Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Skkn phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh thông qua việc tổ chức hoạt động tự làm một số thí nghiệm đơn giản sau khi học bài dòng điện trong chất điện phân (sgk vật lí 11 –thpt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1015.76 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 3

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC
VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH
THÔNG QUA VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG
TỰ LÀM MỘT SỐ THÍ NGHIỆM ĐƠN GIẢN
SAU KHI HỌC BÀI “DÒNG ĐIỆN TRONG CHẤT ĐIỆN
PHÂN” (SGK VẬT LÍ 11 THPT)

Người thực hiện: Lê Thị Bích Việt
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (mơn): Vật lí

THANH HỐ NĂM 2022

skkn


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1.1 Lí do chọn đề tài..........................................................................................1
1.2 Mục đích nghiên cứu...................................................................................2
1.3 Đối tượng nghiên cứu..................................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................2
2. NỘI DUNG.......................................................................................................3
2.1 Cơ sở lí luận.................................................................................................3
2.1.1 Chế tạo và sử dụng các dụng cụ thí nghiệm đơn giản trong dạy học


Vật lí ở trường phổ thơng...............................................................................3
2.1.2 Tính tích cực và năng lực sáng tạo của học sinh trong học tập.............5
2.2 Thực trạng vấn đề........................................................................................6
2.2.1 Tình hình giảng dạy của giáo viên........................................................6
2.2.2 Tình hình học tập của học sinh..............................................................6
2.2.3 Tình hình thiết bị thí nghiệm của nhà trường........................................7
2.2.4 Ngun nhân về thực trạng học tập của học sinh.....................................7
2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề............................................7
2.3.1 Quy trình thực hiện................................................................................8
2.3.2 Các nhiệm vụ học tập mà giáo viên đã giao cho học sinh thực hiện và
một số sản phẩm của học sinh........................................................................8
2.3.3 Tổ chức cho các nhóm báo cáo sản phẩm, tiến hành thí nghiệm với
thiết bị đã chế tạo..........................................................................................13
2.4 Hiệu quả của giải pháp...............................................................................14
2.4.1 Đối với học sinh..................................................................................14
2.4.2 Đối với bản thân giáo viên..................................................................14
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.........................................................................15
3.1 Kết luận......................................................................................................15
3.2 Kiến nghị....................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................17

skkn


1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
Trước sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, giáo dục có vai
trị ngày càng quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Chỉ thị số 16/CT-TTg
của Thủ tướng Chính phủ ngày 04/5/2017 đã đưa ra giải pháp về mặt giáo dục:
“Thay đổi mạnh mẽ các chính sách, nội dung, phương pháp giáo dục và dạy nghề

nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế cơng nghệ sản xuất
mới, trong đó cần tập trung vào thúc đẩy đào tạo về khoa học, công nghệ, trong
chương trình giáo dục phổ thơng”
Đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, đã
từng được khẳng định trong các văn kiện Đảng trước đây, đặc biệt là trong Nghị
quyết số 29 của Hội nghị Trung ương 8, khóa XI, khẳng định đây khơng chỉ là
quốc sách hàng đầu, là “chìa khóa” mở ra con đường đưa đất nước tiến lên phía
trước, mà cịn là “mệnh lệnh” của cuộc sống.
Trong Văn kiện đại hội XII, kế thừa quan điểm chỉ đạo của nhiệm kỳ trước,
Đảng ta đưa ra đường lối đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực, xác định đây là một kế sách, quốc sách hàng đầu, tiêu điểm của
sự phát triển, mang tính đột phá, khai mở con đường phát triển nguồn nhân lực
Việt Nam trong thế kỷ XXI, khẳng định triết lý nhân sinh mới của nền giáo dục
nước nhà “dạy người, dạy chữ, dạy nghề”.
Vật lí là một mơn khoa học thực nghiệm vì vậy một trong những khâu quan
trọng của quá trình đổi mới phương pháp dạy học Vật lí là tăng cường các hoạt
động thực nghiệm của học sinh trong quá trình học tập. Học sinh không những
cần được làm quen và tiến hành thí nghiệm trong giờ học chính khóa mà cịn ở
các giờ học tự chọn, khơng những trên lớp học mà cịn ở ngồi lớp, ở nhà. Việc
đưa thí nghiệm vào dạy học làm cho học sinh tiếp cận với con đường nghiên cứu
khoa học của các nhà khoa học và tiếp thu các kiến thức một cách dễ dàng và
sâu sắc hơn. Thông qua hoạt động thực nghiệm vật lý, học sinh sẽ được củng cố,
mở rộng kiến thức, rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; rèn
luyện kĩ năng, kĩ xảo; giáo dục tổng hợp và tinh thần làm việc tập thể; kích thích
sự hứng thú, phát huy cao độ tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo.
Đặc biệt, hình thức tổ chức cho học sinh tự thiết kế, chế tạo dụng cụ và tiến
hành các thí nghiệm đơn giản sẽ đem lại hiệu quả dạy học rất cao vì nó phù hợp
với đặc thù bộ môn, đáp ứng được yêu cầu đổi mới dạy học hiện nay là lấy
người học làm trung tâm. Lúc này học sinh tiến hành thí nghiệm Vật lí trong
điều kiện khơng có sự giúp đỡ, kiểm tra trực tiếp của giáo viên vì vậy địi hỏi

