Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

CÁI QUẠT TRONG CÁC TÁC PHẨM MỸ THUẬT docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.05 KB, 10 trang )






CÁI QUẠT



Năm 1949 họa sỹ Sỹ Ngọc vẽ bức tranh Cái bát. Bức tranh sơn mài nổi tiếng này
hiện đang lưu giữ tại bảo tàng Mỹ thuật quốc gia. Bức tranh thể hiện tình quân dân
cá nước. Hai nhân vật trong tranh là anh bộ đội và một bà mẹ nông thôn. Đó là một
câu chuyện thời chiến rất bình thường, có đoàn vệ quốc quân qua làng, có những
“mẹ già bịn rịn áo nâu-vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về” (Hoàng Trung Thông).
Anh bộ đội nhận lấy bát nước từ tay mẹ. Người mẹ già trìu mến vừa nhìn anh bộ
đội, tay không ngừng phe phẩy chiếc quạt giấy. Chưa bao giờ mà nền son sơn mài
lại nóng bức và oi ả đến vậy. Bức tranh cũng có thể có những cái tên như Tình
quân dân, Trên đường hành quân, Các anh về, Qua làng, Nhớ bủ hay Trưa hè
nhưng họa sỹ đã chọn một cái tên rất giản dị: Cái bát. Cái bát chỉ là “đạo cụ” trong
câu chuyện này, nhưng nó trở thành tâm điểm của bức tranh. Cái bát gốm mộc
mạc, dáng thô thô nhưng chứa đựng cả cái ước nguyện hòa bình, một biểu tượng
của gia đình. Thời chinh chiến, lính tráng uống nước trong bi đông, ngang qua suối
vục tay làm bát. ở cái thủa mỹ thuật của những hoạt cảnh, Cái bát là một ngoại lệ.
Sau nửa thế kỷ nhìn lại chúng ta càng thấy sự độc đáo của tác phẩm. Bức tranh nổi
tiếng không vì cái tên, nhưng tên tranh đã thể hiện được tư duy sáng tạo của người
nghệ sỹ.
Trở lại bức tranh Cái bát, sự xuất hiện của cái quạt trong ty người mẹ, cho ta ước
đoán rằng bà mẹ đã đưa cho anh bộ đội bát nước chè xanh (hoặc chè vối) nóng.
Chiếc quạt giấy vẫn giống như những chiếc quạt giấy còn bán ở bến tàu bến xe
hiện nay. Xương quạt làm bằng tre, giấy bồi nhuộm mầu tím Huế, có dập các lỗ
châm kim hình hoa văn. Làng Vác (Hà Tây) hay Phương Ngạn (Triệu Phong,


Quảng Trị) đã từ lâu nổi tiếng với các sản phẩm quạt giấy. Nhưng sẽ ra sao nếu
không phải là chiếc quạt giấy? Mà là chiếc quạt nan! So với chiếc quạt giấy thì
quạt nan quê mùa hơn, chất phác hơn và cũng có lịch sử lâu đời hơn. Chiếc quạt
giấy liên quan tới công nghệ giấy, vì thế nó không thể xuất hiện ở Việt Nam trước
thế kỷ thứ nhất sau CN(1) .
Chiếc quạt nan hình thang là hình dạng cổ truyền và phổ biến nhất ở Bắc Trung bộ.
Tôi đã tự thử thay chiếc quạt giấy bằng quạt nan, hiệu quả thị giác không khác
nhau là bao, nhưng có sự thay đổi về hàm lượng văn hóa. Nếu bên anh bộ đội,
không phải bà mẹ mà là một cô thôn nữ, chắc chiếc quạt giấy sẽ hợp hơn. Người
viết cảm thấy có sự sự băn khoăn trong sự lựa chọn ở họa sỹ. Tư thế cầm quạt của
bà mẹ là tư thế cầm quạt nan không phải là tư thế cầm quạt giấy. Khi cầm quạt
giấy, ngón cái ngửa ra ngoài, bốn ngón còn lại hướng vào trong, vì quạt giấy quạt
bằng cổ tay chứ không quạt bằng cánh tay như quạt nan.
Khi Hồ Xuân Hương có hai bài thơ Vịnh cái quạt nữ thi sỹ họ Hồ này đã vịnh quạt
giấy. Ngoại trừ sự tương đồng của hình ảnh “ chành ra ba góc da còn thiếu, khép
lại đôi bên thịt vẫn thừa” của chiếc quạt rất nhiều ngụ ý, thì chiếc quạt giấy nó vốn
là một vật gắn bó với tầng lớp trên của xã hội hơn. Nên quả không ngoa khi bà viết
rằng: “ mát mặt anh hùng khi tắt gió - che đầu quân tử lúc sa mưa”, hay là “ hồng
hồng má phấn duyên vì cậy - chúa dấu, vua yêu một cái này”.
Tản mạn về chiếc quạt nan. Chiếc quạt nan mang dấu ấn của Văn hóa tre nứa. Tôi
vẫn đinh ninh rằng chiếc quạt tre hình thang là một nét văn hóa cổ truyền của
người Việt và nó thể hiện một thứ văn hóa nông dân của các cư dân nông nghiệp.
Trung Quốc là một trong những cái nôi văn minh thế giới, lịch sử quạt của Trung
Quốc có từ rất sớm (từ đời Thương, khoảng từ thế kỷ 17 - tk 11 TCN), cùng với Ai
Cập là hai cái nôi của chiếc quạt tay. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc dành nhiều
quan tâm tới các loại quạt gấp (quạt ngà, quạt giấy) hay tròn (quạt có hình tròn có
cán). Loại quạt hình tròn gọi là đoàn phiến. Loại đoàn phiến này cũng đa phần
bằng giấy. Các loại quạt giấy ở Trung Hoa còn được vẽ lên các bức tranh thủy mặc
vô cùng đặc sắc. Quạt giấy ngoài trọng lượng nhẹ hơn hẳn các loại quạt nan và
quạt lông lại được trang trí đẹp nên được ưa chuộng từ chốn cung đình tới nơi thôn

