Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

SKKN Phát huy tính tích cực của học sinh trong Đọc - Hiểu văn bản Ngữ văn 8 ở trường THCS Định Tân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.99 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Đối tượng nghiên cứu
IV. Phương pháp nghiên cứu
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
1. Thế nào là phát huy tích cực chủ động sinh
2. Khung chương trình văn bản Ngữ văn 8
3. Vai trò của phát huy tính tích cực chủ động trong
đọc hiểu văn bản
II. Thực trạng vấn đè trước khi áp dụng
1. Thực trạng
2. Kết quả
III. Giải pháp và tổ chức thực hiện
1. Giải pháp
1. 1. Tạo hứng thú giờ học
1. 2. Xây dựng hệ thống câu hỏi đa dạng
1. 3. Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực
1. 4. Sử dụng phương pháp dạy học phù hợp
2. Các biện pháp tổ chức
2. 1. Hướng dẫn học sinh học ở nhà
2. 2. Biên soạn câu hỏi phù hợp
2. 3. Liên hệ nội dung với thực tế
2. 4. Tổ chức hoạt động nhóm
2. 5. Tích hợp kiến thức với phân môn khác
2. 6. Sử dụng các phương tiện nghe, nhìn
IV. Kết quả nghiên cứu
C. KẾT LUẬN
I. Kết luận


II. Ý kiến đề xuất
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC XẾP GIẢI

SangKienKinhNghiem.net

TRANG
1
1
2
2
3
4
4
4
4
4
5
6
7
7
7
7
8
8
9
9
9
10
10

11
11
12
13
13
14
15
16


A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề
Văn học không chỉ phản ánh thực tại khách quan, mà còn gửi gắm tâm
tư, tình cảm của các nhà văn. Văn học góp phần bồi đắp làm cho đời sống tâm
hồn thêm phong phú, hình thành và phát triển nhân cách con người, là sợi dây
nối người học với tác giả. Một tác phẩm văn chương cổ đại đến nay vẫn luôn
trẻ trung, tươi mới vì nó chứa đựng trong đó những tình cảm, những xúc động
những niềm rung cảm mãnh liệt nhất, sâu săc nhất, thắm thiết nhất và tiêu
biểu nhất của con người.
Văn học là một loại hình nghệ thuật lấy ngơn từ làm phương tiện thể
hiện. Có thể coi, mỗi một tác phẩm văn học là một viên ngọc trong cuộc sống,
nó bay bổng tạo nên những khúc nhạc làm cho cuộc sống đời thường thêm
chất thơ. Vậy làm thế nào cho học sinh cảm nhận được chất thơ của cuộc sống
đời thường cũng như có thể sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật có giá
trị? Tơi nghĩ đó là một việc làm mà mọi giáo viên đang tìm cách đi nhẹ nhàng
nhất và có hiệu quả nhất.
Dạy học tác phẩm văn chương là đi tìm hiểu vẻ đẹp của tác phẩm nghệ
thuật mà thông qua nội dung các em được bồi dưỡng thêm đời sống tâm hồn
phong phú. Việc này quả không dễ đối với mỗi giáo viên dạy học Ngữ văn.
Hơn nữa. mỗi tác phẩm không chỉ có nội dung sâu sắc, ý nghĩa nhân văn cao

cả mà còn đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện. Bởi vậy, hình thức và nội dung là
hai mặt gắn bó, bổ sung, hỗ trợ làm nên thành công của một tác phẩm văn
học.
Hiện nay mục tiêu giáo dục phổ thông là “Giúp học sinh phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển
năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn
bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây
dựng và bảo vệ tổ quốc”. Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm
theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5/5/62006 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối
tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương
pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học
tập cho học sinh”
Ngoài ra, Luật Giáo dục 2005 (Điều 5) quy định: “Phương pháp giáo
dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người
học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say
mê học tập và ý chí vươn lên”.
Như vậy, trong dạy học Văn, để tổ chức giờ Đọc - hiểu văn bản thành
cơng thì phải phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo ở mọi học
sinh. Có như vậy mới tổ chức cho học sinh tìm ra tri thức, đối thoại với nhà
văn thông qua văn bản. Nếu làm được điều này sẽ thay thế phương pháp dạy
1
SangKienKinhNghiem.net


học truyền thống vốn đang còn tồn tại rải rác, tạo hứng thú, niềm say mê cho
các em, để các em tự hồn thiện mình, sống có nhân cách hơn, cao đẹp hơn.