cao độ tính tự giác, tự lực, tích cực của học sinh trong học tập. Cũng khác với
các loại thí nghiệm khác, thí nghiệm Vật lí ở nhà chỉ địi hỏi học sinh sử dụng
các dụng cụ thông dụng trong đời sống, những vật liệu dễ kiếm, rẻ tiền hoặc các
dụng cụ thí nghiệm đơn giản được học sinh chế tạo từ những vật liệu này. Chính
đặc điểm này tạo nhiều cơ hội phát triển năng lực sáng tạo của học sinh trong
1

skkn


việc thiết kế, chế tạo và sử dụng các dụng cụ nhằm hồn thành nhiệm vụ được
giao.
Qua q trình dạy học bài “Dòng điện trong chất điện phân” (SGK Vật lí
11 THPT), tơi nhận thấy kiến thức bài học có sự liên hệ thực tiễn rất phong phú,
rất gần gũi và có nhiều ứng dụng trong đời sống và kĩ thuật. Có thể sử dụng rất
nhiều dụng cụ thí nghiệm đơn giản, dễ kiếm từ cuộc sống để minh họa cho bài
học. Chính vì vậy tơi đã giao nhiệm vụ về nhà cho học sinh tự thiết kế, chế tạo và
tiến hành một số thí nghiệm đơn giản liên quan đến nội dung bài học và nhận thấy
hiệu quả rất tốt của hoạt động này. Vì vậy tơi xin trao đổi kinh nghiệm với các bạn
đồng nghiệp qua đề tài SKKN năm 2022 của tơi là: “Phát huy tính tích cực và
phát triển năng lực sáng tạo của học sinh thông qua việc tổ chức hoạt động tự
làm một số thí nghiệm đơn giản sau khi học bài “Dịng điện trong chất điện
phân”” (SGK Vật lí 11 THPT).
1.2 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu việc tổ chức hoạt động cho học sinh thiết kế, chế tạo và tiến
hành các thí nghiệm đơn giản sau khi học bài “Dòng điện trong chất điện phân”
(SGK Vật lí 11 THPT) nhằm củng cố, đào sâu, mở rộng các kiến thức đã học,
phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động thiết kế, chế tạo và tiến hành các thí nghiệm đơn giản liên quan

đến nội dung bài học “Dòng điện trong chất điện phân” (SGK Vật lí 11).
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết.
Phương pháp thực hành thí nghiệm.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

2

skkn


2. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận
2.1.1 Chế tạo và sử dụng các dụng cụ thí nghiệm đơn giản trong dạy học
Vật lí ở trường phổ thơng
2.1.1.1 Các u cầu đối với việc chế tạo các dụng cụ thí nghiệm đơn giản
- Việc chế tạo dụng cụ thí nghiệm địi hỏi ít vật liệu. Các vật liệu này đơn giản,
rẻ tiền, dễ kiếm. [2]
- Dễ chế tạo dụng cụ thí nghiệm từ việc gia công các vật liệu bằng các cơng cụ
thơng thường như kìm, búa, kéo, cưa, giũa. Chính nhờ đặc điểm này của các
dụng cụ thí nghiệm đơn giản, trong một số trường hợp, ta có thể làm được một
số thí nghiệm mà khơng thể tiến hành được với các dụng cụ có sẵn trong phịng
thí nghiệm. [2]
- Dễ lắp ráp, tháo rời các bộ phận của dụng cụ thí nghiệm. Vì vậy, với cùng
một dụng cụ thí nghiệm, trong nhiều trường hợp ta chỉ cần thay thế các chi tiết
phụ trợ là có thể làm được thí nghiệm khác. [2]
- Dễ bảo quản, vận chuyển và an tồn trong chế tạo cũng như trong q trình
bố trí, tiến hành thí nghiệm. [2]
- Việc bố trí và tiến hành thí nghiệm với những dụng cụ thí nghiệm cũng đơn
giản, không tốn nhiều thời gian. [2]

- Hiện tượng Vật lí diễn ra trong thí nghiệm với dụng cụ thí nghiệm đơn giản
phải rõ ràng, dễ quan sát. [2]
2.1.1.2 Sự cần thiết của việc sử dụng các dụng cụ thí nghiệm đơn giản trong
dạy học Vật lí
- Việc giao cho học sinh nhiệm vụ thiết kế, chế tạo và sử dụng các dụng cụ thí
nghiệm đơn giản để tiến hành các thí nghiệm Vật lí có tác dụng trên nhiều mặt
góp phần nâng cao chất lượng kiến thức, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ thực tiễn độc lập và sáng tạo của học sinh. [2]
- Do được tự tay chế tạo và sử dụng các dụng cụ thí nghiệm để tiến hành các
thí nghiệm, học sinh nắm vững kiến thức hơn, chính xác và bền vững hơn.
Trong nhiều trường hợp, việc tiến hành thí nghiệm, giải thích hoặc tiên đốn kết
quả thí nghiệm địi hỏi học sinh phải huy động các kiến thức đã học ở nhiều
phần khác nhau của Vật lí. Thơng qua đó, các kiến thức mà học sinh lĩnh hội
được củng cố, đào sâu, mở rộng và hệ thống hóa. [2]
- Việc sử dụng các thí nghiệm đơn giản trong dạy học Vật lí ở trường phổ
thơng cịn cần thiết, bởi vì với các thiết bị có sẵn trong phịng thí nghiệm, trong
nhiều trường hợp, “cái hiện đại” của các thiết bị này che lấp mất bản chất Vật lí
của hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm mà học sinh cần nhận thức rõ. [2]
- Lịch sử phát triển của Vật lí cho thấy: Những phát minh cơ bản thường gắn
với các dụng cụ thí nghiệm đơn giản để nghiên cứu nguyên tắc của những thí
nghiệm do các nhà bác học đã tiến hành (thí nghiệm của Ga-li-lê về chuyển
3

