĩ năng về giao tiếp xã hội cũng rất cần thiết với trẻ mầm non
như: Những kĩ năng chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi…và các tình huống trong giao
tiếp. Ở Việt Nam, từ năm học 2008-2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động
phong trào“Xây dựng trường học thân thiện- học sinh tích cực”, với yêu cầu tăng
cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục
trong nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng
tạo. Trong năm nội dung thực hiện có nội dung rèn luyện kỹ năng sống cho học
sinh. Chưa bao giờ giáo dục kĩ năng sống cho trẻ được giáo viên mầm non và các
bậc cha mẹ quan tâm nhiều như hiện nay, nhất là trong những năm dịch bệnh
Covid19.
Giáo dục kĩ năng sống nhằm giúp trẻ phát triển hài hịa và tồn diện về
nhân cách như: Thể chất, nhận thức, ngơn ngữ, tình cảm xã hội, thẩm mỹ. Giáo
dục kĩ năng sống giúp cho trẻ được an toàn, khỏe mạnh, khéo léo, bền bỉ, có khả
năng thích ứng được với những thay đổi của điều kiện sống. Mặt khác, giáo dục
kĩ năng sống còn giúp cho trẻ biết cách kiểm soát cảm xúc, biết thể hiện tình yêu
thương, sự sẻ chia, đồng cảm với những người xung quanh. Không những vậy,

giáo dục kĩ năng sống còn giúp cho trẻ mạnh dạn, tự tin, tự trọng và tơn trọng
người khác, có khả năng giao tiếp tốt, trẻ biết lắng nghe, nói năng lịch sự, hịa
nhã và cởi mở.
Giáo dục kĩ năng sống nên bắt đầu từ lứa tuổi mầm non, bởi vì lứa tuổi
này đã hình thành những hành vi cá tính, tính cách, nhân cách. Thực tế ở trường
tôi tuy ý thức được tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ nhưng
hiện nay việc đưa giáo dục kĩ năng sống vào trong giảng dạy vẫn còn hạn chế,
việc chủ động tích hợp giáo dục kĩ năng sống mới chỉ ở một số giáo viên, chưa
trở thành một quy định yêu cầu như một số nội dung tích hợp khác. Giáo viên
còn chưa chú trọng đến rèn kĩ năng cho trẻ, chưa có hoạt động đi sâu vào giáo
dục kĩ năng sống, để trẻ ghi nhớ, chưa đạt hiệu quả cao. Có khơng ít cha mẹ trẻ
nhận thức về giáo dục kĩ năng sống cho trẻ chưa rõ ràng. Họ đưa con đến trường
1

skkn


rồi phó mặc việc giáo dục trẻ cho giáo viên, cho con đi học chỉ cần biết hát,
biết múa, biết đọc thơ, kể chuyện thế là đủ, còn lại các việc khác khơng quan
trọng. Nhiều phụ huynh cịn cho rằng trẻ con biết gì, làm được gì mà giáo dục
kĩ năng sống.
Bản thân tôi là một giáo viên mầm non tôi nhận thấy rằng đối với trẻ 3 4 tuổi việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ là rất cần thiết vì trẻ lúc này mới
bắt đầu nhận thức những gì mà trẻ có thể xem là đúng, thế nào là sai. Điều gì
cần làm, và điều gì khơng được làm… Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ là giúp
trẻ biết cách chăm sóc và bảo vệ chính bản thân mình, tạo sự tự tin cho trẻ,
giúp trẻ thích nghi được với môi trường xung quanh. Không những thế còn
giúp cho trẻ biết cách giao tiếp và ứng xử trong cuộc sống hàng ngày, trẻ biết
cách phối hợp với các bạn chơi trong nhóm. Vì thế tơi đã chọn đề tài nghiên
cứu “Một số giải pháp dạy trẻ 3-4 tuổi có kĩ năng sống cơ bản nhằm giúp
trẻ biết cách tự chăm sóc và bảo vệ bản thân tại Trường Mầm non Tân

Sơn, Thành Phố Thanh Hóa”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho trẻ, giúp trẻ 3- 4 tuổi có
kĩ năng sống cơ bản nhằm giúp trẻ biết cách tự chăm sóc và bảo vệ bản thân
tại Trường Mầm non Tân Sơn, Thành Phố Thanh Hóa.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp dạy trẻ 3-4 tuổi có kĩ năng sống cơ bản nhằm giúp
trẻ biết cách tự chăm sóc và bảo vệ bản thân tại trường mầm non Tân SơnThành Phố Thanh Hóa”
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu, tôi vận dụng các phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp điều tra: Bản thân nắm tình hình qua việc trực tiếp
chăm sóc giáo dục trẻ, qua các hoạt động của trẻ trong thời gian ở lớp, nhất là
các hoạt động tự thực hiện của trẻ, phối hợp với phụ huynh nắm bắt việc thực
hiện hoạt động tự phục vụ của trẻ ở gia đình.
- Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động của trẻ trong việc tự
phục vụ trong các hoạt động ngoại khóa. Quan sát sự quan tâm và sử dụng
thành quả để phục vụ cho việc dạy học các hoạt động học khám phá khoa học
và giáo dục kĩ năng sống cho trẻ.
- Phương pháp thống kê toán học: Thống kê kết quả thực hiện từng tiêu
chí theo học kì và cuối năm học để so sánh.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Dựa vào kế hoạch hoạt động
trong ngày đề ra các biện pháp để xây dựng nội dung phù hợp cho việc thực
hiện chuyên đề. Kiểm tra chuyên đề để đánh giá kết quả thực hiện của trẻ
trong từng tuần, tháng, giai đoạn.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc sách, tập san, đọc các tài liệu
tham khảo về giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục lồng ghép dạy kĩ năng
sống cho trẻ, các văn bản chỉ đạo của ngành có liên quan về nội dung giáo
dục kĩ năng sống cho trẻ. MD39 Bồi dưỡng thường xun. Chương trình
chăm sóc giáo dục trẻ mầm non 3-4 tuổi
2


skkn


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
Kĩ năng sống là hành động tích cực, có liên quan đến kiến thức thái độ,
trực tiếp hướng vào hoạt động cá nhân, giúp mỗi cá nhân ứng phó có hiệu quả
với các yêu cầu, thách thức của cuộc sống hàng ngày.(Tài liệu bồi dưỡng
thường xuyên MD39 Tác giả Lê Bích Ngọc)
Giáo dục kĩ năng sống là một phần quan trọng trong chương trình chăm
sóc, ni dưỡng và giáo dục trẻ mầm non. Hiện nay, việc đưa giáo dục kĩ
năng sống vào nhà trường nhất là từ bậc học mầm non đã được thực hiện ở rất
nhiều các Quốc gia trên thế giới, ở mỗi nước có một phương thức giáo dục
khác nhau. Ở Việt Nam, việc đưa giáo dục kĩ năng sống vào lứa tuổi mầm
non cũng đã được chú trọng quan tâm trong những năm gần đây. Theo tổ
chức Y tế thế giới (WHO-1993) khẳng định: “Năng lực tâm lý xã hội là khả
năng ứng phó có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó
cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt
tinh thần, biểu hiện qua hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người
khác, với văn hóa và mơi trường xung quanh. Năng lực tâm lý xã hội có vai
trò quan trọng trong việc phát triển sức khỏe theo nghĩa rộng nhất về mặt thể
chất, tinh thần và xã hội. Kĩ năng sống là khả năng thể hiện, thực thi năng lực
tâm lý xã hội này”. Tiến sĩ Nguyễn Thu Cúc chuyên gia tư vấn của ABS
Training cho biết:“Kĩ năng sống khơng phải là những gì q cao siêu, phức
tạp..”. Cũng như ơng cha ta đã nói “ Tiên học lễ hậu học văn” Lễ phép là nét
đẹp văn hóa được đặt lên hàng đầu khi đánh giá về một con người.
Trong thời đại hiện nay, sự phát triển kinh tế xã hội đang đặt ra những
yêu cầu ngày càng cao đối với hệ thống giáo dục đòi hỏi nền giáo dục phải
đào tạo ra những con người “ Phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể lực,

phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức” Chính vì thế ngồi kiến thức,
mỗi chúng ta và nhất là trẻ em rất cần trang bị những kĩ năng sống để ngày
càng hoàn thiện bản thân sao cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Vì vậy
Bộ GD&ĐT đưa kĩ năng sống lồng ghép vào chương trình dạy học là việc
làm rất quan trọng và cần thiết, mặc dù việc này không phải là dễ đối với lứa
tuổi mầm non. Đặc biệt đối với trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi, vì đây là giai đoạn đầu
trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách nên việc nắm bắt tâm lý trẻ
cịn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, đây cũng là một thời điểm thuận lợi để
giáo dục tình cảm yêu thương, đồng cảm, chia sẻ cho trẻ.
2.2. Thực trạng
Trường mầm non Tân Sơn - Thành phố Thanh Hóa là trường đạt chuẩn
Quốc gia mức độ II, về cơ sở vật chất có đầy đủ phịng học và các phịng chức
năng rộng rãi, khang trang, có khu vườn cổ tích, bể bơi, có sân chơi với nhiều
đồ chơi ngồi trời phong phú, hấp dẫn trẻ. Nhà trường luôn đầu tư mua sắm
đầy đủ trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi để phục vụ, chăm sóc, ni dưỡng và
giáo dục trẻ. Trải qua 30 năm xây dựng và phát triển, nhà trường đã đạt được
nhiều thành tích đó là: Trường liên tục đạt tập thể lao động xuất sắc cấp tỉnh,
được nhà nước tặng huân chương lao động hạng nhất, nhì, ba và nhiều phần
3

skkn


thưởng khác, đặc biệt là danh hiệu cao quý Đơn vị Anh hùng lao động trong
thời kỳ đổi mới.
Năm học 2021-2022 được sự phân công của nhà trường, tôi đã nhận
nhiệm vụ phụ trách lớp Mẫu giáo bé C3(3-4 tuổi). Với tổng số học sinh là 30
cháu trong đó18 cháu nam và 12 cháu nữ. Trong quá trình nghiên cứu, tơi gặp
những thuận lợi và khó khăn như sau:
2.2.1. Thuận lợi

Ban giám hiệu luôn luôn chăm lo đến chất lượng chăm sóc – giáo dục,
chỉ đạo sát sao trong cơng tác chun mơn tới từng giáo viên.
Nhà trường có đội ngũ giáo viên 100% đạt trình độ chun mơn từ chuẩn
và trên chuẩn, trẻ, khỏe, nhiệt tình, năng động, sáng tạo trong việc tổ chức các
hoạt động cho trẻ, có nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc giáo dục trẻ
mẫu giáo 3 - 4 tuổi.
Bản thân tôi là một giáo viên trẻ đạt trình độ chun mơn trên chuẩn
(Đại học Sư phạm mầm non), có niềm đam mê với cơng tác giáo dục trẻ, luôn
được phụ huynh tin tưởng. Hàng năm bản thân thường xuyên được tham dự
lớp bồi dưỡng tiếp thu chuyên đề hè do phòng Giáo dục và Đào tạo Thành
Phố tổ chức trong đó có chuyên đề giáo dục kĩ năng sống cho trẻ và dự một
số hoạt động dạy mẫu nên tôi đã học tập được một số kinh nghiệm trong
phương pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ.
Các tài liệu, tập san về hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ được phịng
Giáo dục và Đào tạo Thành Phố, nhà trường cấp phát kịp thời. Đặc biệt nhà
trường có máy vi tính kết nối Internet tạo điều kiện cho tôi cập nhật thông tin
mới một cách nhanh chóng và thuận tiện.
Đối với các cháu: Được học đúng độ tuổi, đa số các bạn ở lớp tôi đi học
đều và lễ phép.
2.2.2. Khó khăn
Hầu hết số trẻ được học qua lớp nhà trẻ rất ít, đa số trẻ mới được tiếp
cận với mơi trường tập thể, cịn nhút nhát, ỉ lại, phụ thuộc. Vì thế việc giáo
dục trẻ các nề nếp thói quen, hành vi văn minh gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh
đó, các cháu tuy cùng độ tuổi nhưng nhận thức lại khơng đồng đều, có nhiều
cháu sinh cuối năm và có nhiều cháu thể lực không tốt, một số cháu quá hiếu
động và nghịch nên cũng là một trong những nhân tố làm hạn chế kết quả của
hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho trẻ.
Phụ huynh nhận thức về giáo dục kĩ năng sống cho trẻ chưa rõ ràng.
Một số gia đình do ít con nên chiều chuộng vì thế dẫn đến việc trẻ khơng có
tính tự lập mà ln có tính ỷ lại vào người khác. Chính vì vậy việc phối hợp

với các bậc phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tơi gặp nhiều
khó khăn. Đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị phục vụ hoạt động đã có sự đầu tư
nhưng cịn hạn chế, chưa đồng bộ. Vì vậy không thu hút được hứng thú của
trẻ, làm hạn chế kết quả của hoạt động.
2.2.3. Kết quả khảo sát đầu năm học
Với thực trạng trên, qua việc khảo sát một số kĩ năng của trẻ tại thời
điểm đầu năm học cho kết quả như sau:
4

skkn


Kết quả khảo sát đầu năm

TT

1
2
3
4
5

6

Tổng
Kết quả
số trẻ
Đạt
Chưa đạt
được

khảo Số trẻ Tỉ lệ Số trẻ Tỉ lệ
(%)
(%)
sát

Nội dung khảo sát

Kỹ năng mạnh dạn trong giao
tiếp, tự tin thể hiện mình
Kĩ năng tự phục vụ chăm sóc
bản thân
Kĩ năng tuân thủ quy tắc
chung của lớp.
Kĩ năng hợp tác với các bạn
khi tham gia các hoạt động.
Kĩ năng ứng xử phù hợp với
những người xung quanh trẻ
Kĩ năng nhận biết và
phòng tránh những vận
dụng nguy hiểm, những
nơi khơng an tồn.