Là một giáo viên đã giảng dạy môn Ngữ văn nhiều năm ở bậc Trung học
cơ sở, tôi nhận thấy, một số thầy cơ vẫn cịn thuyết trình nhiều, việc cung cấp
kiến thức đơi khi cịn mang tính chất áp đặt, đặc biệt ở khâu “Đọc - hiểu văn
bản”. Thực tế đó đã trăn trở và thơi thúc tơi tìm tịi, nghiên cứu rồi vận dụng
phương pháp mới vào dạy mơn Ngữ văn. Tơi thiết nghĩ có nhiều cách để phát
huy tính tích cực của học sinh như thực hiện thật tốt, thật sáng tạo nguyên tắc
tích hợp vì theo giáo sư Nguyễn Khắc Phi khẳng định “… xét về bản chất của
việc vận dụng triệt để nguyên tắc ấy khơng cho phép dạy học theo kiểu máy
móc rập khn, nhồi sọ mà ln ln địi hỏi sự năng động, sự vận dụng linh
hoạt sáng tạo của người thầy”.
Chính vì vậy, tơi mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình để được chia sẻ cùng
các bạn đồng nghiệp: “Phát huy tính tích cực của học sinh trong Đọc - hiểu
văn bản Ngữ văn 8 ở trường THCS Định Tân”
II. Mục đích nghiên cứu
Khi đặt ra vấn đề: Làm thế nào để phát huy tính tích cực của học sinh
trong Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 8 ở bậc THCS ? Tôi muốn các đồng nghiệp
chia sẻ những kinh nghiệm giảng dạy, trao đổi bàn luận để tìm ra biện pháp
thiết thực khả thi nhất để giải quyết tình trạng học sinh chỉ chú ý đến môn học
tự nhiên hơn là học Ngữ văn. Trong đề tài này tôi sẽ phân tích chứng minh vai
trị, ý nghĩa của Phát huy tính tích cực trong đọc hiểu văn bản. Đồng thời tơi
sẽ phân tích thực trạng của tiết dạy Đọc- hiểu văn bản ở trường Trung học cơ
sở. Trên cơ sở và thực tiễn, tôi sẽ mô tả cách thức tổ chức để phát huy tính
tích cực trong đọc hiểu văn bản. Tạo cho các em học sinh có hứng thú trong
giờ học, xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp, sử dụng các phương pháp tích
cực, phù hợp với từng bài. Thông qua mô phỏng một số văn bản đọc hiểu và
kết hợp một số giair pháp cụ thể trên cơ sở lý luận và thực tiễn có sức thuyết
phục thì đề tài này là tư liệu dạy học cho giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ
văn. Mặt khác, thơng qua đề tài này, tơi có dịp được trao đổi, học hỏi kinh
nghiệm giảng dạy ở đồng nghiệp trong và ngồi trường, từ đó việc đổi mới
phương pháp giảng dạy sẽ đạt kết quả cao hơn. Mục đích cuối cùng của tôi là

làm thế nào cho những thế hệ học sinh khơng chỉ thích học văn mà cịn phát
huy tính tích cực khả năng đọc hiểu và cảm thụ tốt văn bản để nâng cao năng
lực rèn luyện cảm xúc từng bước nâng cao tâm hồn trong sáng, nhân ái, biết
vươn tới chân - thiện - mĩ.
III. Đối tượng nghiên cứu:
Ngữ văn là một trong những bộ môn quan trọng có ý nghĩa thiết thực
đối với con người. Cùng với các mơn học khác, Ngữ văn ngồi việc trang bị
kiến thức cơ bản còn rèn luyện các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết cho học sinh.
Ngữ văn THCS gồm ba phân môn: Văn học, Tiếng Việt, Tập làm văn, trong
đó Văn học chiếm ưu thế. Để các em học sinh có thể cảm thụ tốt các tác phẩm
văn học có rất nhiều phương pháp để dạy học có hiệu quả trong đó phương
pháp phát huy tính tích cực trong đọc hiểu văn bản là phương pháp tạo được
sự chủ động hứng thú với học sinh.
2
SangKienKinhNghiem.net


- Đề tài này tôi tập trung nghiên cứu về phát huy tính tích cực của học
sinh trong Đọc - hiểu văn bản Ngữ văn 8.
- Đối tượng khảo sát:
+ Học sinh khối 8 Trường THCS Định Tân trong năm học 2017- 2018
(khảo sát thực tế trước khi áp dụng giải pháp).
+ Học sinh lớp 8 Trường THCS Định Tân trong năm học 2018- 2019
(khảo sát thực tế sau khi áp dụng giải pháp).
IV. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: các tài liệu về khai
thác đọc- hiểu trong dạy tác phẩm văn học.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế. thu thập thông tin: thông qua
thực tế giảng dạy và các tiết dự giờ của đồng nghiệp, thu thập thông tin từ
đồng nghiệp, học sinh.

- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: thơng qua đối chiếu, so sánh.
phân tích và tổng hợp.
- Phương pháp phân tích ví dụ điển hình: thơng qua các văn bản trong
chương trình THCS.

3
SangKienKinhNghiem.net


B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
1. Đặc trưng phương pháp dạy học tích cực
Trước hết, ta cần hiểu tính tích cực là gì? Đó là phát huy triệt để năng
lực cá nhân, không ỷ lại, không phụ thuộc vào người khác, năng nổ, hăng say
trong hoạt động học tập. Cùng với tính tích cực là chủ động: là tự mình chuẩn
bị, khám phá, lĩnh hội những kiến thức cơ bản trong giờ học dưới sự hướng
dẫn của giáo viên như đọc, soạn bài, tìm đọc các tài liệu có liên quan v. v…
Nếu một học sinh có tính tích cực, chủ động thì năng lực sáng tạo sẽ nảy sinh.
Đó là phát hiện những tri thức mới, những ý nghĩa sâu xa mang tính triết lí
của văn bản, là tìm cho mình cách học tập đúng đắn.
2. Vai trị của phát huy tính tích cực trong Đọc - hiểu văn bản
Với các loại văn bản trên, kỹ năng “Đọc - hiểu văn bản” của học sinh
cần đạt tới mức độ sau:
- Biết đọc thầm, đọc thành tiếng diễn cảm.
- Biết chọn đọc những đoạn văn bản có minh họa cho các nhiệm vụ học
tập một cách chính xác, tốc độ vừa phải, đúng với nội dung văn bản.
- Biết đọc nhanh các đoạn văn bản, có những cách dùng từ ngữ và cấu
trúc câu phức tạp với năng lực phán đốn ngơn ngữ nhanh nhạy.
- Biết đặt câu hỏi cho mình hoặc cho người khác để hiểu mục đích văn
bản và các yêu cầu của nội dung học tập.