skkn


động nhanh dần đều trên máng nghiêng, thí nghiệm con lắc Huy-gen xác định
gia tốc trọng trường, thí nghiệm của Tơ-ri-xe-li xác định áp suất khí quyển, các
thí nghiệm lịch sử về các định luật chất khí, các thí nghiệm của Fa-ra-đây về
cảm ứng điện từ...) góp phần chỉ ra cho học sinh thấy con đường hình thành và
phát triển các kiến thức Vật lí, bồi dưỡng cho học sinh các phương pháp nhận

thức Vật lí, đặc biệt là phương pháp thực nghiệm. [2]
- Nhiệm vụ thiết kế, chế tạo các dụng cụ thí nghiệm đơn giản và tiến hành các
thí nghiệm với chúng làm tăng hứng thú học tập, tạo niềm vui của sự thành công
trong học tập, phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học
sinh. [2]
- Ngồi ra, dụng cụ thí nghiệm đơn giản tự làm cịn có ưu điểm là phục vụ rất
kịp thời và đắc lực cho việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học, nâng cao
hiệu quả dạy học, thậm chí của từng giờ học. [2]
2.1.1.3 Thí nghiệm Vật lí ở nhà là một loại bài tập mà giáo viên giao cho từng
học sinh hoặc nhóm học sinh thực hiện ở nhà
- Khác với các loại thí nghiệm khác, học sinh tiến hành thí nghiệm Vật lí
trong điều kiện khơng có sự giúp đỡ, kiểm tra trực tiếp của giáo viên.Vì vậy,
loại thí nghiệm này địi hỏi cao độ tự giác, tự lực của học sinh trong học tập. [3]
- Cũng khác với các loại thí nghiệm khác, thí nghiệm Vật lí ở nhà chỉ địi hỏi
học sinh sử dụng các dụng cụ thông dụng trong đời sống, những vật liệu dễ
kiếm, rẻ tiền hoặc các dụng cụ thí nghiệm đơn giản được học sinh chế tạo từ
những vật liệu này. Chính đặc điểm này tạo nhiều cơ hội phát triển năng lực
sáng tạo của học sinh trong việc thiết kế, chế tạo và sử dụng các dụng cụ nhằm
hoàn thành nhiệm vụ được giao. [3]
- Loại thí nghiệm này khác với các loại bài làm khác của học sinh ở nhà ở chỗ:
Nó địi hỏi sự kết hợp giữa hoạt động trí óc và hoạt động chân tay của học sinh.
[3]
- Với những đặc điểm trên, thí nghiệm Vật lí ở nhà có tác dụng trên nhiều mặt
đối với việc phát triển nhân cách của học sinh: Q trình tự lực thiết kế phương
án thí nghiệm, lập kế hoạch thí nghiệm, chế tạo hoặc lựa chọn dụng cụ, bố trí
tiến hành thí nghiệm, xử lí kết quả thí nghiệm thu thập được góp phần vào việc
phát triển năng lực hoạt động trí tuệ - thực tiễn của học sinh. Việc thực hiện và
hồn thành các cơng việc trên sẽ làm tăng rõ rệt hứng thú học tập, tạo niềm vui
của sự thành công trong học tập của học sinh. Việc thiết kế phương án thí
nghiệm, tiên đốn hoặc giải thích các kết quả thí nghiệm địi hỏi học sinh phải

huy động các kiến thức đã học, mà nhiều khi ở các phần khác nhau của Vật lí.
Nhờ vậy, chất lượng kiến thức của học sinh được nâng cao. Thí nghiệm Vật lí ở
nhà có tác dụng làm phát triển những kĩ năng, kĩ xảo thí nghiệm, các thói quen
của người làm thực nghiệm mà học sinh đã thu được trong các loại thí nghiệm
khác. [3]
- Loại thí nghiệm này cũng tạo điều kiện cho giáo viên cá thể hóa q trình
học tập của học sinh bằng cách giao cho các đối tượng học sinh khác nhau
4

skkn


nhiệm vụ chế tạo dụng cụ thí nghiệm, tiến hành thí nghiệm với mức độ khó dễ
khác nhau, nơng sâu khác nhau và mức độ hướng dẫn khác nhau về cách chế
tạo, lựa chọn dụng cụ, tiến hành thí nghiệm... được thể hiện trong đề bài. [3]
- Khi sử dụng loại thí nghiệm này trong dạy học Vật lí, giáo viên cần bố trí
thời gian để học sinh báo cáo trước toàn lớp các kết quả đã đạt được, giới thiệu
những sản phẩm của mình, nhận được sự đánh giá của giáo viên và tập thể cũng
như động viên và khen thưởng kịp thời. [3]
- Thí nghiệm Vật lí ở nhà không những nhằm đào sâu, mở rộng các kiến thức
đã học mà trong nhiều trường hợp các kết quả mà học sinh thu được sẽ là cứ liệu
thực nghiệm cho việc nghiên cứu kiến thức mới ở các bài học sau trên lớp. Nội
dung của các thí nghiệm Vật lí ở nhà khơng phải là sự lặp lại ngun xi các thí
nghiệm đã làm ở trên lớp mà phải có nét mới, khơng đơn thuần chỉ là sự tiến
hành thí nghiệm với những hướng dẫn chi tiết. [3]
- Nội dung các loại bài làm ở nhà này rất phong phú, có thể ra nhiều dạng khác
nhau: Mơ tả phương án thí nghiệm, yêu cầu học sinh tiến hành thí nghiệm, tiên
đốn hoặc giải thích kết quả thí nghiệm; cho trước các dụng cụ, yêu cầu học sinh
thiết kế phương án thí nghiệm để đạt được một mục đích nhất định (quan sát
thấy một hiện tượng, xác định được một đại lượng Vật lí); yêu cầu học sinh chế