30

10

33

20


67

30

8

27

22

73

30

9

30

21

70

30

10

33

20


67

30

9

30

21

70

30

9

30

21

70

Nhìn vào kết quả khảo sát đầu năm cho thấy
- Số trẻ có kỹ năng mạnh dạn trong giao tiếp, tự tin thể hiện mình các bạn
khi tham gia các hoạt động cịn hạn chế. Tỉ lệ đạt ở mức thấp (33%). Mức độ
chưa đạt chiếm tỷ lệ cao, có tới 67% trẻ ở mức chưa đạt.
- Đặc biệt số trẻ có kĩ năng tự phục vụ chăm sóc bản thân và kĩ năng tuân
thủ quy tắc chung của lớp mới chỉ đạt 27%, có tới 73% trẻ chưa đạt…
- Số trẻ có kĩ năng nhận biết và phòng tránh những vận dụng nguy hiểm,
những nơi khơng an tồn. Tỉ lệ đạt ở mức thấp (30%). Mức độ chưa đạt chiếm tỷ

lệ cao, có tới 70% trẻ ở mức chưa đạt.
Đứng trước tình hình như vậy, tơi ln đắn đo suy nghĩ làm thế nào để
nâng cao kết quả giáo dục kĩ năng sống cho trẻ, tạo cơ hội để trẻ vận dụng kiến
thức kĩ năng vào thực tiễn cuộc sống, để những kĩ năng đó trở thành thuộc tính
vững chắc trong nhân cách trẻ. Qua nghiêm cứu tơi đã tìm ra được một số giải
pháp rèn kĩ năng sống cho trẻ 3- 4 tuổi có kĩ năng sống cơ bản nhằm giúp trẻ
biết cách tự chăm sóc và bảo vệ bản thân.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Giải pháp 1: Dạy trẻ biết cách tự chăm sóc và bảo vệ bản thân để
có thêm những kĩ năng sống cần thiết.
Dạy trẻ kĩ năng tự chăm sóc và bảo vệ bản thân là mở rộng những hiểu biết
của trẻ về những sự vật xung quanh mình và chỉ cách để trẻ bảo vệ mình antồn.
5

skkn


Trẻ có kĩ năng bảo vệ bản thân giúp trẻ tránh xa những mối nguy hiểm khi khám
phá thế giới xung quanh.
Dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của trẻ ta thấy khơng nên làm cho trẻ những
việc trẻ có thể tự làm được vì nếu ta làm hộ hết tất cả mọi việc cho trẻ ngay cả
những việc trẻ có thể tự làm được thì sẽ tạo cho trẻ một thói quen rất xấu đó là
trẻ chỉ biết sống phụ thuộc vào người khác. Trong xã hội hiện đại ngày nay thì
chúng ta càng cần phải dạy cho trẻ biết cách tự chăm sóc phục vụ bản thân
mình, đó là những kĩ năng tối thiểu cơ bản của mỗi cá nhân trẻ và giúp trẻ ngày
một hồn thiện mình hơn. Đầu năm, lớp tơi cịn rất nhiều trẻ chưa có kĩ năng tự
phục vụ bản thân như: Chưa biết cách thay quần áo, chưa biết cách xếp gối của
trẻ ngay ngắn và cịn để đồ dùng khơng đúng nơi quy định, cịn một số trẻ thì
xúc cơm cầm thìa bằng tay trái, thậm chí trẻ bị sổ mũi thì ngay lập tức trẻ lấy tay
quệt ngang mặt mà không cần nghĩ mình phải làm gì. Là một giáo viên điều đầu

tiên là tôi cần tập cho trẻ những kĩ năng nhỏ nhất giúp trẻ biết cách chăm sóc và
giữ gìn sức khỏe cho chính mình.
Ví dụ: Như trong các hoạt động ở lớp tôi luôn rèn kĩ năng sống tự
phục vụ bản thân như rèn luyện sự khéo léo của đơi bàn tay, sự kiên trì tính
kiên nhẫn, tơi cho trẻ bóc lạc, nhặt rau, vắt nước cam…giúp trẻ tích cực tham
gia vào hoạt động.

Hình ảnh: Bóc lạc và giã lạc

6

skkn


Hình ảnh: Vắt nước cam

Hình ảnh: Nhặt rau

Hay để giúp trẻ biết cách phòng tránh một số loại bệnh cho bản thân như
bệnh Covid 19, bệnh tay chân miệng…thì tơi cho trẻ biết phân biệt được các
đồ dùng cá nhân của trẻ bằng cách đánh dấu các ký hiệu cho trẻ dễ tìm như:
Khăn mặt, cốc uống nước, dép, ... Khi trẻ đã nhận biết được đâu là đồ dùng
của mình thì trẻ chỉ lấy đúng đồ dùng của mình để dùng chứ không dùng
chung với các bạn khác, đây là một thói quen rất tốt cho chính trẻ. Để thực
hiện được kĩ năng này, tôi đã cho trẻ thực hiện hàng ngày và nó cũng là một
nội dung trong chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ ở trường mầm non.
Do dịch bệnh đang diễn biến phức tạp ở trường mầm non Tân Sơn
BGH luôn sát sao trong công tác phịng chống dịch: Nhà trường thực hiện tốt
cơng tác vệ sinh, phun khử khuẩn tồn bộ khn viên nhà trường. Cô giáo và
học sinh thực hiện theo thông điệp “ 5K” của Bộ Y Tế , kết hợp với trạm y tế

phường kiểm tra, text nhanh covid trước khi đến lớp. Để dạy kĩ năng sống tự
chăm sóc bản thân như: Đeo khẩu trang, giữ khoảng cách với các bạn trong lớp,
rửa tay thường xuyên… Ở trường hàng tuần cho trẻ xúc miệng bằng nước muối
tuần 2 lần, cô hướng dẫn trẻ cách xúc miệng đúng cách. Khi đại dịch các con
không đến trường được tôi thường xuyên hướng dẫn trẻ các qua mạng internet
và các bài giảng video gửi hướng dẫn trẻ cách đeo khẩu trang khi ra ngồi và
rửa tay bằng xà phịng theo đúng các bước, khi ăn cơm khơng được nói chuyện
ăn xong biết lấy khăn lau miệng, ... Đây là công việc trẻ phải tự làm chứ khơng
thể nhờ ai làm hộ mình được và đó là kĩ năng khơng thể thiếu trong mỗi trẻ vì
nó cịn giúp trẻ hình thành hành vi và thói quen tốt cho trẻ sau này.
Các thói quen này chỉ hình thành ở mỗi cá nhân trẻ khi cơ cho trẻ hàng
ngày được thực hiện, nếu cắt bớt công đoạn đi thì chính cơ giáo đã khơng
truyền thụ được hết các kĩ năng cơ bản giúp trẻ chăm sóc tốt bản thân mình.
Ngồi việc dạy trẻ các kĩ năng tự chăm sóc và bảo vệ bản thân tơi cịn
dạy trẻ kĩ năng an toàn khi tự chơi. Đây là mối quan tâm lớn khi cô cho trẻ
chơi tự do ở xích đu, cầu trượt…Trong q trình chơi các con có thể gặp
những mối nguy hiểm từ những đồ chơi đó, cần phân biệt cho trẻ đâu là đồ
vật an tồn, và đâu là đồ vật khơng an tồn. Dạy trẻ kĩ năng bảo vệ bản thân
trước người lạ như: Không nhận quà, đồ ăn từ người lạ, không đi theo người
lạ trong bất kì trường hợp nào. Đặt ra các tình huống người lạ đến đón con
7

skkn


cần phải làm gì?. Trong hồn cảnh nguy hiểm, con cần la lớn, hoặc khóc lớn,
kêu gọi sự giúp đỡ từ những người xung quanh. Ngay khi ở trong lớp cơ dạy
trẻ một số kĩ năng phịng chống tai nạn thương tích như: Khơng xơ đẩy, đánh
nhau, khơng cho phép sử dụng những vật sắc nhọn để tránh gây thương tích
cho bản thân và những người xung quanh. Khơng chọc ngốy vào ổ điện,

nước sơi… Hay khi cho trẻ hoạt động trải nghiệm rèn cho trẻ kĩ năng không
cho hột hạt vào mũi, hay vẽ lên tường lớp. Dạy trẻ một số kĩ năng phòng
tránh đuối nước là việc làm rất cần thiết. Ở trường tơi có bể bơi dành cho trẻ,
vào những tháng cuối của năm học BGH sẽ phân lịch tắm cho các lớp tuần 2
lần. Trẻ rất thích khi được đi tắm. Khi đến lịch tơi ln rèn kĩ năng cho trẻ
trước và trong khi bơi phải tuân thủ và nghe theo sự hướng dẫn của cô để
tránh tai nạn đuối nước.