- Biết tóm tắt, chia đoạn, xác định chủ đề, mối liên hệ giữa các phần
trong văn bản và biết đặt tên cho đoạn văn
- Biết nhận ra các câu văn, đoạn văn hay, có nội dung sâu sắc và hiểu
được nghĩa, vai trò và tác dụng của các từ ngữ, câu then chốt, các biện pháp
nghệ thuật trong đoạn văn đó.
- Nhớ chính xác một số câu, đoạn và văn bản hay, thơ hay biết bình giá
chi tiết nghệ thuật trong các văn bản.
- Đọc và hiểu được các phương thức biểu đạt khác nhau và đặc điểm thể
loại, thái độ, tình cảm và tư tưởng của tác giả.
- Xác định được các hệ thống luận điểm và tuyến lập luận trong các văn
bản qua việc tổng kết các tác phẩm tự sự, trữ tình, nghị luận, nhật dụng và sự
kết hợp các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, lập luận, thuyết minh trong
một số tác phẩm qua việc hệ thống hoá các khái niệm: Loại, thể loại, đặc điểm
của truyện ngắn, tiểu thuyết và thể hiện đại.
3. Khung chương trình phân mơn Đọc - hiểu trong Ngữ văn 8
Trong chương trình Ngữ văn 8, các văn bản rất đa dạng về thể loại. Cụ
thể là:
*. Một số truyện Việt Nam 1930- 1945
- Tôi đi học (Thanh Tịnh)
- Trong lịng mẹ (trích “Những ngày thơ ấu” - Ngun Hồng)
- Tức nước vỡ bờ (trích “ Tắt đèn” - Ngô Tất Tố)
- Lão Hạc (Nam Cao)
*. Một số truyện nước ngồi
- Cơ bé bán diêm (An-đéc-xen)
4
SangKienKinhNghiem.net


- Đánh nhau với cối xay gió (trích “Đơn-ki-hơ-tê” - Xéc-van-téc)
- Chiếc lá cuối cùng (O. Hen-ri)

- Hai cây phong (Ai-ma-tốp)
*. Một số văn bản thơ trữ tình giàu yếu tố biểu cảm.
- Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông (Phan Bội Châu)-> Đọc thêm ở
nhà.
- Đập đá ở Côn Lôn (Phan Châu trinh)
- Muốn làm thằng Cuội (Tản Đà)
- Ông đồ (Vũ Đình Liên)
- Hai chữ nước nhà (Á Nam Trần Tuấn Khải)
- Nhớ rừng (Thế Lữ)
- Quê hương (Tế Hanh)
- Khi con tú hú (Tố Hữu)
- Tức cảnh Pác Bó, Ngắm trăng, Đi đường (Hồ Chí Minh)
*. Một số tác phẩm nghị luận
- Chiếu dời đô (Lý Công Uẩn)
- Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn)
- Nước Đại Việt ta (Nguyễn Trãi)
- Bàn luận về phép học (Nguyễn Thiếp)
- Thuế máu (Nguyễn Ái Quốc)
- Đi bộ ngao du (Ru - xơ)
*. Một số đoạn trích kịch: Ơng Guốc-đanh mặc lễ phục
*. Một số văn bản nhật dụng: “Thông tin về trái đất năm 2000”, “Ơn
dịch thuốc lá”, “Bài tốn dân số”
II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
1. Thực trạng
Trước đây trong nhà trường sử dụng chủ yếu phương pháp dạy học
truyền thống: người thầy đóng vai trị chủ đạo trong việc cảm thụ. Người thầy
chỉ biết đến văn bản và chỉ quan tâm đến nội dung, nghệ thuật, tài năng, khám
phá cho sâu chỗ độc đáo của văn bản rồi tìm ra những thủ pháp, hình thức lơi
cuốn học sinh cảm thơng, đồng điệu với những gì giáo viên đã tìm tịi phát
hiện được. Khi bắt đầu thay sách, phương pháp dạy học cũ đã được cải tiến

nhưng cịn trì trệ. Tình trạng giáo viên áp dụng máy móc cơng thức “cấu trúc”
bài giảng, diễn giảng tràn lan, biến giờ văn thành giờ thuyết giảng v. v… đã
khiến cho các giờ giảng văn thành giờ tẻ nhạt. Trước tình hình này phương
pháp dạy học mới đã được thay thế.
Hiện nay phương pháp dạy học tích cực là phương pháp chủ yếu. Với
phương pháp này học sinh đóng vai trị trung tâm trong việc lĩnh hội tri thức,
giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn, điều hành các hoạt động. Tư tưởng
quan trọng nhất của phương pháp mới là không áp đặt, không làm thay, không
suy nghĩ và cảm thụ thay cho học sinh. học sinh được tơn trọng, được nhìn
nhận như là chủ thể sáng tạo được đánh giá như là những bạn đọc có văn hố,
tham gia tích cực vào q trình tìm hiểu, cảm thụ, bình giá và chiêm nghiệm
tác phẩm.
5
SangKienKinhNghiem.net


Tuy nhiên, tình trạng học sinh cịn thụ động trong các giờ học (nhất là
giờ Đọc - hiểu văn bản) vẫn diễn ra. Hầu hết các em chưa phát huy được tính
cá nhân của mình, đó là: tích cực, chủ động, sáng tạo.
Trong một lớp học, giáo viên rất khó để có thể phát huy được hết học
sinh học tập tích cực. Nghĩa là: phương pháp dạy học tích cực chưa sử dụng
triệt để. Vì sao vậy? Có thể nhìn cả hai phía giáo viên và học sinh.
* Về giáo viên:
Có những văn bản dài mà tiết trong khung phân phối chương trình lại ít
nên giáo viên thường phải “chạy” trong 45 phút. Có nhiều câu hỏi đưa ra
nhưng chỉ có một số em trả lời. Nếu giáo viên hỏi đối tượng khơng giơ tay thì
sẽ có nguy cơ “cháy” giáo án. Do đó việc phát huy tính tích cực ở học sinh
chỉ có một số học sinh trong lớp. Bên cạnh đó, giáo viên chưa có nhiều cải
tiến trong suốt quá trình giảng dạy. Hầu như khi dạy văn, phương pháp vấn
đáp là chủ yếu, sau đó là phương pháp giảng bình. Các phương pháp khác