tạo một dụng cụ thí nghiệm đơn giản từ các vật liệu cần thiết cho trước, rồi tiến
hành thí nghiệm với những dụng cụ này nhằm đạt được một mục đích nào đó...
Nội dung của các thí nghiệm Vật lí ở nhà có thể mang tính chất định tính hoặc
định lượng. [3]
2.1.2 Tính tích cực và năng lực sáng tạo của học sinh trong học tập
2.1.2.1 Tính tích cực trong học tập của học sinh
- Khái niệm tính tích cực trong học tập
Tính tích cực trong học tập là một hiện tượng sư phạm biểu hiện ở sự cố
gắng cao về nhiều mặt trong học tập. Học tập là một trường hợp riêng của nhận
thức “một sự nhận thức làm cho dễ dàng đi và được thực hiện dưới sự chỉ đạo
của giáo viên” (P.N.Erddơniev, 1974). Vì vậy, nói tới tích cực học tập thực chất
là nói đến tích cực nhận thức. Tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động
nhận thức của học sinh, đặc trưng ở khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị
lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức. [7]
- Các biểu hiện của tính tích cực trong học tập
Tính tích cực của học sinh trong học tập biểu hiện qua các hành động cụ
thể như: tự nguyện tham gia vào các hoạt động học tập; sẵn sàng, hồ hởi đón
nhận các nhiệm vụ; tự giác thực hiện các nhiệm vụ; mong muốn được đóng góp
ý kiến với giáo viên, với bạn bè; cố gắng hồn thành cơng việc bằng mọi cách;
thường xun trao đổi với bạn bè;…
2.1.2.2. Năng lực sáng tạo của học sinh trong hoạt động học tập
- Khái niệm năng lực sáng tạo
5

skkn


Năng lực sáng tạo có thể hiểu là khả năng tạo ra những giá trị mới về vật
chất hoặc tinh thần, tìm ra các mới, giải pháp mới, cơng cụ mới, vận dụng thành
cơng những hiểu biết đã có vào hoàn cảnh mới. [7]

- Các biểu hiện của sự sáng tạo trong nghiên cứu vật lí
Những hành động của học sinh trong học tập có mang tính sáng tạo như:
đưa ra được các phương án thiết kế, chế tạo dụng cụ; đề xuất được những sáng
kiến kĩ thuật để thí nghiệm chính xác hơn, dụng cụ bền đẹp hơn; đưa ra dự đốn
kết quả các thí nghiệm; so sánh được các phương án thí nghiệm; vận dụng kiến
thức để giải thích hiện tượng vật lí, kết quả thí nghiệm hoặc các ứng dụng trong
kĩ thuật;...
2.2 Thực trạng vấn đề
Trên cơ sở thực tế dạy học bộ mơn Vật lí ở trường THPT Yên Định 3,
huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, tơi nhận thấy một số thực trạng sau:
2.2.1 Tình hình giảng dạy của giáo viên
- Ở nhiều bài học, giáo viên vẫn mang nặng phương pháp truyền thụ,
thuyết trình, thơng báo.
- Giáo viên gần như chỉ tiến hành thí nghiệm biểu diễn trong các bài có
u cầu sử dụng thí nghiệm tối thiểu; ít chế tạo thêm các dụng cụ thí nghiệm;
- Các giáo viên rất ít tổ chức hướng dẫn cho học sinh tự thiết kế, chế tạo
và tiến hành các thí nghiệm vật lí.
- Đối với bài học “Dịng điện trong chất điện phân” (SGK Vật lí 11) vì
nội dung kiến thức nhiều nên giáo viên giảng dạy chủ yếu chỉ tiến hành thí
nghiệm theo yêu cầu của sách giáo khoa, chưa thể tổ chức hoạt động cho học
sinh tự thiết kế, chế tạo và tiến hành các thí nghiệm đơn giản liên quan đến nội
dung bài học.
2.2.2 Tình hình học tập của học sinh
- Kết quả học tập của rất nhiều học sinh chỉ ở mức độ nhớ các khái niệm,
hiện tượng, công thức và vận dụng được các công thức để giải các bài tập.
- HS chưa vận dụng được kiến thức để giải thích các hiện tượng vật lí
trong thực tế, khơng biết về các ứng dụng của kiến thức vật lí trong đời sống và
kĩ thuật.
- Học sinh chưa hứng thú, chưa phát huy được tính tích cực trong học tập.
- Các kĩ năng thực nghiệm còn rất yếu.

- Học sinh chưa từng được thiết kế, chế tạo các thí nghiệm đơn giản;
- Khả năng diễn đạt, thuyết trình của học sinh về một vấn đề còn rất kém,
thường lúng túng khi diễn đạt ý tưởng của mình hoặc điều muốn hỏi.