Hình ảnh trước và trong khi bơi
Sau một thời gian với sự cố gắng của cả cơ và trẻ thì trẻ lớp tơi đã hình thành
được các thói quen cơ bản để chăm sóc và bảo vệ chính bản thân mình như: Trẻ
đã phân biệt được đồ dùng cá nhân của mình, trẻ biết tự thay quần áo và gấp
chăn gối sau khi ngủ dậy. Trước giờ ăn cơm trẻ đã biết đi rửa tay bằng xà phịng,
đến giờ ăn trẻ đã biết cầm thìa bằng tay phải và xúc cơm gọn gàng không để
cơm rơi vãi ra bàn ăn, khi ăn xong trẻ đã biết đi lấy nước xúc miệng, lấy đúng kí
hiệu khăn của mình để lau miệng. Đặc biệt hơn trẻ biết phịng tránh một số tai
nạn thương tích khơng an tồn với bản thân.
2.3.2. Giải pháp 2: Tạo sự tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động góp
phần giáo dục kĩ năng sống cho trẻ
Việc xây dựng môi trường giáo dục kĩ năng sống là ý thức cao về giá trị
bản thân trẻ, giáo viên cần phải tin tưởng vào khả năng của trẻ, khơng áp đặt
suy nghĩ của mình lên trẻ, không suy nghĩ thay cho trẻ mà cần khơi dậy tiềm
năng của trẻ, hỗ trợ và phát triển tiềm năng này bằng thái độ thông cảm, tin
tưởng và tơn trọng trẻ. Hãy tỏ ra thích thú và vui mừng mỗi khi trẻ thể hiện
cho mình thấy trẻ đã tạo thành một kĩ năng mới và khen ngợi trẻ khi trẻ đạt
được mục tiêu mình đề ra. Tuy nhiên, khơng phải trẻ nào cũng có sự tự tin
ln mà cịn nhiều trẻ rất nhút nhát, khơng dám làm, dám nói, dám phát biểu
8

skkn



ý kiến vì sợ mình khơng làm được việc cơ giao, sợ bị cơ mắng, sợ bạn bè chê
cười. Vì vậy, tạo sự tự tin cho trẻ là rất cần thiết vì trẻ có tự tin trẻ mới làm
tốt tất cả mọi việc và tự tin còn giúp trẻ mạnh dạn hơn trong giao tiếp cũng
như trong các hoạt động sau này. Trong 9 thời điểm trong ngày tôi luôn tạo
điều kiện cho trẻ thể hiện sự tự tin ở mọi lúc mọi nơi. Sự tự khi đứng lên trả
lời, hay trẻ hát nhún nhảy theo lời ca, sự tin tin đứng trước đám đông…Muốn
tạo sự tự tin cho trẻ trước tiên cô phải nắm bắt được tâm lý của trẻ mọi lúc,
mọi nơi, luôn chú ý đến từng lời nói, hành động, cử chỉ gần gũi với trẻ, đối xử
công bằng với trẻ, luôn lấy trẻ làm trung tâm. Tạo cho trẻ sự gần gũi, tin
tưởng cô.
Trong chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ trên lớp thì hoạt động có chủ đích
là một trong những hoạt động để tơi tích hợp có hiệu quả nội dung giáo dục kĩ
năng sống cho trẻ, dựa vào nội dung của từng hoạt động để tích hợp một cách
hài hịa nhất.
Ví dụ: Qua hoạt động âm nhạc rèn trẻ tự tin, mạnh dạn khi đứng trước các
bạn để hát, nhún nhảy theo nhạc.

Hình ảnh Trẻ tự tin biễu diễn âm nhạc
Ngồi ra ở các góc chơi các kĩ năng của trẻ cũng đều có thể được củng cố
và phát huy.
Ví dụ: Qua góc chơi phân vai có nhóm: Bán hàng, Mẹ con, Nấu ăn trẻ học
được các kĩ năng như: Kĩ năng giao tiếp giữa người bán hàng và người mua
hàng, mẹ và con. Kĩ năng hợp tác (Trẻ biết chơi làm bác sĩ, biết trò chuyện, chia
sẻ với bạn cùng chơi), kĩ năng chăm sóc (nấu món ăn ngon cho mọi người, xúc
bột cho em bé ăn)…
Ngồi ra ở các góc chơi khác các kĩ năng của trẻ cũng đều có thể được
củng cố và phát huy.
Ví dụ: Ở nhóm chơi “Bác sĩ” trẻ biết tự phân vai chơi, biết nhiệm vụ của

bác sĩ là phải khám bệnh khi bệnh nhân đến hay góc chơi xây dựng, trẻ có kĩ
năng hợp tác và làm việc theo nhóm. Với trẻ lớp tơi, các cháu đã biết tự phân vai
chơi cho nhau và chơi rất đồn kết, khơng tranh giành đồ chơi lẫn nhau và đã
biết cùng nhau tạo nên những cơng trình đẹp.

9

skkn


Hình ảnh: Nhóm chơi bác sĩ
Hình ảnh: Góc chơi xây dựng
Ví dụ: Cũng như qua một số biện pháp lồng ghép vào giáo dục kỹ năng
sống trong các hoạt động hàng ngày như:
Thơng qua giờ đón trả trẻ: Tơi nhận thấy việc dạy kỹ năng chủ yếu ở hoạt
động này là kỹ năng tự phục vụ và kỹ năng giáo dục lễ giáo: Cất giầy dép, ba lô,
chào cô, chào bố mẹ. Ngồi ra tơi cịn trị chuyện hoặc kể cho trẻ nghe các câu
chuyện thông qua giáo dục và khắc sâu kỹ năng sống cho trẻ. Bằng cách đặt ra
các câu hỏi ứng xử như: Lúc bố mẹ đón con như thế nào? Chào những ai chào
như thế nào? Khi đi trong trường gặp các cô các bác trong trường con như thế
nào? Khi đi thăm ông bà các con phải như thế nào?
Thông qua các hoạt động sự tự tin của trẻ còn được thể hiện khá rõ rệt, nếu
trẻ càng có tính tự tin bao nhiêu thì trẻ càng phát huy tốt năng lực của mình bấy
nhiêu. Trẻ có tự tin vào mình thì trẻ mới hăng hái phát biểu ý kiến, bên cạnh đó
có những trẻ có thể trả lời được câu hỏi của cơ nhưng trẻ lại không dám giơ tay
phát biểu, phải chăng trẻ nhút nhát sợ mình trả lời sai! Tơi ln tìm hiểu nguyên
nhân và có hướng khắc phục cho cá nhân trẻ để trẻ mạnh dạn, tự tin hơn. Đối
với các giờ học nói chung và giờ tạo hình nói riêng tơi ln chú ý động viên,
khen ngợi trẻ là chính, hạn chế chê trẻ vì chê trẻ nhiều trẻ sẽ thấy thiếu tự tin và
dần dần trẻ không hứng thú khi học nữa.