dã. Quạt giấy gấp vào mở ra của Trung Hoa đã lan truyền đi khắp thế giới. Người
Nhật đã thành công khi biến những chiếc quạt thành các biểu tượng văn hóa xứ hoa
anh đào. Hình ảnh quý bà mắt xanh tóc vàng cầm quạt trong bức tranh sơn dầu của
Claude Monet thể hiện cơn sốt Nhật Bản ở châu Âu lúc đó. Chiếc quạt giấy xòe ra
và gấp lại cả một thế giới huyền bí, có lẽ vì thế mà người ta hay vẽ lên đó các bức
tranh sơn thủy. Các động tác vũ đạo trong nghệ thuật sân khấu truyền thống Viễn
Đông khó lòng thiếu được quạt giấy. Chính tà, trung nịnh đều được diễn tả qua
cách điệu bộ với chiếc quạt.
Quạt lông cũng có một vị thế tinh thần không kém gì quạt giấy, đặc biệt về phương
diện tôn giáo. Trong tám vị tiên của Đạo giáo Trung Hoa, Hán Ly Chung có chiếc
quạt có quyền năng cải tử hoàn sinh vô cùng linh diệu. Gia Cát Lượng bậc tướng
kỳ tài đa mưu túc kế thời Tam Quốc gắn liền với chiếc quạt lông phe phẩy. ở Việt
Nam, chiếc quạt giấy và quạt lông hiện diện trong điêu khắc đình làng (đình Thổ
Tang), trong tranh thờ Hàng Trống (Tố nữ), tranh Đông Hồ (Rước trống), trong
Điệu múa cổ (Nguyễn Tư Nghiêm), tranh Chèo (Bùi Xuân Phái). Quạt giấy đã hiện
diện từ thơ ca nhạc họa, điêu khắc suốt mấy trăm năm nay
Xét về thị giác, hình dẻ quạt của chiếc quạt giấy ưa nhìn hơn hình thang của chiếc
quạt chiếc quạt nan.
Vậy có phải cái quạt nan dân giã không xứng đáng len chân vào thế giới nghệ
thuật?
Tôi từng có nhận định rằng chiếc quạt nan hình thang là của người Việt. May thay,
khi tìm hiểu về tranh khắc mộ Hán ở Trung Quốc, người viết đã nhìn thấy rất nhiều
bức vẽ các nhân vật cầm quạt nan, giống hệt với chiếc quạt mà ta vẫn dùng hôm
nay. Ban đầu quạt chỉ xuất hiện trong tay của Tây Vương Mẫu (một vị thần có vị
trí tối thượng thời Tây Hán), hoặc những những người hầu đang quạt cho bà.
Nhưng về sau, chiếc quạt nan không còn là sở hữu riêng có của Tây Vương Mẫu.
Những bức tranh khắc cảnh nhà bếp ở Câu Nam thôn, Vi Sơn tỉnh Sơn Đông cuối
thời Tây Hán, có khắc cảnh một người đang dùng quạt nan quạt thịt nướng. Bức
tranh khắc trong một ngôi mộ khác ở trấn Cửu Đỉnh, huyện Linh Bích tỉnh An Huy
là một trong bức tranh khắc có nhiều cảnh cầm quạt nan nhất. Quạt khi sống ở