6

skkn


2.2.3 Tình hình thiết bị thí nghiệm của nhà trường
- Nhà trường được trang bị khá đầy đủ các dụng cụ thí nghiệm tối thiểu
cho dạy học nội khóa theo yêu cầu SGK và các thiết bị thí nghiệm sử dụng tốt
và hiệu quả.
- Tuy nhiên các thí nghiệm khơng có trong danh mục thiết bị thí nghiệm
tối thiểu thì khơng được cấp vì vậy nhiều bài học trong SGK có nêu thí nghiệm
nhưng khơng có dụng cụ để tiến hành.
- Các thiết bị thí nghiệm đơn giản tự làm rất ít.
2.2.4 Nguyên nhân về thực trạng học tập của học sinh
Việc dạy và học theo chương trình nội khố vẫn còn rất nặng nề do điều
kiện thời gian hạn hẹp, trang thiết bị thí nghiệm chưa đầy đủ để tất cả các học
sinh đều được tham gia tiến hành thí nghiệm, việc dạy học trên lớp chưa tăng
cường hoạt động, phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học
sinh; các em ít được trực tiếp tiến hành các thí nghiệm và ít có điều kiện để vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, nhiều em cịn cảm thấy chưa u thích mơn học và
khơng tích cực trong học tập.
Trong dạy học nội khóa đã được trang bị một số thiết bị thí nghiệm tối
thiểu tuy nhiên những thiết bị chế tạo sẵn đó đơi khi không gần gũi và quen
thuộc với thực tiễn nên các em khó liên hệ và vận dụng vào cuộc sống. Đa số
các dụng cụ thí nghiệm được cấp đều là thí nghiệm định lượng phục vụ mục
đích nghiên cứu khảo sát các định luật vật lí, ít thí nghiệm định tính về các hiện

tượng vật lí.
Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc thay đổi phương pháp dạy học
nhưng vẫn chưa thực sự hiệu quả đối với mọi đối tượng học sinh và tất cả các
nội dung kiến thức.
2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Trước thực trạng đó, tơi thấy một trong những giải pháp để khắc phục là
đối với những bài học, những chương trong SGK có nội dung phù hợp, giáo
viên có thể tổ chức hoạt động cho HS tự thiết kế, chế tạo các dụng cụ thí nghiệm
đơn giản và sử dụng các dụng cụ đó để tiến hành các thí nghiệm để HS được vận
dụng kiến thức bài học giải thích các hiện tượng Vật lí có liên quan nhằm củng
cố, mở rộng các kiến thức trong chương trình nội khóa; rèn luyện khả năng vận
dụng kiến thức để giải thích các hiện tượng Vật lí trong thực tiễn; rèn luyện kĩ
năng thực hành; kích thích sự hứng thú, tính tích cực và phát triển năng lực sáng
tạo của HS.
Bài “ Dịng điện trong chất điện phân” (SGK Vật lí 11 THPT) là một bài
rất phù hợp để áp dụng hình thức tổ chức trên vì bài này ngồi việc tiến hành thí
nghiệm theo yêu cầu của sách giáo khoa thì kiến thức của bài có sự liên hệ thực
tiễn rất phong phú, rất gần gũi và có nhiều ứng dụng trong đời sống và kĩ thuật.
7

skkn


Có thể sử dụng rất nhiều dụng cụ và thí nghiệm đơn giản, dễ kiếm từ cuộc sống
để minh họa cho bài học.
2.3.1 Quy trình thực hiện
- Bước thứ nhất: giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm học sinh. Giáo
viên định hướng và giúp đỡ trong quá trình học sinh tham gia thiết kế, chế tạo
các dụng cụ thí nghiệm và tiến hành các thí nghiệm về “Dịng điện trong chất
điện phân”.

- Bước thứ hai: Tổ chức cho học sinh một tiết để các nhóm ra mắt sản
phẩm, trình bày và thuyết trình về các thí nghiệm mà nhóm mình đã thực hiện.
2.3.2 Các nhiệm vụ học tập mà giáo viên đã giao cho học sinh thực hiện và
một số sản phẩm của học sinh
Tôi sẽ giao cho học sinh các nhiệm vụ học tập gồm:
- Chế tạo pin từ những dụng cụ đơn giản, đễ kiếm và không ảnh hưởng
đến môi trường.
- Mạ điện bằng những dụng cụ đơn giản, dễ kiếm.
2.3.2.1 Chế tạo pin từ những dụng cụ đơn giản, đễ kiếm và không ảnh hưởng
đến môi trường.
Hiện nay, nhiều người cho rằng, những cục pin sử dụng trong các thiết bị
điện tử chỉ là vật dụng nhỏ bé vô hại. Tuy nhiên, một trong những nguyên nhân
gây ơ nhiễm nguồn nước hiện nay đó là việc xử lí pin đã qua sử dụng có chứa
hỗn hợp kim loại nặng như chì hay thủy ngân khơng đúng cách. Vậy, tại sao ta
không thử thay thế hỗn hợp này bằng một chất an tồn hơn và ln có sẵn ở
xung quanh ta? Với giải pháp tạo ra những cục pin có thể dùng để thắp sáng hay
dùng trong nhiều mục đích khác từ các ngun liệu thơng dụng, có sẵn này tạo
được niềm tin, hứng thú và nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh, đáp ứng
được mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng giáo dục.
Bên cạnh đó, việc này giúp học sinh hiểu được cách hoạt động của pin điện hóa,
biết cách tự thiết kế một vật dụng có ích trong đời sống - pin. Điều này làm cho
môn Vật lí trở nên gần gũi với cuộc sống, gắn kiến thức lí thuyết với đời sống
thực tế.
- Mục tiêu: Học sinh làm được viên “pin ” đơn giản có thể thắp sáng đèn Led.
- Thực hiện:
+ Nêu vấn đề: Tại sao từ vài quả chanh và 2 thanh kim loại khác nhau về
bản chất có thể thắp sáng đèn Led? Chúng đóng vai trị gì ? Tại sao lại phải
chọn 2 thanh kim loại khác nhau về bản chất? Giống nhau được khơng? Ta có
thể thay chanh bằng các loại quả khác được không?
+ Giải quyết vấn đề: Ta biết rằng, một cục pin hay bất kì vật liệu trữ điện