cũng có nhưng ít, nhất là việc áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích
cực thì cịn hạn chế. Mặt khác, giáo viên chưa chú ý hết đến đối tượng học
sinh, học sinh yếu kém ít được hoạt động. Hơn nữa, giáo viên chưa để học
sinh tiếp xúc “trực tiếp” với tác phẩm, thường học sinh là người nhận, chứ
chưa cảm, nên khơng ít hứng thú trong học văn.
* Về học sinh:
Phải nói rằng, lứa tuổi học sinh THCS đặc điểm tâm sinh lý hết sức
phức tạp. Đây là thời kỳ quá độ chuyển từ giai đoạn trẻ em sang người lớn.
Trong giai đoạn này hứng thú của các em đã phát triển ở mức độ cao, hứng
thú về học tập đã phát triển và ngày càng đậm nét. Đây là một đặc điểm hết
sức thuận lợi đối với việc giảng dạy bộ mơn Ngữ văn. Việc tị mị thích thú
mơn văn không phải là khoảng cách xa đối với các em. Bên cạnh đó ý thức tư
lập và khả năng đào sâu khám phá những nét đẹp trong cuộc sống là một ưu
điểm điển hình của học sinh bậc THCS. Song song với những ưu điểm trên,
một số em còn rụt rè e ngại, đơi lúc cịn nản chí, nản lịng khi tiếp cận với một
văn bản khó. Hơn nữa hầu như kiến thức và khả năng tiếp nhận văn bản ở các
em khơng giống nhau. Có nhiều em khơng được giáo viên chú ý, giao nhiệm
vụ, nên cảm thấy chán nản, khơng thích giơ tay rồi lười suy nghĩ. Qua một
thời gian sẽ tạo sức lì, ỷ lại và học sinh học chỉ để học đối phó, thực chất chưa
phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo. Hơn nữa trên thị trường
sách tham khảo nhiều, tràn lan nên năng lực sáng tạo ít được phát huy. Nhiều
em phụ thuộc tài liệu, học để có điểm chứ khơng phải vì hứng thú.
2. Kết quả thực trạng
Có thể nói, qua các năm giảng dạy ở lớp 8 cũng như các khối lớp khác
tôi nhận thấy kĩ năng đọc - hiểu văn bản của các em còn hạn chế, kiến thức
tiếp thu chưa cao, tỉ lệ yếu kém còn nhiều và nhất là chưa phát huy tính tích
cực của các em. Vì vậy, năm học 2017-2018 tơi đã trực tiếp giảng dạy lớp 7A
khi chưa phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ Đọc - hiểu văn bản nên
kết quả đem lại hiệu quả không cao. Cụ thể như sau:
6

SangKienKinhNghiem.net


Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
36
3
8,3
8
20,6
19
52,7
6
16,6
III. Giải pháp tổ chức thực hiện
1. Giải pháp
Như chúng ta đã biết “văn học là nhân học”, “văn học là nghệ thuật của
ngơn từ”. Chính vì vậy việc học văn không phải là đơn giản, hơn nữa trong
thời đại hiện nay, mơn Ngữ văn khơng cịn là “điểm đến” hấp dẫn với các em
học sinh như các môn Tốn, Lý, Hố, Anh … mặc dù đó là một trong 2 mơn

chính chiếm số lượng tiết nhiều nhất. Có nhiều học sinh rất ngại học môn Văn
bởi lý do là văn viết dài, khó học, khó thuộc. Có những tác phẩm tự sự dài
học sinh lười không đọc hết dẫn tới tình trạng mơ màng về nội dung, cốt
truyện, nhân vật. Có những bài thơ khi học xong học sinh không nắm được
những nghệ thuật tiêu biểu, nội dung của bài thơ. Những lý do trên khiến tâm
lý học sinh ngại và chán học môn Văn. Vậy làm thế nào để khắc phục khó
khăn đó? Làm thế nào để tiết dạy học mơn Ngữ văn 8 thật sự có hiệu quả để
thu hút học sinh say mê học tập và phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo
của các em?
Từ thực trạng trên, tơi đã tìm hiểu tâm lí học sinh, nghiên cứu phương
pháp dạy học tích cực để tìm ra một số giải pháp để phát huy tính tích cực,
chủ động và sáng tạo ở học sinh trong giờ Đọc - hiểu văn bản ở phân môn
Ngữ văn 8 mà tôi đang trực tiếp giảng dạy. Cụ thể như:
1.1. Tạo hứng thú trong giờ học.
Đây là khâu rất quan trọng, ảnh hưởng đến kết quả học tập. Bởi tâm lí
của thầy và trị thoải mái thì việc dạy và học sẽ không bị ức chế, căng thẳng.
Do đó, học sinh sẽ tích cực trong giờ học.
Có thể tạo hứng thú từ đầu giờ hoặc trong từng nội dung bài học. Mục
đích là để tâm lí các em thoải mái, dễ chịu, phấn chấn để học tập. Có rất nhiều
cách tạo hứng thú. Một trong những cách tôi hay sử dụng là tích hợp nội dung
bài học với các mơn học có liên quan, hoặc cho học sinh tiếp cận văn bản
bằng nghe, nhìn qua các phương tiện, thiết bị dạy học.
Ví dụ: - Khi dạy bài “Thuế máu” (Nguyễn Ái Quốc) trong phần giới
thiệu tác giả, tôi sẽ tích hợp với mơn Lịch sử. Đó là u cầu học sinh trình bày
ngắn gọn một số hoạt động của Bác Hồ tại Pháp. Hoăc khi phân tích phần I:
Chiến tranh và “người bản xứ” học sinh có thể trình bày ngắn gọn nguyên
nhân, diễn biến của cuộc đại chiến thế giới I.
- Khi dạy bài “Bài toán dân số” tơi tích hợp với mơn Địa lí về số dân ở
Việt Nam, hậu quả của tăng dân số, cách hạn chế sự gia tăng dân số.
1.2. Xây dựng hệ thống câu hỏi đa dạng phù hợp với trình độ học sinh