Như trong các hoạt động ở lớp tôi luôn rèn kĩ năng sống cho trẻ như rèn
tôn trọng cũng chính là động lực tâm lý đầu tiên sinh ra sự tự tin, trẻ khơng
được tơn trọng thì trẻ sẽ mất dần sự tự tin trong chính bản thân trẻ. Đối với
trẻ có lẽ trẻ chưa hiểu được sự tơn trọng là gì mà trẻ chỉ hiểu rằng những việc
mà trẻ làm được sẽ được cô và các bạn khen ngợi để lần sau trẻ tiếp tục phát
huy. Nắm bắt được tâm lý này cho nên tôi luôn tôn trọng trẻ, khích lệ trẻ để
tạo thêm sự tự tin cho trẻ, nhưng bên cạnh đó tơi khơng q khen ngợi trẻ để
dẫn đến việc trẻ kiêu ngạo. Khi trẻ đã có sự tự tin thì mọi hoạt động sẽ đem
lại kết quả cao. Trẻ nhỏ không tránh khỏi mắc phải sai lầm, trẻ có mắc phải
sai lầm thì trẻ mới trưởng thành hơn trong cuộc sống. Cách hoàn hảo nhất để
xây dựng sự tự tin cho trẻ chính là cho trẻ thấy sự yêu thương vô điều kiện
của cô dành cho trẻ. Rất nhiều bậc phụ huynh cũng như cô giáo khi trẻ mắc
lỗi thường to tiếng và quát mắng trẻ. Những hành động đó sẽ ít nhiều ảnh
10

skkn


hưởng đến sự phát triển tâm lý của trẻ, trẻ mất tự tin vào chính bản thân
mình. Thay vào sự to tiếng và quát mắng bằng những lời an ủi: “Cơ biết con
có thể làm được mà, lần sau con cố gắng hơn”. Khi trẻ mắc lỗi tôi từ từ phân
tích giúp trẻ nhận ra những cái đúng, cái sai từ đó trẻ rút ra bài học cho chính
mình, và đó là điều cơ giáo đang tơn trọng chính cá nhân trẻ.
Hoạt động ngoài trời và hoạt động văn nghệ thể thao là hoạt động
không thể thiếu trong trường mầm non đây là món ăn tinh thần giúp trẻ tự
tin trong giao tiếp và giúp trẻ phát huy những khả năng riêng biệt. Trong tất
cả các hoạt động của lớp tơi đều khuyến khích tất cả trẻ cùng tham gia, đặc
biệt khi múa hát các bạn trai thường thiếu tự tin tham gia tập cùng các bạn
gái mà lớp tôi tỉ lệ cao hơn bạn trai nên tôi thường phải động viên trẻ để trẻ
tham gia, lúc đầu trẻ tập luyện có thể chưa tốt, tơi khơng vội vàng chê trẻ mà

nhẹ nhàng hướng dẫn lại theo từng bước cho đến khi trẻ khá hơn rồi nhẹ
nhàng động viên trẻ làm tiếp.
Hàng tháng trường tôi luôn sinh hoạt cuối chủ đề, để trẻ được trải nghiệm
những kĩ năng như: Kĩ năng giao tiếp: Giao tiếp với bạn bè, với cô, với các chú
công an giao thông. Kĩ năng tuân thủ luật giao thông đường bộ: Đi bên tay phải,
khi đi ra đường phải có người lớn dắt, khi ngồi trên xe máy phải đội mũ bảo
hiểm. Kĩ năng hợp tác: Trẻ biết chơi cùng bạn, chia sẻ đồ chơi với bạn, giúp đỡ
bạn khi cần thiết, cùng bạn hoàn thành việc đơn giản, tìm sự giúp đỡ của bạn khi
cần. Điều quan trọng hơn là tạo sự tự tin khi trẻ đứng trước đám đông đồng thời
giúp phụ huynh được trải nghiệm cùng trẻ để phối hợp cùng cô và nhà trường
trong việc rèn kĩ năng sống cho trẻ.

Hình ảnh: Sinh hoạt cuối chủ đề Giao Thơng
Kích thích sự tị mò ở trẻ cũng là một cách hay để giúp trẻ trở nên tự tin
hơn. Bởi vì đó là lúc trẻ khám phá thế giới xung quanh và kiểm nghiệm xem
mình có thể làm gì. Tất nhiên là những lúc trẻ tìm tịi, khám phá như vậy cơ giáo
cần phải ln theo sát để đảm bảo an tồn cho trẻ. Nhưng để có thể giúp trẻ học
được một kĩ năng mới, tôi không trực tiếp tham gia vào hoạt động của trẻ mà tạo
điều kiện để trẻ tự trải nghiệm. Để phát triển lịng tự tin của trẻ, tơi quan sát
những đặc tính nổi bật ở mỗi trẻ và khuyến khích trẻ tham gia vào các hoạt động
thích hợp với năng khiếu của bản thân. Cho nên tôi đề xuất với ban giám hiệu
cùng với các bậc phụ huynh cho trẻ đi thực hiện trải nghiệm cuộc sống ở trang
trại Giáo Dục và Sinh học hữu cơ T.Fam và Doanh trại tiểu đoàn C40. Trẻ được
thực hiện rất hứng thú qua các hoạt động giúp trẻ tự tin hơn.
11

skkn


Hình ảnh: Trẻ học gói bánh trưng


Hình ảnh: Chú bộ đội tập

Hình ảnh: Trẻ cắm hoa

Hình ảnh: Hướng dẫn trẻ xúc đất

2.3.3.Giải pháp 3: Tạo môi trường giao tiếp phong phú để giáo dục kĩ
năng sống cho trẻ.
Dạy trẻ mầm non kĩ năng giao tiếp là rất cần thiết nhưng cô giáo cũng cần
phải xác định được sẽ dạy trẻ các kĩ năng giao tiếp nào. Trẻ đến trường người
đầu tiên trẻ được giao tiếp là cô, rồi đến các bạn trong lớp và các cơ, các bác
trong trường. Hình thành kĩ năng giao tiếp cho trẻ không phải là dạy trẻ nói
nhiều mà dạy trẻ cách giao tiếp và ứng xử như thế nào cho đúng. Môi trường
giao tiếp mà ln an tồn, thân thiện thì sẽ tạo cho trẻ sự yên tâm, hứng thú khi
tham gia vào các hoạt động. Trong lớp việc bố trí các góc chơi cũng rất quan
trọng vì khi trẻ tham gia vào các góc chơi cũng chính là lúc trẻ đang học cách
giao tiếp với các bạn.
12