nào đều có cấu tạo gồm 3 phần: cực dương (Anot), cực âm (Catot) và chất điện
8

skkn


phân (Electrolyte). Trong đó, hai cực âm - dương của pin được làm bằng kim
loại có sự chênh lệch về electron, cịn dung mơi điện phân chính là một loại
axit. Khi một thiết bị được kết nối với pin như bóng đèn chẳng hạn, sẽ tạo
thành một mạch điện kín. Lúc này, các phản ứng hoá học sẽ xảy ra trên các cực
điện và khiến các electron di chuyển từ cực dương sang cực âm, tạo thành một
dòng chảy điện tích, giúp các thiết bị điện hoạt động được. Năng lượng cung
cấp cho mạch điện có từ việc khử các ion kim loại trên điện cực. Một cách đơn
giản, trái chanh đã cung cấp điều kiện cho phản ứng xảy ra. Trong “pin chanh”,
cả hai q trình oxy hóa và khử đều diễn ra. Ta xét ví dụ về pin chạy bằng
đồng và sắt.
Ở anot, sắt bị oxy hóa như sau: Fe → Fe2+ + 2e.
Ở catot, hydro bị khử: 2H+ + 2e → H2.
Ta có thể tạo ra điện chỉ từ 2 thanh kim loại có cấu tạo electron khác nhau,
như đồng và sắt. Không chỉ chanh mà các loại hoa quả khác như khoai tây, táo,
cam,... chứa nhiều axit cũng là một nguồn điện tự nhiên sẵn có nhưng thường
nhất là chanh vì nó chứa nhiều acid citric hơn hết.
- Tiến hành làm “pin” để thắp sáng đèn Led
Bước 1: Chuẩn bị nguyên liệu: một số quả chanh, một số quả khế, một
số củ khoai tây, một số đinh sắt, một số lá đồng, một số lá nhôm, dây nối,
đèn Led 5V, đồng hồ đo thời gian (Hình 1).
Bước 2: Cắm 1 đinh sắt và 1 lá đồng vào 1 quả chanh sao cho 2 thanh này
tách rời và khơng chạm vào nhau (Hình 2).

Hình 1

Hình 2
Bước 3: Dùng dây dẫn nối 2 thanh kim loại với nhau. Một đầu nối với đinh
sắt, đầu còn lại nối với lá đồng (Hình 3).
Bước 4: Nối đầu cịn lại của hai dây cuối vào 2 chân của đèn Led 5V,
quan sát hiện tượng (Hình 4).

9

skkn


Hình 3.
Hình 4.
+ HS quan sát đồng hồ bấm giờ để đo thời gian sáng của đèn Led 5V (Hình 5).

Hình 5. Đo độ sáng và thời gian sáng của đèn Led
+ Khi làm “pin chanh” với số lượng chanh là 2, nhận thấy đèn Led 5V không
sáng do không đủ dung mơi điện phân nên khơng tạo thành dịng điện (Hình 6).

Hình 6. Đèn Led khơng sáng
+ Khi làm “pin chanh “ với số lượng chanh là 8, nhận thấy thời gian đèn sáng
gấp đôi so với khi nối 4 quả chanh. Từ đó chúng ta có thể tính toán số lượng
chanh cần nối sao cho phù hợp với mục đích sử dụng (Hình 7).
10

skkn


Hình 7. Độ sáng của đèn Led rất rõ
+ Thay thế quả chanh bằng quả khế, củ khoai tây và lặp lại thí nghiệm tương

tự ta thấy trong ba loại pin trên độ sáng của đèn Led giảm dần từ “pin chanh”,
“pin khế”, “pin khoai tây” (Hình 8).

Hình 8.
- Kết quả thực nghiệm cho thấy: Thực hiện làm pin chanh với hai điện cực là
đồng và sắt cho đèn Led có độ sáng sáng hơn nhiều so với khi thực hiện với hai
điện cực nhôm và sắt. Thời gian đèn sáng trong khoảng một tiếng rưỡi đến hai
giờ đồng hồ. Từ đó thấy được thời gian đèn sáng là rất lâu, việc sử dụng “pin
chanh” thắp sáng bóng đèn có tính khả thi cao, có thể ứng dụng tính chất này để
chế tạo ra năng lượng sạch từ các nguồn nguyên liệu thiên nhiên ứng dụng trong
thực tế.
2.3.2.2 Mạ điện bằng những dụng cụ đơn giản, dễ kiếm.
- Mục tiêu: Học sinh nắm được kĩ thuật mạ điện và mạ được những vật đơn
giản như chìa khóa cửa, đồ chơi,...
- Thực hiện: Trong quá trình mạ điện, vật cần mạ được gắn với cực âm catôt,
kim loại mạ gắn với cực dương anôt của nguồn điện trong dung dịch điện môi.
Cực dương của nguồn điện sẽ hút các electron e- trong q trình ơxi hóa và giải
phóng các ion kim loại dương, dưới tác dụng lực tĩnh điện các ion dương này sẽ
di chuyển về cực âm, tại đây chúng nhận lại e- trong q trình ơxi hóa khử hình
11

skkn


thành lớp kim loại bám trên bề mặt của vật được mạ. Độ dày của lớp mạ tỉ lệ
thuận với cường độ dịng điện của nguồn và thời gian mạ.
Ví dụ: mạ đồng trong dung dịch điện môi SO42-, Tại cực dương:
Cu → Cu2+ + 2eCu2+ + SO42- → CuSO4
CuSO4 dễ tan trong dung dịch, tại cực âm:
CuSO4 → Cu2+ + SO42- 