Câu hỏi là những chìa khố để các em mở cánh cửa, lĩnh hội các tri thức
của văn bản. Hệ thống câu hỏi chặt chẽ, đa dạng sẽ thu hút được mọi học sinh
hoạt động. Khi thiết kế, giáo viên cần chú ý đối tượng trả lời. Câu hỏi cho đối
tượng khá giỏi phải là câu hỏi nâng cao, học sinh trung bình, yếu trả lời câu
hỏi ở mức độ nhận biết và thông hiểu. Khi học sinh chưa trả lời được, giáo
Sĩ số

7
SangKienKinhNghiem.net


viên cần có hệ thống câu hỏi gợi mở phù hợp, tránh nơn nóng cung cấp đáp
án.
1.3. Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực là phương pháp giáo dục, dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Trong q
trình học mối quan hệ thầy - trị được thể hiện như sau:
Thầy - Tác nhân -> Trò - Chủ thể
1. Hướng dẫn -> Tự nghiên cứu
2. Tổ chức -> Tự thể hiện
3. Trọng tài, cố vấn -> Tự kiểm tra
4. Kết luận, kiểm tra -> Tự điều chỉnh
Những phương pháp tích cực cần được sử dụng là: Vấn đáp, dạy học đặt
và giải quyết vấn đề, dạy học trong nhóm nhỏ, tổ chức trị chơi. Khi sử dụng
các phương pháp này góp phần giáo dục kĩ năng sống cho học sinh như: Kĩ
năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác, kĩ năng ra quyết định lựa chọn, kĩ năng xác
định giá trị bản thân.
1.4. Sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp từng văn bản
Các phương pháp sử dụng là phương pháp đọc sáng tạo, hỏi đáp, đàm
thoại, nêu vấn đề, thuyết trình, giảng bình v. v…trong đó đọc sáng tạo, nêu

vấn đề, giảng bình, vấn đáp là những phương pháp rất quan trọng. Tuỳ từng
nội dung bài học, kiểu văn bản để sử dụng các phương pháp.
Khi dạy văn bản trữ tình, giáo viên cần chú trọng phương pháp giảng
bình. Ở đây giáo viên hướng dẫn các em bình giảng các từ ngữ, câu thơ, hình
ảnh hay, nghệ thuật tiêu biểu để tìm ra giá trị bài thơ và phát huy năng lực
cảm thụ cá nhân.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Ơng đồ” (Vũ Đình Liên) tơi cho học sinh cảm nhận
các hình ảnh thơ sau:
- Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
- Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay
Để cảm nhận được, trước hết cho các em phát hiện nghệ thuật (ẩn dụ,
nhân hóa) từ đó tìm ra giá trị của câu thơ (Nỗi buồn tủi của ông đồ đã thẫm
vào đồ vật khiến cho giấy không thắm, mực đọng sầu trong nghiên. Hơn nữa
nó cịn lan tỏa vào khơng gian đất trời. Thiên nhiên dường như cũng đang
chia sẻ tâm trạng với ông đồ).
1.5. Phát động học sinh làm và sưu tập tranh ảnh, đồ dùng học tập
Trong chương trình khơng phải bài nào cũng có đồ dùng dạy học. Muốn
tổ chức Đọc - hiểu văn bản thành cơng thì đồ dùng trực quan là rất quan
trọng. Có những bài giáo viên tự làm, song nên giao cho học sinh để các em
tự phát huy tính tích cực, sáng tạo của mình. Có những văn bản có tranh minh
hoạ, giáo viên cần khuyến khích các em vẽ những bức tranh do mình cảm thụ,
tưởng tượng ở những văn bản khơng có tranh minh hoạ.
Ví dụ: Ngồi các văn bản có tranh trong Sách giáo khoa, giáo viên cần
hướng học sinh vẽ tranh của các văn bản “ Nước Đại Việt ta” (Nguyễn Trãi);
8
SangKienKinhNghiem.net



“ Ôn dịch thuốc lá” (Vẽ về sự ảnh hưởng của thuốc lá đối với đời sống con
người). “ Thông tin về ngày Trái đất năm 2000” (Vẽ về sự ô nhiễm môi
trường hiện nay và cách bảo vệ môi trường)…
2. Các biện pháp tổ chức thực hiện
Từ các giải pháp trên, trong q trình dạy học, tơi đã áp dụng nhiều biện
pháp để bài học không khô khan, gây được hứng thú, huy động trí lực tất cả
học sinh. Sau đây tơi xin trình bày một số biện pháp mà tôi thường xuyên sử
dụng.
2.1. Hướng dẫn học sinh học ở nhà cụ thể
Trước hết là đọc, soạn bài, riêng đọc cần đúng giọng điệu theo cảm nhận
của em. Sau là giao cho các nhóm chuẩn bị đồ dùng học tập như vẽ tranh, sưu
tầm tranh về chân dung tác giả văn học.
Ví dụ: -Khi dạy “Thuế máu” (Nguyễn Ái Quốc) học sinh cần chuẩn bị:
- Đọc đúng giọng điệu; vẽ tranh trong SGK; Tìm hiểu cuộc đại chiến thế
giới I; Tư liệu về hoạt động của Bác Hồ tại Pháp đầu thế kỉ XX.
- Khi dạy: “ Lão Hạc” (Nam Cao) học sinh chuẩn bị: đọc, tóm tắt, soạn
bài, sưu tầm ảnh nhà văn Nam Cao, vẽ nhân vật lão Hạc.
2.2. Biên soạn câu hỏi phù hợp với văn bản và từng đối tượng học
sinh.
Có rất nhiều loại câu hỏi, nhưng nhìn chung về hình thức có hai dạng:
trắc ngiệm và tự luận. Thông thường giáo viên hay dùng hình thức tự luận. Để
tránh nhàm chán, giáo viên có thể ra trắc nghiệm. Tuy nhiên nên đưa bằng các
câu củng cố nắm vững và nâng cao.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Bàn luận về phép học” (Nguyễn Thiếp)
- Câu hỏi tự luận:
1) Em hiểu lối học lệch lạc, sai trái mà tác giả đưa ra như thế nào?
2) Khi bàn về cách học, tác giả đã đề xuất những ý kiến nào? ở đây kế
sách mới cho việc học chân chính là gì?
- Câu hỏi trắc nghiệm: Nếu nói theo cách hiểu hơm nay của chúng ta
thì đạo học thành sẽ có sức mạnh:

a.
Cải tạo con người
b.
Cải tạo xã hội
c.
Thúc đẩy sự phát triển của xã hội theo hướng tích cực
Học sinh sẽ lựa chọn câu trả lời và tự bộc lộ suy nghĩ của mình
Bên cạnh đó, về nội dung câu hỏi cũng quy thành hai loại:
- Câu hỏi nhằm tìm hiểu tác phẩm có tính chất nghiên cứu văn học
như tìm hiểu chủ đề, nhân vật…
Ví dụ: Khi dạy: “ Lão Hạc” (Nam Cao) giáo viên đặt câu hỏi:
Nhân vật chính là ai ? Chủ đề văn bản là gì ?
- Các câu hỏi nhằm khơi gợi hoạt động tự bộc lộ sáng tạo của học
sinh. Đây là những câu hỏi có dạng:
+ Em hãy thử tưởng tượng …
+ Nếu vẽ tranh minh hoạ, em sẽ vẽ như thế nào, đặc tả những nét gì?
+ Em thích chi tiết câu thơ, đoạn thơ nào? Em thích nhân vật nào hơn, vì
sao?
9
SangKienKinhNghiem.net


+ Nếu đặt tên khác cho tác phẩm, em sẽ đặt tên như thế nào?
Ví dụ: Khi dạy: “Lão Hạc” (Nam Cao):
+ Em thử tưởng tượng cuộc gặp gỡ giữa ông giáo và anh con trai lão
Hạc sau khi lão Hạc mất sẽ như thế nào ?
+ Nếu đặt tên khác cho văn bản em sẽ đặt tên là gì ?
Ví dụ: - khi dạy văn bản “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn)
+ Câu hỏi dành cho đối tượng khá giỏi:
-Tác dụng của hình ảnh ẩn dụ: “lưỡi cú diều”, “thân dê chó”? Hoặc Khái

qt trình tự lập luận của Trần Quốc Tuấn?
+Câu hỏi dành cho đối tượng trung bình-yếu:
Trình bày hiểu biết về tác giả? Hoặc Nêu bố cục của văn bản?;
* Đa dạng hóa các loại câu hỏi bằng câu hỏi đóng và câu hỏi mở:
- Câu hỏi đóng chỉ có một câu trả lời đúng và rất ngắn
- Câu hỏi mở khiến học sinh phải suy nghĩ nhiều, và câu trả lời thường
dài, nó thể hiện rõ hơn mức độ hiểu bài.
Ví dụ: Tại sao đoạn trích “ Nước Đại Việt ta” (Nguyễn Trãi) có ý nghĩa
như một bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc?
Ví dụ: Khi dạy bài “Q hương” (Tế Hanh) tơi sẽ đặt câu hỏi thảo luận:
- Nếu sau này xa quê hương, em sẽ nhớ những gì? Em sẽ làm gì để phục
vụ quê hương?
2.3. Liên hệ nội dung bài học với thực tế đời sống và bản thân.
Văn học phản ánh cuộc sống nên thường xuyên gắn bài học với thực tế
để cho học sinh liên hệ, so sánh. Qua đó giáo viên dễ năm được năng lực và
cái “tơi” của học sinh.
Ví dụ: + Khi dạy các văn bản nhật dụng ở lớp 8, cần cho học sinh liên
hệ với địa phương xem vấn đề nào còn bức xúc, vấn đề nào đã được giải
quyết. Từ đó gắn HS cần có những biện pháp nào để giải quyết.
+ Khi dạy: “Lão Hạc” (Nam Cao), “ Tức nước vỡ bờ” (Ngô Tất Tố)
giáo viên đặt câu hỏi liên hệ:
Hiện nay trong xã hội ta và nhất là ở địa phương em có cịn những người
như lão Hạc, chị Dậu không?
+ Khi dạy “Bàn luận về phép học” (Nguyễn Thiếp): giáo viên nên để
học sinh liên hệ với thực tế xem lối học nào đang phổ biến.
Lối học nào thực sự mang lại kết quả tốt cho các em. Từ đó học sinh cần
làm gì để thực hiện được mục đích của mình ?
2.4. Tổ chức hoạt động nhóm có hiệu quả
Hoạt động học tập theo nhóm là hoạt động có ít nhất hai người trở lên
cùng thảo luận nội dung học tập. Với hoạt động này, tất cả học sinh cùng làm

việc đồng thời. Tuy nhiên cần lựa chọn câu hỏi có vấn đề để học sinh thảo
luận. Trong khi hoạt động giáo viên cần chú ý đối tượng yếu. Nếu không các
em dễ ỷ lại vào bạn. Đây là hoạt động khá sôi nổi nên giáo viên phải có sự
bao quát và điều khiển lớp tốt. Trong một giờ nhóm hoạt động tối thiểu 1 lần.
Bài tập Ngữ văn phù hợp với hoạt động nhóm thương là những bài tập
sau:
10
SangKienKinhNghiem.net