skkn


Tôi luôn chú ý tạo môi trường giao tiếp thật tốt để trẻ có cảm giác thật
thoải mái khi đến lớp và trẻ có nhu cầu giao tiếp bằng lời. Có nghĩa là trong tất
cả mọi hoạt động một ngày của trẻ ở lớp, tơi ln dùng nhiều trị chơi, câu đố để
khích lệ trẻ tham gia, qua đó sẽ giúp trẻ tự tin hơn, cởi mở hơn trong giao tiếp.
Tơi ln có cuốn sổ tay ghi chép, ghi lại đặc điểm, tâm lí của trẻ để tơi nắm bắt
những sở thích, tính cách, và những trẻ nhút nhát trong giao tiếp, hay những trẻ
có kĩ năng giao tiếp tốt để tơi có biện pháp phù hợp. Bên cạnh đó tơi phải động

viên khuyến khích, gần gũi với trẻ để tạo niềm tin cho trẻ từ đó trẻ mới cởi mở,
giao tiếp cùng cơ và các bạn.
Ví dụ: Lớp tơi có một số cháu như cháu Nhân và cháu Hải rất ít nói và ít
tham gia vào các hoạt động của lớp do cháu quá nhút nhát. Với những trẻ cịn
nhút nhát, ít tham gia vào các hoạt động thì tôi gần gũi với trẻ, tạo niềm tin
cho trẻ , nắm bắt được sở thích của trẻ để trẻ giao tiếp cùng cơ và khuyến
khích cho trẻ tự tin khi trẻ trả lời trước các bạn.
Bầu khơng khí lớp học cũng ảnh hưởng tới sự giao tiếp của trẻ, khi trẻ nhìn
thấy cơ cáu gắt thì trẻ sẽ có cảm giác sợ, khơng giám nói nữa. Vì vậy khi lên lớp
tôi tôi luôn tạo cảm giác thoải mái cho trẻ để trẻ mạnh dạn giao tiếp. Lớp tơi
khơng cịn trẻ nói ngọng, tuy nhiên vẫn cị vài trẻ nói lắp do trẻ nói nhanh gây
khó khăn cho trẻ khi trẻ muốn giải thích một vấn đề nào đó. Lúc này tơi nhẹ
nhàng khuyến khích trẻ nói lại điều trẻ đang muốn nói, tơi khơng ngắt ngang lời
trẻ đang muốn nói vì như vậy là đang tỏ ra khơng tơn trọng ý trẻ.
Tôi luôn chú ý tạo điều kiện cho trẻ nói lên ý kiến của mình và dành thời
gian để lắng nghe trẻ nói, hiểu về những gì trẻ đang suy nghĩ và mong muốn.
Theo tôi trẻ sẽ không bao giờ nói lên ý kiến của mình khi người lớn khơng lắng
nghe trẻ nói, khi người khác chú ý lắng nghe trẻ thì trẻ sẽ thấy được giá trị của
bản thân. Nếu cô giáo không chú ý lắng nghe trẻ nói trẻ sẽ tin rằng chảng có ai
nghe trẻ nói và dần dần trẻ ngại giao tiếp với mọi người xung quanh.
Môi trường giao tiếp trong lớp ảnh hưởng tới trẻ rất nhiều, là cô giáo chủ
nhiệm nên tôi luôn giao tiếp với trẻ trong tất cả mọi hoạt động và chú ý cách nói
của mình sao cho đúng mực vì trẻ học giao tiếp qua người khác rất nhanh.
Trẻ khơng chỉ học giao tiếp từ cơ mà trẻ cịn học giao tiếp từ các bạn của
trẻ. Vì vậy tơi luôn tạo điều kiện cho trẻ được giao tiếp giữa các trẻ với nhau
thông qua các hoạt động học cũng như hoạt động vui chơi. Trẻ càng được giao
tiếp với nhau nhiều thì trẻ càng được mở rộng vốn kiến thức và trẻ ngày một tự
tin hơn trong giao tiếp.
Ví dụ: Giờ hoạt động ngồi trời trẻ lớp tơi rất thích tham gia và tham gia rất
sơi nổi vì trẻ được chơi theo ý thích, có những nhóm trẻ thường rủ nhau chơi

xích đu và kể cho nhau nghe những câu chuyện trẻ biết, có nhiều trẻ thì lại thích
nhặt lá ở sân trường và bỏ rác vào đúng nơi quy định. Lúc này tôi thường quan
sát xem các trẻ giao tiếp với nhau như thế nào và cách nói chuyện của trẻ đã
đúng chưa, nếu chưa đúng tôi nhẹ nhàng nhắc nhở trẻ để trẻ nhận ra cách nói
của mình là khơng đúng và tơi giúp trẻ sửa sai.
Ngồi ra tơi cịn sử dụng các trị chơi dân gian để tạo mơi trường giao tiếp
cho trẻ vì mỗi một trò chơi dân gian thường giúp trẻ thực hành 1-3 kĩ năng sống.
13

skkn


Ví dụ: Trị chơi “Chi chi chành chành” tập cho trẻ kĩ năng phát âm rõ ràng, thân
thiện với bạn, phối hợp vận động tinh khéo; trò chơi “ Dung dăng dung dẻ” tập cho trẻ
kĩ năng phát âm rõ ràng, thân thiện, phối hợp vận động cơ bản, hợp tác với bạn bè; trị
chơi “Trốn tìm” tập cho trẻ kĩ năng phối hợp các vận động cơ bản, lắng nghe, quan
sát… Tơi ln chú ý chọn những trị chơi dân gian gần gũi và phổ biến ở địa phương,
phù hợp với những kĩ năng sống mang tính giáo dục để chơi cùng trẻ hoặc hướng dẫn
trẻ chơi cùng nhau. Khi tổ chức cho trẻ chơi tôi không quan trọng kết quả thắng thua
mà chỉ nhắc nhở để trẻ chơi đúng luật và quan trọng hơn cả là thông qua mỗi trò chơi
giáo dục kĩ năng sống cần thiết cho trẻ.
Vui chơi là hoạt động có ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành và phát
triển nhân cách trẻ. Một ngày ở lớp, trẻ ở bên nhau và nảy nở mối quan hệ với
mọi người xung quanh. Trẻ thể hiện được những hành vi ứng xử về giao tiếp và
bộc lộ cá tính của mình. Qua đó giáo viên có thể phát hiện những mặt mạnh, mặt
yếu của trẻ để kịp thời giáo dục trẻ hoặc phát huy những tính cách tốt ở trẻ. Vì
vậy, việc giáo dục lễ giáo cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi là rất cần thiết.
Ví dụ: Tập cho trẻ chơi các trị chơi ngồi trời cơ có thể hướng dẫn trẻ
cách chơi sao cho khéo léo khơng bị ngã như đi trên xích đu.
Như vậy, giáo dục kĩ năng sống cho trẻ có thể tiến hành trong tất cả các