Cu2+ + 2e- → Cu
- Tiến hành mạ:
+ Bước 1. Chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm: dây nối, chìa khóa cửa, viên bi, dung
dịch
, dung dịch
, lá đồng, dây bạc, acquy hoặc pin (Hình 9)

Hình 9
+ Bước 2. Tiến hành thí nghiệm:
Thí nghiệm 1: Cực dương của nguồn điện được nối với lá đồng, cực âm
nối với chìa khóa, lá đồng và chìa khóa được nhúng trong dung dịch
(Hình 10)
Sau một thời gian, ngừng điện phân ta thu được chìa khóa được phủ một
lớp đồng bên ngồi (Hình 11)

12

skkn


Hình 10
Hình 11
Thí nghiệm 2: Cực dương của nguồn điện được nối với thanh bạc, cực âm
của nguồn điện được nối với viên bi, dung dịch điện phân là dung dịch
,
(Hình 12).
Sau thời gian điện phân là 40 phút ta thu được viên bi bên ngoài đã được
phủ một lớp bạc rất đẹp ( Hình 13).

Hình 12

Hình 13
- Kết quả thực nghiệm cho thấy: Thời gian mạ ít thì lượng kim loại bám vào
bề mặt vật được mạ mỏng, không bền. Thời gian mạ càng lâu thì lượng kim loại
bám vào bề mặt vật được mạ sẽ dày, bền và rất đẹp. Từ đó học sinh có thể tiến
hành mạ những đồ vật khác để trang trí theo ý thích của mình.
2.3.3 Tổ chức cho các nhóm báo cáo sản phẩm, tiến hành thí nghiệm với
thiết bị đã chế tạo
Thời gian: có thể sử dụng tiết học tự chọn hoặc tổ chức một buổi ngoại khóa.
Các nhóm báo cáo sản phẩm, tiến hành thí nghiệm với thiết bị đã chế tạo và
trả lời các chất vấn và thắc mắc của giáo viên và các bạn học sinh khác.
Khi báo cáo kết quả trước các thầy cô giáo một số em đại diện cho các nhóm
lúc đầu cịn tỏ ra chưa tự tin về khả năng thuyết trình của mình trước đông
13

skkn


người, nhưng sau đó các em đã tỏ ra rất tự tin và báo cáo rất lưu loát kết quả mà
nhóm của mình đã làm được.
2.4 Hiệu quả của giải pháp
2.4.1 Đối với học sinh
-) Những biểu hiện của tính tích cực trong hoạt động của học sinh
- Các em đều tự nguyện tham gia vào các hoạt động ngoại khóa một cách
tích cực, thoải mái, nhiệt tình. Các thành viên của mỗi nhóm đều thực hiện nghiêm
túc và hiệu quả nhiệm vụ của nhóm mình.
- Học sinh đều tích cực hồn thành nhiệm vụ của mình.
- Khi có vấn đề chưa hiểu hoặc khó khăn khơng giải quyết được thì các
em đã mạnh dạn nhờ giáo viên giúp đỡ.
- Khi giáo viên hướng dẫn, các em rất chăm chú lắng nghe và suy nghĩ rất
tích cực theo hướng giáo viên gợi mở. Sau đó, đa số các nhóm đều có thể tự tìm

ra cách giải quyết cho mình.
- Có nhiều em nghĩ ra phương án thí nghiệm để giải quyết nhiệm vụ được
giao thì các em đã mạnh dạn trình bày ý tưởng với giáo viên và các bạn cùng
nhóm.
- Các em đều rất háo hức mong đợi đến buổi tổng kết để được ra mắt các
sản phẩm mà các em đã chế tạo được và giao lưu với nhóm khác.
-) Một số biểu hiện của tính sáng tạo của học sinh
- Hầu hết các nhóm đều đưa ra được cách chế tạo dụng cụ thí nghiệm. Ví
dụ như nhóm 2: các em đã tìm được nguồn 1 chiều là pin hoặc acquy xe máy,
xe máy điện...
- Trong thí nghiệm có nhiều phương án, học sinh có thể so sánh được các
phương án. Ví dụ trong nhiệm vụ 1, các em thay đổi số lượng quả chanh, hoặc
thay quả chanh bằng quả khế, củ khoai tây để chế tạo pin. Nhóm 1 đã suy luận
được: thời gian đèn Led sáng lâu hơn nếu số lượng quả nhiều hơn và độ sáng
giảm dần đối với pin chanh, pin khế, pin khoai tây. Thực hiện làm pin với hai
điện cực là đồng và sắt cho đèn Led có độ sáng sáng hơn nhiều so với khi thực
hiện với hai điện cực nhơm và sắt.
- Học sinh có thể vận dụng kiến thức thu được một cách linh hoạt trong
việc giải thích các hiện tượng thực tế. Các câu hỏi trong phần thi đố vui được
dùng để kiểm nghiệm điều này.
2.4.2 Đối với bản thân giáo viên
Quy trình đã lập có nội dung và phương pháp phù hợp đối với học sinh,
có tính khả thi và đạt được hiệu quả, mục đích dạy học. Đây là một bài học kinh
nghiệm và nguồn tham khảo để bản thân và các đồng nghiệp áp dụng vào giảng
dạy cũng như tiếp tục nghiên cứu, phát triển về nội dung và phương pháp hơn
nữa.
14

skkn



Tổ chức thành công hoạt động này là một luồng gió mới về đổi mới
phương pháp dạy học, góp phần thúc đẩy bản thân tơi và các đồng nghiệp tích
cực trau dồi, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tiếp tục hăng say đổi mới
phương pháp dạy học tích cực và hiệu quả hơn nữa, đồng thời bồi đắp lòng yêu
nghề và sự tận tâm với học sinh.