- Bài tập là các câu hỏi phân tích tác phẩm, thảo luận về nội dung và
nghệ thuật của văn bản.
- Thảo luận một chủ đề cho trước: tìm hiểu tiểu sử tác giả, tập hợp các ý
tưởng...
Để tổ chức hoạt động nhóm có hiệu quả giáo viên cần theo các bước
sau:
- Chọn bài học, chọn vấn đề cần làm việc theo nhóm
- Thiết kế nội dung làm việc nhóm
- Giao việc cho lớp
- Chia nhóm một cách phù hợp
- Quy định cơng việc, thời gian
- Theo dõi tiến trình hoạt động
- Kết luận về bài học và nhận xét cơng việc.
Ví dụ: Bài “Nhớ rừng” (Thế Lữ) cho học sinh thảo luận nhóm:
Hình ảnh “ con hổ” trong bài thơ có ý nghĩa gì ?
* Với câu hỏi này khi dạy lớp 8 với sĩ số là 36 em, tơi chia lớp thành hai
nhóm
- Nhóm 1:Thảo luận:
Hình ảnh “con hổ” trong vườn bách thú có ý nghĩa gì ? (5 phút)
- Nhóm 2: Thảo luận:

Hình ảnh “con hổ” khi ở giang sơn hùng vĩ ? (5 phút)
* Các nhóm thảo luận
* Đại diện nhóm trình bày
* Các nhóm nhận xét
* Giáo viên cho học sinh chọn lọc đáp án đúng ở hai nhóm để các em
tìm được ý nghĩa của hình ảnh “con hổ” trong văn bản. Đó là hình ảnh tượng
trưng cho người anh hùng thất thế, cảm thấy chán nản trước thực tại tù túng,
chỉ muốn thoát li thực tại để trở về với quá khứ vàng son.
* Giáo viên kết luận, bổ sung, nhận xét hoạt động của các nhóm.
2.5. Tích hợp kiến thức với các phân mơn khác
Văn học có liên quan đến nhiều mơn học, nhất là mơn Lịch sử, Địa lí,
Cơng dân. Bởi vậy trong các bài dạy giáo viên cần hướng học sinh liên hệ
kiến thức với các mơn có liên quan. Một mặt để các em khắc sâu kiến thức,
mặt khác tạo niềm hứng thú say mê, tích cực trong học tập.
Ví dụ: - Khi dạy bài “Nước Đại Việt ta” (Nguyễn Trãi) tôi cho các em
liên hệ về cuộc đời của Nguyễn Trãi, cuộc khởi nghĩa chống quân Minh để
thấy được vai trò và tài năng của Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc.
- Khi dạy “Thông tin về ngày Trái đất năm 2000” tơi tích hợp với mơn
Địa lý, Công dân về thực trạng của môi trường hiện nay và cách bảo vệ môi
trường xanh, sạch, đẹp.
2.6. Sử dụng các phương tiện nghe, nhìn trong giờ học
Cách đây vài thập kỉ, chúng ta khơng thể hình dung về máy ghi âm,
băng hình, đèn chiêú, tranh ảnh đẹp. Nhưng bây giờ, khi sử dụng các thiết bị
này vào trong giờ học thì học sinh rất có hứng thú, học sôi nổi và cảm nhận
sâu sắc bài học.
11
SangKienKinhNghiem.net


Ví dụ: - Khi dạy bài “Ơn dịch thuốc lá”: tơi sử dụng các đoạn vi deo để

học sinh có thể nhìn, nghe trực tiếp về tác hại của hút thuốc lá.
- Khi dạy các văn bản nhật dụng tôi cập nhật thơng tin, hình ảnh, số liệu
trên máy chiếu đa năng để các em nhận thức rõ về tính cập nhật, tính bức xúc
của các văn bản. Từ đó giúp các em tư duy được các biện pháp bảo vệ môi
trường, bảo vệ sức khoẻ và nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người.
IV. Kết quả nghiên cứu
Sau một thời gian nghiên cứu, tơi đã tìm ra các giải pháp, và áp dụng tốt
các biện pháp nêu trên. Kết quả là học sinh có hứng thú với học văn hơn, chất
lượng có tăng đáng kể. Cụ thể là trong học năm học 2018-2019 chất lượng
như sau:

Lớp 8A

Sĩ số
36

Giỏi
SL
7

Khá
%
19,4

SL
12

%
33,3


Trung bình
SL
17

Yếu

% SL
47,2 0

%

12
SangKienKinhNghiem.net


C. KẾT LUẬN
I. Kết luận
Có thể nói, khơng có một tiết học nào có thể thành cơng nếu như người
dạy khơng phát huy tính tích cực chủ động trong hứng thú học tập của học
sinh. Việc phát huy tính tích cực trong Đọc - hiểu văn bản sẽ góp phần không
nhỏ tạo nên chất lượng cho giảng dạy bộ môn Ngữ văn. Người giáo viên dạy
Ngữ văn vừa là nhà thiết kế, vừa là người tổ chức, thi công bài dạy của mình,
vừa giống một nghệ sĩ đưa nghệ thuật văn chương đến với cuộc đời. Việc đó
địi hỏi sự dày công học tập, rèn luyện kiến thức và kĩ năng, chuẩn bị cơng
phu cho bài dạy của mình. Thật vui biết bao nếu người dạy và người học bóc
được những lớp nghĩa, hiểu từng ngụ ý của nhà văn qua lớp vỏ ngơn ngữ.
Muốn vậy, cần phải có phương pháp phát huy được tính tích cực trong đọc
hiểu văn bản. Đó cũng vừa là phương tiện để người dạy, người học thâm nhập
vào tinh thần sâu xa của văn bản.
Trên đây là kinh nghiệm của tôi khi vận dụng “Phát huy tính tích cực