hoạt động giáo dục hàng ngày như: Vui chơi, học tập, chăm sóc sức khỏe, lao
động vừa sức, lễ hội, tham quan… Mỗi hoạt động có những yêu thế riêng đối
với việc dạy những kĩ năng sống cần thiết với cuộc sống của trẻ. Để có được
những kĩ năng sống thì trẻ cần phải có thời gian, trong một quá trình tập luyện
thường xuyên với sự hỗ trợ của cô giáo, bạn bè và gia đình.
2.3.4. Giải pháp 4: Phối hợp với phụ huynh để giáo dục kĩ năng sống cho trẻ.
Ngoài việc thực hiện các biện pháp giáo dục trên, tôi luôn ý thức được tầm
quan trọng của việc phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường vì gia đình là
trường học đầu tiên đối với trẻ. Mặt khác việc dạy kĩ năng sống cho trẻ không
phải là chuyện một sớm một chiều mà là cả một quá trình. Các kĩ năng sống
phải được giáo dục, rèn luyện một cách đồng nhất thì mới bền vững và thành kỹ
xảo. Nếu chỉ dạy kĩ năng sống cho trẻ ở trường thơi thì chưa đủ. Bên cạnh đó,
mơi trường gia đình rất thích hợp để giáo dục kĩ năng sống cho trẻ. Trẻ được
tiếp thu các kĩ năng thơng qua gia đình một cách tự nhiên, nhẹ nhàng mà lại hiệu
quả cao. Đặc biệt hiện nay nuôi dạy con luôn là mối quan tâm hàng đầu của các
bậc phụ huynh, ai cũng muốn con mình đạt được những thành tích cao trong học
tập cũng như trưởng thành hơn về mặt nhân cách. Tuy nhiên việc làm thế nào để
có thể giúp trẻ phát huy được khả năng tiềm ẩn? Làm thế nào để trẻ có những kĩ
năng sống tốt nhất thì nhiều phụ huynh vẫn còn lúng túng trong vấn đề này.
Giáo viên là người được trang bị những tri thức khoa học về nuôi dạy trẻ, là
người gần gũi trẻ trong suốt cả ngày nên đã phát hiện ra những nét đẹp hay
những hành vi chưa tốt của mỗi trẻ và có khả năng tìm ra các biện pháp giáo
dục, các cách giải quyết phù hợp với quy luật phát triển tâm sinh lý của trẻ.
Chính vì vậy mà tơi phải tun truyền đến các bậc phụ huynh để họ hiểu tầm
quan trọng của kĩ năng sống, những kiến thức cần dạy trẻ, phương pháp dạy trẻ
như thế nào để trẻ tiếp thu một cách thoải mái, tự nhiên. Thông qua bảng tuyên
truyền, hay ở những giờ đón trả trẻ tơi thường trị chuyện với các bậc phụ huynh
14

skkn



về các cách giáo dục kĩ năng sống cho trẻ, ngồi ra tơi cịn mời phụ huynh tham
quan hoặc tham gia trực tiếp vào các hoạt động của lớp hay thơng qua các buổi
họp phụ huynh trị chuyện, trao đổi nhằm giúp phụ huynh có thêm những kiến
thức để giáo dục kĩ năng sống cho trẻ tại gia đình.
Cụ thể: Ở hoạt động đón trẻ, tơi đã trao đổi với phụ huynh về tình hình sức
khoẻ, vệ sinh cá nhân, những kĩ năng trẻ đang có để cùng phụ huynh có những
biện pháp giáo dục trẻ, giúp trẻ chủ động trong các hoạt động.
Thông qua bảng tuyên truyền với phụ huynh: Bảng được trang trí đẹp mắt,
kích thước to rõ, các phụ huynh có thể đọc, quan sát theo dõi dễ dàng. Đây là
nơi trao đổi thông tin với phụ huynh rất hiệu quả. Theo từng chủ đề tôi đã đánh
máy nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mà cô đang dạy trẻ ở trên lớp để
phụ huynh tiện theo dõi.
Ngồi ra tơi cịn xây dựng góc tun truyền các bậc cha mẹ tại nhóm lớp,
các nội dung lễ giáo phải được thay đổi theo từng chủ đề, từng tháng, hình thức
hấp dẫn tạo được sự chú ý của phụ huynh khi đưa trẻ đến lớp.

Hình ảnh: Bảng tuyên truyền với phụ huynh
15

skkn


Thông qua các buổi họp phụ huynh, tôi cũng đã chủ động lồng ghép nội
dung giáo dục kĩ năng sống cho trẻ đến các bậc phụ huynh. Các phụ huynh đã
tiếp nhận thông tin một cách đồng bộ.
Những biện pháp trên đã làm thay đổi cơ bản từ phía phụ huynh: Cha mẹ
ln coi trọng trẻ và tích cực phối hợp với giáo viên để dạy kĩ năng sống cho trẻ.
Đặc biệt là giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số phụ huynh dịu dàng,

ít quát mắng trẻ, chú ý đến lời ăn tiếng nói, thay đổi trong cách rèn kĩ năng sống
cho trẻ, phân việc cho trẻ, khơng cưng chiều trẻ một cách thái q.
Ngồi các biện pháp chính nêu trên để có được kết quả tốt thì tơi cịn sử
dụng các biện pháp khác hỗ trợ như: Hướng dẫn trẻ cách hợp tác với các bạn
trong nhóm để rèn kĩ năng sống, giáo dục các kĩ năng sống cho trẻ ở mọi lúc,
mọi nơi, chú ý đánh giá kĩ năng sống cho trẻ thường xuyên. Bên cạnh rèn kĩ
năng sống ở trường thì ở nhà phụ huynh tạo điều kiện cho con rèn kĩ năng sống
như; tự xúc ăn, tự gấp quần áo, giúp bố mẹ lấy bát thìa.. Đồng thời bố mẹ cùng
tham gia các hoạt động dã ngoại, sinh hoạt cuối chủ đề, các hoạt động ngày lễ,
ngày gia đình để có biện pháp phối hợp cùng cô trong việc rèn kĩ năng sống cho
trẻ tốt hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục:
Sau một năm thực hiện các biện pháp trên, cùng với sự ủng hộ và giúp đỡ
nhiệt tình của phụ huynh, nhà trường, các bạn đồng nghiệp và đặc biệt là sự cố
gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân. Vì vậy kết quả khảo sát cuối
năm trẻ lớp tơi có những chuyển biến rõ rệt như sau:
* Kết quả khảo sát cuối năm cho thấy

T
TT

1
2
3
4
5

Tổng

số trẻ
Đạt
được
khảo sát Số trẻ Tỉ lệ
(%)

Nội dung khảo sát

Kỹ năng mạnh dạn trong giao
tiếp, tự tin thể hiện mình
. Kĩ năng tự phục vụ chăm
sóc bản thân.
3. Kĩ năng tuân thủ quy tắc
chung của lớp.
Kỹ năng hợp tác với các bạn
khi tham gia các hoạt động
Kĩ năng ứng xử phù hợp với
những người xung quanh trẻ.