15

skkn


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
Qua kết quả của việc tổ chức hoạt động giao các nhiệm vụ tự thiết kế, chế
tạo các dụng cụ thí nghiệm đơn giản và tiến hành thí nghiệm với các dụng cụ đó
cho học sinh lớp 11 ở trường THPT Yên Định 3 Thanh Hóa theo nội dung,
phương pháp và hình thức đã xây dựng, tôi thấy hoạt động này đã đạt được hiệu
quả dạy học rất cao, nó đã khắc phục được những điểm cịn hạn chế của dạy học
nội khóa, đó là học sinh đã được làm thí nghiệm và vận dụng kiến thức vào
thực tiễn nhiều hơn. Nhờ đó, các em củng cố, mở rộng, đào sâu thêm các kiến
thức, rèn luyện được kĩ năng, hình thành tình cảm thái độ đúng đắn. Hình thức
mới mẻ và nội dung hấp dẫn, phù hợp của hoạt động đã thu hút học sinh tham
gia một cách tích cực. Học tập một cách thoải mái, khơng gị bó tạo điều kiện
cho học sinh chiếm lĩnh tri thức một cách tự nhiên, kích thích sự ham hiểu biết,
tìm tịi và sáng tạo, rèn luyện cho học sinh thói quen học đi đơi với hành, gắn
liền kiến thức lý thuyết với thực tiễn, đem lại hiệu quả rất rõ rệt trong việc phát
huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh.
3.2 Kiến nghị
Nhà trường và giáo viên cần có sự đầu tư, khai thác và sử dụng có hiệu

quả các thí nghiệm vật lí đã có hơn nữa; nên bổ sung thêm các dụng cụ thí
nghiệm cần thiết, có thể bằng cách tự chế tạo.
Giáo viên cần đa dạng hóa các hình thức dạy học, đổi mới phương pháp
một cách hiệu quả, đặc biệt chú trọng vai trò trung tâm của học sinh trong qua
trình hình thành kiến thức và kĩ năng.
Nên tận dụng các giờ học tự chọn để tổ chức các hoạt động ngoại khóa
cho học sinh.
Giáo viên cần áp dụng hình thức tổ chức hoạt động tự làm thí nghiệm ở
nhà cho học sinh vào nhiều bài học và nội dung kiến thức khác nữa.
Xác nhận của BGH
Cam kết: đề tài SKKN do tôi tự viết,
không coppy của người khác, nếu sai
tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm.
Ngày 27/4/2022
Tác giả:
Lê Thị Bích Việt

16

skkn


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Giáo dục - 2005
2. Nguyễn Ngọc Hưng, Thiết kế, chế tạo và sử dụng các dụng cụ thí nghiệm
đơn giản trong dạy học Vật lí ở trường phổ thông, Đại học sư phạm – Đại
học Quốc gia Hà Nội.
3. Nguyễn Ngọc Hưng, Thí nghiệm Vật lí ở nhà của học sinh, trường Đại học
Sư phạm Hà Nội.
4. Lương Duyên Bình, Vũ Quang (đồng Chủ biên), Nguyễn Xuân Chi, Đàm

Trung Đồn, Bùi Quang Hân, Đoàn Duy Hinh, Sách giáo khoa Vật lí 11,
NXB Giáo dục, Hà Nội
5. Lương Duyên Bình, Vũ Quang (đồng Chủ biên), Nguyễn Xuân Chi, Đàm
Trung Đồn, Bùi Quang Hân, Đoàn Duy Hinh, Sách giáo viên Vật lí 11,
NXB Giáo dục, Hà Nội
6. Nguyễn Đức Thâm (chủ biên), Nguyễn Ngọc Hưng, Phạm Xuân Quế (2002),
Phương pháp dạy học Vật lí ở trường phổ thơng, NXB Đại học sư phạm, Hà
Nội.
7. Phạm Hữu Tịng (2004), Bồi dưỡng kỹ năng thiết kế phương án dạy học theo
hướng phát triển hoạt động tích cực, tự chủ, sáng tạo và tư duy khoa học,
Tài liệu bồi dưỡng giáo viên.

17

skkn


`
DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Bích Việt
Chức vụ và đơn vị cơng tác: Giáo viên Vật lí, Trường THPT Yên Định 3

TT

Tên đề tài SKKN

1.


Hướng dẫn học sinh
khối 12 giải nhanh bài
tập về thời gian và
đường đi trong dao
động điều hòa bằng
việc vận dụng mối quan
hệ giữa dao động điều
hịa và chuyển động
trịn đều.
Hướng dẫn học sinh có
học lực trung bình và
yếu, sử dụng kiến thức
tốn học hàm số mũ để
giải nhanh và chính xác
các bài tập phần Điện
tích – Điện trường.

2.

Cấp đánh giá xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)
Sở GD&ĐT
tỉnh Thanh Hóa
Quyết định số:
743/QĐ-SGD&ĐT
Ngày 04/11/2013

Sở GD&ĐT

tỉnh Thanh Hóa
Quyết định số:
972/QĐ-SGD&ĐT
Ngày 24/11/2016

Kết quả
đánh giá Năm học
xếp loại đánh giá
(A, B,
xếp loại
hoặc C)
2012 –
2013
C

20152016
C

18

skkn



×