của học sinh trong Đọc - hiểu văn bản Ngữ văn 8 tại Trường THCS Định
Tân”, tôi thấy kết quả khá khả quan. Trong những năm học tới tôi sẽ tiếp tục
bám sát đề tài này để hoàn thiện hơn cho học sinh các khối lớp. Có thể nói,
học tập mơn Văn là để các em có vốn sống, vốn hiểu biết, hình thành nhân
cách của người lao động có văn hố trong mọi lĩnh vực, ngành nghề. Vì vậy,
ngay từ bây giờ, hãy phát huy tính tự giác, tích cực chủ động và sáng tạo của
học sinh để vừa tiếp thu kiến thức vừa rèn luyện các kĩ năng sống, tạo hứng
thú cho các em trong mỗi giờ học. Để phát huy được tính tích cực của các em
trong Đọc - hiểu văn bản đòi hỏi mỗi giáo viên phải vận dụng nhiều phương
pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, đa dạng hóa các hình thức học tập, đưa các
em vào thế giới văn học với niềm say mê và hứng thú.
Xin được chia sẻ cùng các đồng nghiệp những kinh nghiệm của bản thân
tôi về lĩnh vực này để chúng ta cùng nghiên cứu. góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục - đào tạo con người. Do thời gian và năng lực chuyên môn có
hạn nên bài viết này khó tránh khỏi khiếm khuyết. Vậy, kính mong các đồng
nghiệp, các nhà lãnh đạo chuyên mơn góp ý, bổ sung để tơi hồn thiện hơn
sáng kiến kinh nghiệm này.
II. Đề xuất
Từ thực tế giảng dạy môn Ngữ văn của bản thân, tôi xin đề xuất cách
thức tổng quát về phát huy tính tích cực trong Đọc - hiểu văn bản ở bộ môn
Ngữ văn như sau:
1. Đối với giáo viên:
- Giáo viên cho học sinh đọc diễn cảm hoặc đọc thầm tác phẩm tại lớp.
Nêu câu hỏi phù hợp từng đối tượng học sinh để gây sự hứng thú, tích cực, tự
giác trong học tập của các em.
- Giáo viên sử dụng hiệu quả các phương pháp, phương tiện trong dạy
học để tạo cảm giác hứng thú học bài và tiếp thu bài của học sinh.
2. Đối với học sinh.

13

SangKienKinhNghiem.net


- Học sinh đọc và soạn văn bản bằng cách trả lời các câu hỏi trong sách
giáo khoa, tìm và suy nghĩ về các từ ngữ, các câu, đoạn có giá trị biểu đạt,
biểu cảm đặc biệt trong bài.
- Học sinh có thể tạo từng nhóm để khai thác văn bản có hiệu quả hoặc
khích lệ các em vẽ tranh ảnh, sơ đồ để các em hứng thú với nội dung bài học.
3. Đối với nhà trường
- Để công tác giảng dạy ngày càng hiệu quả hơn, tôi đề nghị ban giám
hiệu nhà trường tạo điều kiện cho giáo viên trong quá trình đổi mới phương
pháp cần tăng cường sử dụng các đồ dùng dạy học có liên quan, khuyến khích
và tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề về chun mơn để giáo viên có điều
kiện học tập, đúc rút kinh nghiệm về đổi mới phương pháp dạy học.
- Các sáng kiến kinh nghiệm được xếp loại cấp huyện trở lên cần được
phổ biến để giáo viên học hỏi, vận dụng trong giảng dạy, góp phần nâng cao
chất lượng học tập.
Trên đây là những kinh nghiệm của cá nhân trong quá trình nghiên cứu
và thực hiện. Với thời gian và kinh nghiệm chưa nhiều vì vậy cịn có những
hạn chế nên tơi rất mong được sự góp ý và bổ sung của đồng nghiệp để việc
áp dụng đề tài vào giảng dạy đạt hiệu quả cao hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Định Tân, ngày 10 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác
Người viết


Trịnh Thị Nga

14
SangKienKinhNghiem.net


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.

Sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 1,2.
Sách giáo viên Ngữ văn 8 tập 1, 2.
Sách bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn THCS (quyển 4).
Tư liệu Ngữ văn 8
Tham khảo tư liệu trên mạng internet.

15
SangKienKinhNghiem.net


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:. Trịnh Thị Nga
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường THCS Định Tân
Kết quả

Cấp đánh
đánh giá Năm học
giá xếp loại
xếp loại đánh giá xếp
(Phòng, Sở,
(A, B,
loại
Tỉnh. . . )
hoặc C)

TT Tên đề tài SKKN

1.

Sử dụng đồ dùng trực quan
trong dạy bài 8 - Lịch sử 6

Cấp phòng

Loại C

2002-2003

2.

Kinh nghiệm khai thác hiệu
quả nghệ thuật tu từ trong dạy Cấp phòng
học văn bản Ngữ văn THCS

Loại B


2004-2005

3.

Sử dụng đồ dùng trực quan
trong dạy học lịch sử lớp 7

Cấp phòng

Loại C

2006-2007

4.

Kinh nghiệm giáo dục học
sinh cá biêt lớp 8 trường
THCS Định Tân

Cấp phòng

Loại B

2016-2017

5.

Một số kinh nghiệm khai thác
nghệ thuật tu từ văn bản Ngữ Cấp phòng

văn THCS

Loại B

2017- 2018

16
SangKienKinhNghiem.net


17
SangKienKinhNghiem.net



×