dương gian, tới lúc lên trên tiên giới cũng vẫn dùng quạt, quạt lúc đang làm việc,
dạo chơi, ăn cơm, tang ma. Thần tiên dùng quạt nan, thầy cúng dùng quạt nan,
người thường cũng dùng quạt nan, những chiếc quạt nan lớn bé không khác nhau
về hình dáng. Cảm động nhất là hình khắc người vợ dệt vải, người chồng đứng sau
quạt rồi bất chợt ôm hôn vợ, xa xa có hình đứa trẻ, mà ta đoán là đứa con của hai
người. Nội dung các bức tranh khắc ở đây kể lại nỗi niềm nhớ vợ và ao ước được
đoàn tụ trên tiên giới của một anh chồng trẻ. Chiếc quạt nan là một vật thân thiết,
cùng người ta chia sẻ những ngọt bùi.
Giờ đây, chiếc quạt nan được chúng ta xếp hạng gần chót, chỉ trên quạt mo cau.
Nhưng hơn 2000 năm trước chiếc quạt được làm ra từ thành quả của ngành luyện
kim. Nếu không có những chiếc dao sắc có thể chẻ tre thành những nan mỏng thì
không thể làm ra được chiếc quạt nhẹ như vậy. Quạt nan được thấy qua các bức
khắc trong mộ Hán, nhưng không ai biết cụ thể kích thước của nó do tre nứa là vật
dễ bị phân hủy không dễ gì lưu lại với thời gian. Năm 1982 tại Hồ Bắc, Giang
Lăng, Mã Sơn, trong ngôi mộ số 1, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy chiếc quạt nan
cổ nhất cho tới nay trên thế giới. Chiếc quạt nan có niên đại thời Chiến Quốc được
bảo lưu tới nay nhờ lớp sơn ta bên ngoài với hai màu đen - đỏ. Chiếc quạt có kích
thước mặt dài nhất là 24, 3 cm, rộng 16,8 cm, cán có chiều dài 40,8 cm. Hiện chiếc
quạt đang lưu giữ ở bảo tàng Kinh Châu. Chiếc quạt cổ nhất này cùng với chiếc
kiếm của 4 đời Việt vương, mẫu của Ngô vương Phù Sai(2) là những hiện vật quan
trọng nhất của bảo tàng Kinh Châu. Nhưng hình ảnh chiếc quạt nan chỉ xuất hiện
trong nghệ thuật thời Hán và bị thay thế bởi những chiếc quạt giấy và quạt lông
thời Ngụy Tấn, Nam Bắc triều.
Tuy không có được vị trí danh giá trong lịch sử nghệ thuật Việt, nhưng chiếc quạt
nan đã tận tụy, cần mẫn, bền bỉ trong đời sống thường nhật của người dân. Nếu nói
văn hóa là một vật, thì cái quạt nan không có nguồn gốc bản địa. Nhưng nói văn
hóa là kiểu lựa chọn (Phan Ngọc), thì cách dùng quạt nan suốt mấy nghìn năm nay
là văn hóa Việt. Cái quạt nằm ngang hình thang, ổn định, quân bình như câu thơ
lục bát. Đây phải chăng cũng là món nợ văn hóa mà của nghệ thuật Việt Nam với
chiếc quạt nan.

Tầm thường như cái quạt mo còn có bài thơ “ Thằng Bờm”. Tiếc rằng Sỹ Ngọc
không tặng thêm cho mỹ thuật thời kháng chiến một kiệt tác thứ hai có tên là “ Cái
quạt nan”. Nhà thơ Vương Trọng có bài thơ “Gió từ tay mẹ” sáng tác năm 1974,
đây là tác phẩm hay nhất về chiếc quạt nan. Bài thơ được chọn vào SGK lớp 3 (cũ)
, lời thơ có đoạn:
“Quạt nan như lá
Chớp chớp lay lay
Quạt nan mỏng dính
Quạt gió rất dày
Gió từ ngọn cây
Có khi còn nghỉ
Gió từ tay mẹ
Thổi suốt đêm ngày”.
Thật giản dị và cảm động! Có ai trong chúng ta không từng được mẹ quạt đưa vào
giấc ngủ. Đúng là chiếc quạt “Nan- ti on- nan” của mẹ không có định giờ, không
có chức năng khử độc, không bơm ô xy, không có màng lọc mạ vàng, không công
nghệ nano-không có thương hiệu quốc tế, nhưng có tình mẹ bao la.
Gần đây có những thảo luận về vai trò nghệ sỹ như những người làm văn hóa
(artist or cultural worker). Cái tôi nghệ sỹ trở nên ít quan trọng, thậm chí bị chính
nghệ sỹ thủ tiêu. Nhưng lạ thay họ lại nổi lên như những đại diện văn hóa của một
dân tộc và thời đại. Trong buổi nói chuyện về văn hóa Tây Ban Nha ngày
15/9/2006 tại khách sạn Melia Hà Nội, diễn giả là một họa sỹ. Frederic Amat
không chỉ là một họa sỹ, ông còn là nhà điêu khắc, nhà thiết kế, đạo diễn phim rất
nổi tiếng của Tây Ban Nha. Buổi nói chuyện dành cho đối tượng là các sinh viên
ngoại ngữ. Buổi nói chuyện không có phiên dịch, nhưng qua hình ảnh minh họa,
tôi thấy nghệ sỹ đang thể hiện cách nhìn các tác phẩm nghệ thuật như các tiêu bản
văn hóa.

×