Kết quả
Chưa đạt
Số
trẻ

Tỉ lệ
(%)

30

29


97

1

3

30

29

97

1

3

30

28

93

2

7

30

29


97

1

3

30

28

93

2

7

16

skkn


6

6. Kĩ năng nhận biết và
phòng tránh những vận dụng
nguy hiểm, những nơi khơng
an tồn.

30


30

100

0

0

Kết quả khảo sát cuối năm cho thấy
- Số trẻ có kỹ năng mạnh dạn trong giao tiếp, tự tin thể hiện mình với các
bạn khi tham gia các hoạt động đã tăng lên rõ rệt. Tỉ lệ đạt 97% tăng 64% so với
đầu năm.
- Số trẻ có kĩ năng tự phục vụ chăm sóc bản thân và kĩ năng tuân thủ quy
tắc chung của lớp tỉ lệ đạt đã tăng lên 97% tăng 70% so với đầu năm.
- Kĩ năng ứng xử phù hợp với những người xung quanh trẻ đạt 93%
- Đặc biệt số trẻ có kĩ năng nhận biết và phịng tránh những vận dụng nguy
hiểm, những nơi khơng an tồn đạt tỉ lệ 100% tăng 70% so với đầu năm.
Kết quả này đã chứng minh ưu điểm của việc thực hiện có hiệu quả các
biện pháp trên. Trẻ lớp tơi đã có được những kĩ năng sống cơ bản, cần thiết
của lứa tuổi này. Đồng thời cũng lĩnh hội được những kỹ năng kỹ xảo, thói
quen hành vi, nếp sống văn hố, làm nền tảng cho việc phát triển nhân cách
trẻ toàn diện.
2.4.2. Đối với bản thân:
Bản thân nắm được đặc điển tâm sinh lý của độ tuổi, qua việc tổ chức hoạt
động giáo dục kĩ năng sống cho trẻ tôi cũng có điều kiện để rèn luyện các kĩ
năng sống của mình, có một số kinh nghiệm và tự tin hơn khi tổ chức các hoạt
động giáo dục cho trẻ trong đó có hoạt động giáo dục kĩ năng sống. Trong giảng
dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn, mạnh dạn, tự tin
điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị, phối hợp chặt

chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ trẻ.
Sự chuyển biến tích cực từ phía trẻ đã làm cho phụ huynh cảm thấy vui
mừng, phấn khởi, tin tưởng vào kết quả giáo dục của nhà trường. Các bậc phụ
huynh đã có thói quen phối hợp với giáo viên, tích cực tham gia các hoạt động
giáo dục trẻ ở nhà trường.
2.4.3.Đối với đồng nghiệp và nhà trường:
Để hoàn thành được sáng kiến kinh nghiệm tôi đã nhận được sự quan tâm
giúp đỡ từ phía ban giám hiệu trường mầm non Tân Sơn, chuyên môn của nhà
trường, đồng nghiệp luôn quan tâm và hỗ trợ tôi kịp thời mọi lúc mọi nơi. Đó
chính là động lực thúc đẩy tơi để tơi càng phải cố gắng hết mình hồn thiện thật
tốt sáng kiến kinh nghiệm của mình.
Một số biện pháp dạy trẻ 3-4 tuổi có kĩ năng sống cơ bản nhằm giúp trẻ biết
cách tự chăm sóc và bảo vệ bản thân, tôi đã thực hiện ở lớp C3 đạt hiệu quả và
được áp dụng vào thực tế hoạt động giảng dạy trong tồn trường. Chính vì vậy
đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua quá trình thực hiện đề tài, tơi nhận thấy đa số trẻ có kĩ năng mạnh dạn
trong giao tiếp, tự tin thể hiện mình. Kĩ năng tự phục vụ chăm sóc bản thân, kĩ
17

skkn


năng hợp tác, ứng xử phù hợp với những người xung quanh. Đặc biệt hơn trẻ có
kĩ năng nhận biết và phòng tránh những vận dụng nguy hiểm, những nơi khơng
an tồn...Trẻ và phụ huynh nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng
sống cho trẻ.
Từ những việc làm cụ thể và kết quả đạt được tôi đã rút ra được một số
kinh nghiệm sau:

Bản thân tôi luôn khích lệ trẻ trong mọi hoạt động để giúp trẻ tự tin vào
chính mình.
Để làm tốt được nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đòi hỏi giáo viên
phải có lịng u nghề, mến trẻ, có tinh thần trách nhiệm cao trong cơng việc.
Đặc biệt phải có vốn kiến thức, có kinh nghiệm, biết xây dựng và sử dụng linh
hoạt các biện pháp, thủ thuật đề ra.
Điều cần làm trước hết người lớn, cô giáo phải là tấm gương sáng, yêu
thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo công bằng cho trẻ.
Việc học của trẻ ln được người lớn khích lệ, Cơ là người cần tạo điều
kiện cho trẻ vừa học, vừa chơi, không nên áp đặt mọi thứ trong một khuôn khổ
nhất định, không ép trẻ học quá nhiều gây áp lực cho trẻ.
Người lớn, cô giáo không nên quát mắng trẻ mà hãy kiên trì, quan tâm,
động viên cho trẻ làm được việc đó, tạo sự tin tưởng để trẻ cố gắng lần sau.
Cô cần phối kết hợp với phụ huynh để giáo dục kĩ năng sống cho trẻ.
Cô cần tạo môi trường, tạo cơ hội để trẻ được trải nghiệm,giúp trẻ có thêm
kĩ năng sống tốt.
3.2. Kiến nghị
Để nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở trường
nên trong q trình giảng dạy, tơi có một số ý kiến đề xuất như sau:
Đối với nhà trường: Cần làm tốt hơn nữa công tác tham mưu với chính
quyền địa phương, tăng cường về cơ sở vật chất như đồ dùng dạy học, đồ chơi
phong phú và đa dạng. Cho trẻ đi tham quan dã ngoại để tạo điều kiện cho việc
tổ chức các hoạt động rèn kĩ năng sống cho trẻ được tốt hơn.
Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo Thành Phố: Tổ chức cho giáo viên
được đi tham quan để mở rộng hiểu biết và học phương pháp giáo dục kĩ năng
sống cho giáo viên. Tổ chức các tiết dạy mẫu nhằm tạo điều kiện cho giáo viên
được học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi đã triển khai thực hiện. Rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học các cấp để đề tài này ngày
một hoàn thiện hơn, thực hiện tốt hơn trong những năm học tiếp theo.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

18

skkn


XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ.

Thanh Hóa, ngày 01 tháng 4 năm 2022
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, khơng sao chép
nội dung của người khác
Người thực hiện

Trần Thị Thanh Thủy

XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Cẩm nang kỹ năng sống cho mọi nhà mọi lứa tuổi (Tác giả: Vũ Tươi, Hữu
Đại - Nhà xuất bản thế giới năm 2017).
[2]. Kĩ năng dạy trẻ cách vệ sinh - Nguồn Iternet
[3]. Kĩ năng dạy trẻ giao tiếp - Nguồn Iternet
[4]. Kĩ năng dạy trẻ biết tự phục vụ - Nguồn Iternet
[5]. Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ 3 - 4 tuổi nhà xuất bản giáo dục năm 2017.
[6]. Modulemn 39: Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo (Tác giả Lê Bích Ngọc)

19


skkn


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO XẾP LOẠI
Họ và tên tác giả: Trần Thị Thanh Thủy
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường mầm non Tân Sơn
TT
1

2
3

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá Kết quả đánh
xếp loại
giá xếp loại

Hội đồng
Một số kinh nghiệm giáo
khoa học giáo
dục trẻ thích nghi với mơi
dục Thành
trường ở trường mầm non
phố đánh giá
Giáo dục lễ giáo trong các Hội đồng
hoạt động cho trẻ mẫu khoa học giáo

giáo 3-4 tuổi tại trường dục Thành
mầm non
phố đánh giá
Một số biện pháp Hội đồng
giúp trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi khoa học giáo
tích cực vận động để phát dục Thành
triển thể chất ở trường phố đánh giá

Năm học
đánh giá
xếp loại

B

2013 - 2014

B

2018-2019

B

2020-2021

20

skkn


mầm non ” .


21

skkn



×